- Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2007 tăng cao bên cạnh nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm tăng cao thì việc tăng giá xăng dầu hồi đầu tháng 11 đã khiến nhiều mặt hàng tăng giá theo, trong đó tiêu biểu là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng tới 4,38%. Giá xăng dầu hiện góp mặt vào CPI cả trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là thông qua chi phí sản xuất và trực tiếp là góp mặt vào rổ hàng hóa khi tính CPI. Hiện trong rổ hàng hóa, xăng dầu chiếm 2,58%. Ngày 25/2 vừa qua, giá xăng A92 trong nước tăng lên mức 14.500 đồng mỗi lít. Trong 5 năm qua, giá mặt hàng chiến lược này được điều chỉnh 19 lần, trong đó 5 lần giảm giá. Riêng từ đầu năm 2008 đến nay, giá xăng thế giới đã tăng 28% nhưng giá trong nước mới tăng bằng 81% mức tăng giá của thế giới. Giá thị trường thế giới liên tục tăng cao trong suốt thời gian từ đầu năm 2007 đến nay và vẫn trong xu thế tăng đã kéo giá trong nước tăng theo: đây là yếu tố khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới. Trong điều kiện quy mô của nền kinh tế nhỏ, độ mở của nền kinh tế ở đầu vào đặc biệt lớn khi ta so tổng kim ngạch nhập khẩu với GDP năm 2006 bằng 74,13%, năm 2007 bằng 82,85%; mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu đó, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu quá lớn như: xăng dầu 100%, phôi thép 65%-70%, nguyên liệu sản xuất thuốc 60%. mà đây lại là những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị trường trong nước làm biến động giá trong nước. Giá cả thế giới tăng cao, làm tăng chi phí đầu vào, tất yếu dẫn đến giá cả đầu ra tăng cao.
- Giá cả đầu vào còn tăng "kép", tức là không chỉ do bản thân giá cả tính bằng ngoại tệ tăng, mà còn do tỷ giá VND/ngoại tệ - nhất là nhập khẩu và thanh toán bằng các đồng euro, bảng Anh, yên Nhật, các đồng nội tệ của các nước trong khu vực.
32 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 1765 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dùng chung đã tăng 51%. Như vậy, sau 10 năm giá tiêu dùng tăng 51% thấp hơn tốc độ tăng của thu nhập bình quân đầu người của hộ gia đình; theo số liệu Tổng cục Thống kê thu nhập bình quân đầu người năm 2004 (484,4 nghìn đồng) tăng 64,2% so với năm 1999 (295,0 nghìn đồng). Điều đó chứng tỏ đời sống của người dân được cải thiện.
Bảng 1: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 1995 đến 2005
( nguồn: Tổng cục Thống kê)
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
96-05
Chỉ số giá tiêu dùng
1,127
1,045
1,036
1,092
1,001
0,994
1,008
1,04
1,03
1,095
1,084
1,51
Lương thực
1,206
1,002
1,004
1,231
0,921
0,921
1,060
1,026
1,029
1,143
1,078
1,45
Thực phẩm
1,193
1,163
1,021
1,086
1,005
0,993
1,002
1,079
1,029
1,171
1,12
1,88
Đồ uống và thuốc lá
1,193
1,160
1,021
1,053
1,026
1,003
1,011
1,036
1,035
1,036
1,049
1,51
May mặc, giày dép, mũ nón
1,078
1,032
1,032
1,023
1,019
1,004
1,008
1,011
1,034
1,041
1,05
1,28
Nhà ở và Vật liệu xây dựng
1,167
0,963
1,028
1,017
1,025
1,047
1,008
1,071
1,041
1,074
1,098
1,43
Thiết bị và đồ dùng gia đình
1,053
1,012
1,042
1,025
1,035
1,023
1,009
1,008
1,019
1,036
1,048
1,29
Dược phẩm, y tế
1,011
0,998
1,016
1,087
1,041
1,036
0,998
1,005
1,209
1,091
1,049
1,65
Phương tiện đi lại, bưu điện
1,05
1,032
1,08
1,03
1,016
1,019
0,953
1,017
0,98
1,059
1,091
1,30
Giáo dục
1,117
0,993
1,027
1,096
1,038
1,041
1,036
1,012
1,049
0,982
1,05
1,37
Văn hóa, thể, giải trí
1,117
0,993
1,027
1,013
1,019
1,009
1,002
0,99
0,987
1,022
1,027
1,09
Hàng hóa và dịch vụ khác
1,098
1,085
1,087
1,04
1,031
1,041
1,014
1,02
1,043
1,052
1,06
1,58
Chỉ số giá vàng
0,976
1,025
0,934
1,007
0,998
0,983
1,050
1,194
1,266
1,117
1,113
1,87
Chỉ số giá đô la Mỹ
0,994
1,012
1,142
1,096
1,011
1,034
1,038
1,021
1,202
1,004
1,009
1,71
Phân tích biến động giá cả theo 10 nhóm hàng xếp theo thứ tự nhóm có tốc độ tăng giá cao nhất đến thấp nhất như sau:
- Nhóm thực phẩm tăng 88%,
- Nhóm dược phẩm và dịch vụ y tế tăng 65%,
- Đồ ướng và thuốc lá tăng 51%,
- Lương thực tăng 45%,
- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 43%,
- Giáo dục tăng 37%,
- Phương tiện đi lại, bưu điện tăng 30%,
- Thiết bị và đồ dùng gia đình tăng 29%,
- May mặc, giày dép, mũ nón tăng 28%,
- Hàng hóa và dịch vụ khác tăng 58%
Ta nhận thấy trong 10 nhóm hàng trên, nhóm hàng thực phẩm và nhóm hàng dược phẩm và dịch vụ y tế có tốc độ tăng cao nhất; điều này có nghĩa là đời sống của nhóm người nghèo mà thu nhập của họ chủ yếu dùng mua thực phẩm không được cải thiện bao nhiêu.
Về mối quan hệ giữa ngọai thương và lạm phát: qua kinh nghiệm các nước và khu vực lãnh thổ NIC (Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore) cho thấy rằng các nước xây dựng chiến lược tăng trưởng kinh tế dựa vào xuất khẩu thường trải qua các giai đọan lạm phát theo chu kỳ với các giai đọan sau:
- Giai đọan 1 xuất khẩu dựa chủ yếu vào tài nguyên khóang sản, khi tích lũy một lượng lớn ngọai tệ (đất nước bớt đi một lượng hàng hóa, thêm một lượng tiền) thì chuyển qua lạm phát cùng với nhập siêu (bớt đi một lương tiền, thêm lượng hàng hóa chủ yếu là máy móc, nguyên liệu để chuyển sang giai đọan 2 xuất khẩu dựa vào thâm dụng lao động.
Bảng 2: Kim ngạch xuất khẩu, nhập khẩu hàng hóa 1995-2005
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
% tăng
BQ 1 năm (96-05)
Kim ngạch xuất khẩu
HH (tỷ USD)
5,45
7,25
9,19
9,36
11,54
14,48
15,03
16,71
20,15
26,49
32,45
20,1
% tăng so với năm trước
133,0
126,8
101,8
123,3
125,5
103,8
111,2
120,6
131,5
122,5
Kim ngạch nhập khẩu HH(tỷ USD)
8,16
11,14
11,60
11,52
11,62
15,64
16,22
19,75
25,26
31,97
36,76
19,9
Qua biểu số liệu kim ngạch xuất, nhập khẩu, người viết cho rằng nhập siêu giai đọan 1995 đến 1998 kèm với nó là chỉ số giá tiêu dùng hơi cao, chủ yếu là nhập tư liệu sản xuất, giúp cho những năm sau tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu: 1999 (23%), 2000 (25,4%); cùng với đó là tỷ lệ nhập siêu rất thấp; đây chính lúc kết thúc giai đọan xuất khẩu dựa chủ yếu vào tài nguyên và khóang sản. Và bắt đầu từ năm 2001, Việt Nam xuất khẩu chủ yếu dựa vào các ngành thâm dụng lao động đó là công nghiệp nhẹ và tiểu thủ công nghiệp với kim ngạch xuất khẩu tăng với tỷ lệ cao, cùng với nó là chỉ số gía tiêu dùng cũng có tăng cao.
Bảng 3: Cơ cấu kim ngạch xuất khẩu hàng hóa 1995-2005
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Hàng công nghiệp nặng và khóang sản (%)
25,3
28,7
28,0
27,9
31,0
37,2
34,9
31,8
32,2
36,4
33,8
Hàng công nghiệp nhẹ và TTCN (%)
28,5
28,9
36,7
36,6
36,3
33.8
35,7
40,6
42,7
41,0
40,3
Bảng 4: Cơ cấu kim ngạch nhập khẩu hàng hóa 1995-2005
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
Tư liệu sản xuất chiếm (%)
84,8
89,9
91,5
93,6
94,7
93,8
92,1
92,1
92,2
93,3
94,3
Xét yếu tố giá hàng nhập khẩu ảnh hưởng đến tình hình lạm phát, ta thấy các năm 1998, 1999, 2001, 2002 giá hàng nhập khẩu giảm trùng với tình hình thiểu phát các năm 1999, 2000. Các năm sau giá nhập khẩu tăng lên thì chỉ số giá tiêu dùng cũng tăng tương ứng. Như vậy, mối tương quan giữa chỉ số giá nhập khẩu và chỉ số giá tiêu dùng là khá chắc chắn.
Trong giai đọan 1996 đến 2005, chỉ số giá nhập khẩu tăng 18,8%; trong khi đó chỉ số giá tiêu dùng tăng 51%. Như vậy, chỉ số giá tiêu dùng tăng, ngòai yếu tố do giá hàng nhập khẩu, còn do xuất khẩu, do cung tiền và các yếu tố khác…
Bảng 5: Chỉ số giá hàng nhập khẩu từ 1995 đến 2005
( nguồn: Tổng cục Thống kê)
1995
1996
1997
1998
1999
2000
2001
2002
2003
2004
2005
96-05
Chỉ số chung
1,073
1,048
1,035
0,98
0,901
1,034
0,983
0,999
1,034
1,096
1,078
1,188
Hàng tiêu dùng nhập khẩu
1,065
1,025
1,031
0,973
0,953
0,965
0,976
0,978
1,011
1,008
1,022
0,94
Tư liệu sản xuất nhập khẩu
1,075
1,054
1,036
0,982
0,901
1,049
0,984
1,002
1,038
1,126
1,095
1,279
2. Tình hình biến động giá cả giai đoạn 2006 đến nay
2.1. Thực trạng:
Trong giai đọan 2006 đến tháng 3/2008 (27 tháng), chỉ số giá tiêu dùng đã tăng 31,1%; trong đó:
- Lương thực tăng 55,3%,
- Thực phẩm tăng 44,5%,
- Nhà ở và vật liệu xây dựng tăng 49,5%,
- Phương tiện đi lại tăng 27,6%,…
Chỉ số giá đã tăng với 2 con số từ giữa năm 2007 đến nay.
Bảng 6: Chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ 2005 đến 2008
( nguồn: Tổng cục Thống kê)
2005
2006
2007
3/2008
So
12/2007
Chỉ số giá quý I năm 2008 so với cùng kỳ năm 2007
Tháng 3/08
So
Tháng
12/05
Chỉ số giá tiêu dùng
1,084
1,066
1,1263
1,0919
1,1637
1,311
Lương thực
1,078
1,141
1,1540
1,1791
1,2152
1,553
Thực phẩm
1,120
1,055
1,2116
1,1308
1,2840
1,445
Đồ uống và thuốc lá
1,049
1,052
1,0678
1,0773
1,0696
1,210
May mặc, giày dép, mũ nón
1,050
1,058
1,0670
1,0842
1,0757
1,224
Nhà ở và Vật liệu xây dựng
1,098
1,059
1,1712
1,2061
1,1794
1,496
Thiết bị và đồ dùng gia đình
1,048
1,062
1,0515
1,0663
1,0578
1,191
Dược phẩm, y tế
1,049
1,043
1,0705
1,0806
1,0773
1,207
Phương tiện đi lại, bưu điện
1,091
1,040
1,0727
1,1434
1,1004
1,276
Giáo dục
1,050
1,036
1,0197
1,0212
1,0199
1,079
Văn hóa, thể, giải trí
1,027
1,035
1,0169
1,0438
1,0261
1,099
Hàng hóa và dịch vụ khác
1,060
1,065
1,0902
1,1283
1,1193
1,310
Chỉ số giá vàng
1,113
1,272
1,2735
1,1846
1,4042
1,919
Chỉ số giá đô la Mỹ
1,009
1,010
0,9997
0,9812
0,9942
0,991
Gía tăng chóng mặt, trong đó lương thực và thực phẩm tăng cao nhất, đã thực sự làm cho đời sống của tầng lớp dân cư cận nghèo và nghèo thực sự khốn đốn.
3.2. Nguyên nhân
3.1.1. Nguyên nhân khách quan:
Giá tiêu dùng tháng 12 năm 2007 tăng cao bên cạnh nguyên nhân chủ yếu là do giá lương thực, thực phẩm tăng cao thì việc tăng giá xăng dầu hồi đầu tháng 11 đã khiến nhiều mặt hàng tăng giá theo, trong đó tiêu biểu là nhóm phương tiện đi lại, bưu điện tăng tới 4,38%. Giá xăng dầu hiện góp mặt vào CPI cả trực tiếp và gián tiếp. Gián tiếp là thông qua chi phí sản xuất và trực tiếp là góp mặt vào rổ hàng hóa khi tính CPI. Hiện trong rổ hàng hóa, xăng dầu chiếm 2,58%. Ngày 25/2 vừa qua, giá xăng A92 trong nước tăng lên mức 14.500 đồng mỗi lít. Trong 5 năm qua, giá mặt hàng chiến lược này được điều chỉnh 19 lần, trong đó 5 lần giảm giá. Riêng từ đầu năm 2008 đến nay, giá xăng thế giới đã tăng 28% nhưng giá trong nước mới tăng bằng 81% mức tăng giá của thế giới. Giá thị trường thế giới liên tục tăng cao trong suốt thời gian từ đầu năm 2007 đến nay và vẫn trong xu thế tăng đã kéo giá trong nước tăng theo: đây là yếu tố khó tránh khỏi trong điều kiện nền kinh tế nước ta đã hội nhập với kinh tế thế giới. Trong điều kiện quy mô của nền kinh tế nhỏ, độ mở của nền kinh tế ở đầu vào đặc biệt lớn khi ta so tổng kim ngạch nhập khẩu với GDP năm 2006 bằng 74,13%, năm 2007 bằng 82,85%; mặt khác trong rổ hàng hóa nhập khẩu đó, tỷ trọng nhập khẩu nguyên liệu quá lớn như: xăng dầu 100%, phôi thép 65%-70%, nguyên liệu sản xuất thuốc 60%... mà đây lại là những mặt hàng thường bị “sốt” giá, nên mỗi khi những mặt hàng này “sốt” giá thì biến động giá ấy cũng kéo theo vào thị trường trong nước làm biến động giá trong nước. Giá cả thế giới tăng cao, làm tăng chi phí đầu vào, tất yếu dẫn đến giá cả đầu ra tăng cao.
Giá cả đầu vào còn tăng "kép", tức là không chỉ do bản thân giá cả tính bằng ngoại tệ tăng, mà còn do tỷ giá VND/ngoại tệ - nhất là nhập khẩu và thanh toán bằng các đồng euro, bảng Anh, yên Nhật, các đồng nội tệ của các nước trong khu vực...
Bên cạnh đó, các yếu tố bất khả kháng như thiên tai diễn biến phức tạp, dịch bệnh ở gia súc, gia cầm tuy được khống chế trong một số tháng qua, nhưng đã xuất hiện trở lại ở một số tỉnh và đang tiềm ẩn nguy cơ bùng phát dịch trở lại; giá thức ăn chăn nuôi, giống vật nuôi tăng cao cũng đã ảnh hưởng tới việc khôi phục và phát triển đàn gia súc, gia cầm; thời tiết không thuận lợi nên lượng đánh bắt hải sản giảm... dẫn đến nguồn cung thực phẩm thiếu hụt khiến giá một số thực phẩm vẫn ở mức cao. Quan hệ cung cầu về hàng hóa, dịch vụ ở trong nước có diễn biến khác với các năm trước. Sản lượng lương thực bị giảm do thời tiết, sâu bệnh, bão lũ, trong khi dân số vẫn tăng trên 1 triệu người; giá cả thế giới tăng khá nhanh, xuất khẩu lại vẫn giữ khối lượng như năm trước nên giá lương thực tăng cao là khó tránh khỏi. Đàn gia cầm chưa phục hồi so với đỉnh cao cách đây mấy năm, nay lại thường xuyên bị các dịch đe dọa; đàn gia súc tăng thấp, nay lại bị dịch lở mồm long móng rồi đến dịch lợn tai xanh... rình rập, trong khi giá thức ăn thì đắt lên gấp bội... Nhiều làng thuần nông mà có đến một nửa số hộ không nuôi lợn, bởi chăn nuôi lợn trong nhiều năm chỉ "lấy công làm lãi" hoặc như đem tiền bỏ ống mà thôi.
Nguyên nhân chủ quan:
Tuy nhiên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là do yếu tố khách quan, mà quan trọng hơn chính là do các yếu tố chủ quan, có tính nội tại của nền kinh tế. Cụ thể là, nếu lạm phát có nguyên nhân chủ yếu từ việc tăng giá thế giới thì các nước khác như Trung Quốc, Thái Lan, Malayxia... cũng đều phải chịu cú sốc tương tự. Tuy nhiên, lạm phát ở các nước này tính đến thời điểm hiện nay lại thấp hơn đáng kể so với Việt Nam (trong khi tỷ lệ lạm phát của Việt Nam năm 2007 lên tới 2 chữ số, thì Trung Quốc chỉ chịu lạm phát ở mức 6,5% và Thái Lan 2,9%).
Về nguyên nhân chủ quan, đại diện các Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Công Thương, Tài chính đều thừa nhận công tác phân tích dự báo còn nhiều hạn chế, chưa lường hết được sự biến động giá cả của thị trường thế giới, nhất là giá xăng dầu. Chính sách điều hành tiền tệ đã tác động nhất định đến chỉ số giá tiêu dùng. Dòng vốn đầu tư nước ngoài vào nhiều, tuy tạo cơ hội lớn cho phát triển kinh tế của đất nước, nhưng cũng đã gây sức ép tăng giá đồng Việt Nam, đồng thời góp phần làm tăng tổng phương tiện thanh toán; việc điều hành các công cụ tiền tệ để rút tiền từ lưu thông về nhằm trung hòa với lượng tiền đưa ra mua ngoại tệ chưa thật nhịp nhàng, ăn khớp đã tạo sức ép tăng giá. Tổng phương tiện thanh toán tăng nhanh và ở mức cao- tăng cao hơn so với kế hoạch đề ra khoảng 10%-14%. Tổng dư nợ cho vay năm 2007 ước tăng khoảng 10%-14% so với kế hoạch đề ra từ đầu năm.
Từ đầu năm 2007, về chính sách tiền tệ có hai biểu hiện đã làm tăng sức ép lạm phát. Thứ nhất, một lượng tiền lớn được cung ứng cho thị trường chứng khoán khi chỉ số giá chứng khoán "phi mã" hồi đầu năm để đạt đỉnh điểm vào 12/3 (1.170 điểm), đã vượt qua đỉnh sang dốc bên kia, hiện nay chỉ còn 940 điểm và đang có dự đoán sẽ còn giảm xuống nữa! Một phần tiền sẽ được quay về sau chỉ thị 03, một phần được đưa ra tham gia khi các đại gia IPO, một phần đưa ra mua vàng, mua bất động sản... và đưa vào lưu thông hàng hóa, dịch vụ thông thường, tạo sức ép tăng giá tiêu dùng. Thứ hai, nguồn vốn từ nước ngoài vào Việt Nam tăng mạnh. Tăng trưởng kinh tế liên tục và ở mức cao đòi hỏi lượng tiền đưa vào lưu thông cũng phải tăng lên tương ứng. Tuy nhiên, khi chênh lệch giữa mức tăng cung tiền và tăng tổng sản phẩm quốc gia (GDP) trở nên quá lớn thì áp lực lạm phát sẽ nảy sinh.
Về nguyên tắc, giá trị tính theo tiền của một mặt hàng luôn bằng lượng nhân với giá. Nếu giá trị tính theo tiền tăng lên, nhưng lượng hàng không tăng hay tăng chậm hơn, thì giá buộc phải tăng. Ta có thể hình dung GDP (sau khi loại bỏ yếu tố trượt giá) là tổng sản lượng sản xuất ra trong năm để phục vụ tiêu dùng cuối cùng, đầu tư hay ngoại thương. Còn mức cung tiền là tổng giá trị tính theo tiền. Mức cung tiền vượt GDP nhiều lần thì lạm phát tăng cao là điều không thể tránh khỏi. Như đã được đề cập, cung tiền ở Việt Nam tăng mạnh trong năm 2007 là do vốn nước ngoài chảy vào đột biến, từ đó buộc Ngân hàng phải đóng vai trò người mua ngoại tệ cuối cùng và đưa thêm tiền đồng vào lưu thông. Nhưng lạm phát bùng lên trong năm này có thể còn bắt nguồn từ mức chênh lệch giữa tăng trưởng GDP và tăng cung tiền cảu Việt Nam đã ngày một giãn rộng trong 3 năm qua.
Trong khỏang hai năm rưỡi, tính từ đầu năm 2005 đến tháng 6 năm 2007, GDP của Việt Nam tăng 22%, còn mức cung tiền mặt cho lưu thông và tiền gửi ngân hàng đã tăng lên đến 110%. Trong cùng giai đoạn này, GDP của Trung Quốc tăng 29%, nhưng mức cung tiền chỉ tăng 50%. Chênh lệch giữa tăng GDP và tăng cung tiền của Thái Lan hầu như không đáng kể.
Hình 3: So sánh tốc độ tăng trưởng cung tiền và tăng trưởng GDP của ba nước, lấy mốc năm 2004 bằng 100%. Cung tiền đo bằng M2 (gồm tổng tiền mặt và tiền gửi ngân hàng)
(Nguồn: Số liệu Thống kê tài chính quốc tế của Tổ chức Tiền tệ Quốc tế, riêng số liệu tăng trưởng GDP 6 tháng đầu năm 2007 của Việt Nam và Trung Quốc lấy từ nguồn Economist Intelligent Unit.)
Việt Nam tăng trưởng kinh tế thấp hơn so với Trung Quốc, nhưng tăng cung tiền lại cao hơn rất nhiều. Đó chính là lý do chính để giải thích tại sao lạm phát ở Việt Nam cao hơn hẳn những nước khác. Giá gạo hay giá dầu thế giới có tăng cao bao nhiêu, thì sức ép của các yếu tố này tới lạm phát ở Việt Nam, trung Quốc và Thái Lan là không thể khác nhau nhiều.
Sau đó Việt Nam lại sử dụng các biện pháp hút tiền từ lưu thông về ngân hàng (sau khi đưa tiền ra mua ngoại tệ tăng dự trữ ngoại hối), khống chế tỷ lệ cho vay chứng khoán không vượt quá 3% tổng dư nợ tín dụng, tăng gấp đôi tỷ lệ dự trữ bắt buộc... đưa ra rất chậm; lại chưa tạo được sự đồng thuận của các ngân hàng, các nhà đầu tư, các chuyên gia và một số phương tiện thông tin đại chúng.
Những yếu kém vốn có của nền kinh tế đã dồn tích từ nhiều năm nhưng chậm được xử lý, khắc phục. Cơ cấu kinh tế chậm cải thiện; công nghiệp khai thác tài nguyên và gia công vẫn chiếm tỷ trọng lớn, công nghiệp phụ trợ chậm phát triển, phần lớn vật tư, nguyên liệu trung gian cho sản xuất phải nhập khẩu; giá trị gia tăng sản xuất công nghiệp thấp. Tình trạng đầu tư từ nguồn vốn ngân sách nhà nước vẫn còn dàn trải, không bảo đảm tiến độ, còn nhiều thất thoát, hiệu quả thấp... kéo dài, chậm được khắc phục.
Chính sách tài chính, tiền tệ nới lỏng đã thực hiện trong nhiều năm liền nhưng quản lý chưa chặt chẽ.
Ðể thực hiện mục tiêu tăng trưởng, từ những năm sau cuộc khủng hoảng kinh tế ở châu Á (1997 - 1998), chúng ta đã thực hiện chính sách kích cầu bằng việc nới lỏng tín dụng, tăng chi tiêu ngân sách cho đầu tư... Chính sách này đã có tác dụng tích cực trong thời kỳ "thiểu phát", nhưng chưa được điều chỉnh kịp thời khi tình hình trong nước và thế giới đã thay đổi, nước ta gia nhập WTO, hội nhập ngày càng sâu rộng vào nền kinh tế thế giới, nhất là khi chỉ số giá tiêu dùng (CPI) có dấu hiệu tăng cao dần.
+ Chính sách tiền tệ:
Chính sách tiền tệ nới lỏng liên tục trong nhiều năm, nhất là trong năm 2007, làm tổng phương tiện thanh toán và tổng dư nợ tín dụng trong nền kinh tế tăng mạnh. Năng lực kiểm tra, giám sát của ngân hàng nhà nước chậm được tăng cường, không theo kịp tình hình khi các tổ chức tín dụng chuyển mạnh sang hoạt động theo cơ chế thị trường và hội nhập quốc tế, không kiểm soát có hiệu quả hoạt động của các ngân hàng thương mại, nhất là các ngân hàng thương mại cổ phần trong việc cho vay kinh doanh chứng khoán và kinh doanh bất động sản.
Thị trường tiền tệ có nhiều diễn biến bất thường nhưng việc phát hiện và cảnh báo còn chưa kịp thời. Hệ thống thông tin, số liệu phục vụ việc hoạch định chính sách còn yếu và chưa đủ độ chuẩn xác.
Chính sách tỷ giá thấp để khuyến khích xuất khẩu trong nhiều năm không kịp điều chỉnh phù hợp khi nền kinh tế Mỹ bắt đầu suy giảm, đồng USD giảm giá mạnh. Việc đồng VND được giữ giá trị cao so với đồng USD cùng với lãi suất trong nước cao... đã khuyến khích dòng vốn đầu tư gián tiếp nước ngoài đổ vào khá lớn nhưng chưa có biện pháp hấp thụ có hiệu quả.
Khi có tình hình xảy ra, việc ngân hàng nhà nước thực hiện đồng thời các giải pháp mạnh vào cùng một thời điểm: Tăng dự trữ bắt buộc, điều chỉnh tỷ lệ nợ cho vay đầu tư kinh doanh chứng khoán và bất động sản, tăng lãi suất chỉ đạo, phát hành tín phiếu bắt buộc đối với các ngân hàng thương mại, hạn chế mua, bán USD của tổ chức và cá nhân có nhu cầu... nhưng lại thiếu đồng bộ với các biện pháp khác,... tuy có góp phần ngăn chặn những biểu hiện tiêu cực trên thị trường tiền tệ, nhưng cũng gây khó khăn cho ngân hàng thương mại, tạo ra việc chạy đua nâng lãi suất huy động vốn, gây khó khăn cho sản xuất kinh doanh và xuất khẩu, ảnh hưởng đến tâm lý xã hội. Nhờ thực hiện một số biện pháp điều chỉnh, những ảnh hưởng tiêu cực này đã được khắc phục một phần.
+ Chính sách tài chính:
Chi tiêu ngân sách chưa thực sự tiết kiệm, bội chi còn cao, hiệu quả đầu tư từ khu vực nhà nước còn thấp.
Bội chi ngân sách trong nhiều năm liền liên tục giữ ở mức 5% GDP trong khi quy mô nền kinh tế ngày càng lớn. Tỷ lệ chi đầu tư từ khu vực nhà nước (ngân sách nhà nước, tín dụng nhà nước, doanh nghiệp nhà nước) lớn, nhưng hiệu quả thấp. Tình trạng đầu tư dàn trải, để nhiều công trình dở dang, chậm đưa vào khai thác, sử dụng, còn nhiều thất thoát, kém hiệu quả khá phổ biến đã kéo dài nhiều năm ở cả trung ương và địa phương chậm được khắc phục. Hệ số ICOR của nền kinh tế có xu hướng ngày càng cao.
Chủ trương thí điểm thành lập tập đoàn đa ngành chưa được nhận thức thống nhất để thực hiện tốt. Bên cạnh những kết quả đạt được về nhiều mặt, một số tập đoàn đã đầu tư rộng sang nhiều ngành, nghề, lĩnh vực không thuộc chuyên ngành, thế mạnh của mình, nhất là vào lĩnh vực tài chính, ngân hàng, bất động sản, chứng khoán... Những hoạt động đầu tư này đã gây khó khăn cho quản lý nhà nước đối với hoạt động của các tập đoàn, khó khăn cho ngân hàng nhà nước trong quản lý lưu thông tiền tệ, nếu không được khắc phục sẽ làm tăng tính đầu cơ trên thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, góp phần tăng thêm tình hình lạm phát nền kinh tế.
Vai trò của Nhà nước trong quản lý thị trường, giá cả, xuất nhập khẩu còn hạn chế, chưa có biện pháp điều chỉnh hợp lý.
+ Quản lý thị trường, giá cả, việc dự báo, điều hòa cung cầu, giá cả một số mặt hàng thiết yếu phục vụ sản xuất và đời sống trên thị trường chưa kịp thời, chưa đồng bộ, kém hiệu quả, dẫn tới tình trạng đầu cơ tăng giá.
+ Những hạn chế, yếu kém trong cơ cấu, chất lượng, sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu Việt Nam (chủ yếu xuất nguyên liệu, nông sản chưa qua chế biến sâu; sản phẩm công nghiệp phần lớn là gia công, lắp ráp trên cơ sở nguyên liệu, phụ tùng, thiết bị nhập khẩu, giá trị gia tăng thấp) chậm được khắc phục, bộc lộ sự yếu kém rõ hơn khi nền kinh tế thế giới có biến động, đồng USD mất giá, lãi suất cho vay trong nước cao...
+ Trong điều kiện phải thực hiện giảm thuế, mở cửa thị trường theo cam kết với WTO, nhưng cơ cấu sản xuất hàng xuất khẩu chậm được thay đổi, chưa có chính sách hướng dẫn tiêu dùng hợp lý, chưa tận dụng đầy đủ các hàng rào kỹ thuật và các công cụ thị trường cần thiết để hạn chế nhập khẩu những mặt hàng cần phải hạn chế, đã làm tăng thêm nhập siêu.
Hoạt động của thị trường chứng khoán và thị trường bất động sản còn nhiều hạn chế, vướng mắc.
+ Thị trường chứng khoán phát triển thiếu bền vững; số lượng doanh nghiệp niêm yết chưa nhiều, quy mô doanh nghiệp nhỏ, nhưng mức vốn hóa quá lớn, không phản ánh đúng giá trị thật của doanh nghiệp, đem lại những khoản lợi rất lớn cho công ty phát hành và nhà đầu tư chứng khoán lớn, đồng thời gây thiệt hại cho nhà đầu tư chứng khoán nhỏ, không chuyên nghiệp (chiếm số đông). Các biện pháp can thiệp để khắc phục đà tụt điểm sau thời kỳ tăng trưởng quá nóng của thị trường chứng khoán chậm phát huy tác dụng và chưa đem lại kết quả vững chắc. Nguồn vốn đầu tư gián tiếp của nước ngoài (FII) đổ vào rất lớn nhưng chưa được kiểm soát chặt chẽ.
+ Việc vay vốn của các tổ chức tín dụng và sự tham gia vào đầu tư bất động sản của nhiều tập đoàn, tổng công ty nhà nước, các doanh nghiệp lớn với nguồn vốn khá lớn chưa được kiểm soát chặt chẽ. Việc chống đầu cơ, đồng thời tháo gỡ vướng mắc cho sự phát triển lành mạnh thị trường bất động sản còn chưa có hiệu quả nên giá cả bất động sản, nhất là ở các đô thị lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh đã ở mức quá cao, vượt xa hơn nhiều giá trị thực, gây cản trở phát triển thị trường bất động sản lành mạnh, phát triển công nghiệp và góp phần đẩy chỉ số giá tăng cao.
4. Tác động
Lạm phát đang lan rộng trên phạm vi toàn cầu. Từ những khu vực yếu kém phát triển nhất thế giới như Châu Phi, tới những nền kinh tế đầu tầu như Nhật Bản và Mỹ, “cơn lốc” lạm phát đang thỏa sức hoành hành. Cùng với bối cảnh nền kinh tế bất ổn như vậy, kết hợp những yếu kém của nền kinh tế nước ta, tình trạng lạm phát ngày càng trở nên trầm trọng và ảnh hưởng đến nhiều mặt của nền kinh tế nước ta.
4.1. Mục tiêu “dân giàu” có giữ vững được trong tình hình hiện nay không?
Năm 2000 là thời điểm mà nền kinh tế Việt Nam rơi vào tình trạng giảm phát. Trước tình hình đó, từ năm 2004, chính phủ đã liên tục gia tăng cung tiền bằng cách in tiền.. Một lượng tiền lớn nhất trong vòng 12 năm qua được chính phủ “bơm” vào nền kinh tế cuối năm 2007 có thể coi như là một cái “ngưỡng” để các loại giá cả thi nhau leo thang. Những biến động bất lợi ngoài tầm dự đoán như vừa qua của kinh tế toàn cầu và giá cả thị trường thế giới đã tác động tiêu cực đến tăng trưởng và đến mặt bằng giá trong nước với mức độ mạnh hơn nhiều so với trước đây và so với nhiều nước khác.
Có nhiều người không nghĩ rằng lạm phát là một loại thuế. Thực tế, chẳng có ai nhận được chứng từ yêu cầu phải nộp loại thuế này từ chính phủ. Vậy ai là người nộp loại thuế lạm phát này? Chính người giữ tiền phải nộp thuế này. Việc in tiền để tạo nguồn thu cũng giống như việc áp dụng thuế lạm phát. Khi giá cả tăng, giá trị thực tế của số tiền trong túi bạn giảm xuống, sức mua của đồng tiền trong tay bạn bị giảm xuống.
Kinh tế Việt Nam trong những năm gần đây được cải thiện đáng kể và được ngân hàng phát triển Châu Á đánh giá, tăng trưởng kinh tế năm 2007 của nước ta đứng vào hàng các quốc gia có tốc độ tăng trưởng kinh tế cao trong khu vực. Không chỉ riêng tăng trưởng kinh tế đạt mức kỷ lục trong nhiều năm qua mà chỉ số giá tiêu dùng cũng tăng ở mức chưa từng có. Năm 2007, chỉ số tăng trưởng 8,48% so với chỉ số giá tiêu dùng 12,63% quả là có sự khập khiễng quá lớn. Điều này lý giải vì sao, mặc dù chính phủ đã không ngừng tăng lương trong thời gian trở lại đây, nhưng người làm công ăn lương vẫn cảm thấy chất lượng đời sống của mình ngày càng giảm sút ngay trong chi tiêu và sinh hoạt hàng ngày. Mấy tháng gần đây, hàng nghìn công nhâncác nhà máy dệt may ở ngoại vi thành phố HCM, nơi có vốn đầu tư của Mỹ, Hàn Quốc và Đài Loan, đã đình công đòi tăng lương cho kịp với tốc độ lạm phát.
Với tỷ lệ 80% dân số làm nghề nông thì nông dân là lực lượng đông nhất, nghèo nhất, nên tác động của lạm phát lên lực lượng này là lớn nhất, đặc biệt là ở những vùng bị thiên tai, dịch bệnh. Có một câu hỏi đặt ra là: giá lương thực, thực phẩm tăng thì nông dân sẽ được lợi chứ sao lại bị thiệt? Đó là xét về đầu ra, nhưng ở đầu vào giá vật tư nông nghiệp còn tăng cao hơn. Giá đầu ra tăng như thế, nhưng đó là giá cuối cùng, bởi người nông dân không trực tiếp bán cho người tiêu dùng mà c
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp kiềm chế lạm phát ở Việt Nam hiện nay.doc