MỤC LỤC
BẢN CAM KẾT 0
LỜI CẢM ƠN 0
MỤC LỤC 0
DANH MỤC BẢNG 0
DANH MỤC VIẾT TẮT 0
PHẦN MỘT: PHẦN MỞ ĐẦU 1
CHƯƠNG I: GIỚI THIỆU CHUNG 1
1. Lý do chọn đề tài 2
2. Giới hạn nghiên cứu 3
2.1. Đối tượng 3
2.2. Phạm vi 4
3. Mục đích, mục tiêu 4
3.1. Mụcđích 4
3.2. Mục tiêu 4
4. Phương pháp nghiên cứu 4
4.1. Phương pháp trực quan 4
4.2. Phương pháp lý luận 4
4.3. Phương pháp điều tra 4
5. Cấu trúc của đề tài 5
PHẦN HAI: PHẦN NỘI DUNG 6
CHƯƠNG II: TỔNG QUAN VỀ HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN UỶ NHIỆM CHI VÀ CÁC HÌNH THỨC TRONG THANH TOÁN KHÔNG DÙNG TIỀN MẶT. 6
1. Khái niệm Uỷ nhiệm chi 8
1.1. Đối tượng áp dụng 8
1.2. Phạm vi áp dụng 8
2. Quy trình thanh toán 8
2.1. Người trả tiền 8
2.2. Ngân hàng kiểm tra uỷ nhiệm chi 9
2.3. Nhận được chứng từ thanh toán 9
3. Khách hàng và lợi ích của khách hàng 9
4. Lịch sử nguồn gốc phát triển của đề tài Mở rộng và hoàn thiện hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi 10
5. Khái niệm và đặc điểm 10
5.1. Thanh toán không dùng tiền mặt: 11
5.2. Các hình thức cụ thể trong thanh toán 12
5.2.1. Thanh toán trong nội bộ ngân hàng 13
5.2.2. Thanh toán liên ngân hàng 15
5.2.3. Thanh toán quốc tế 16
5.2.3.1. Phương thức chuyển tiền 17
5.2.3.2. Phương thức uỷ thác thu hay nhờ thu 17
5.2.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ 17
5.2.3.4. Phương thức thư tín dụng 18
5.3. Thủ tục thanh toán trong nước 19
5.3.1. Thủ tục thanh toán: 19
5.2.2 Trình tự thực hiện 19
5.3.4. Hồ sơ 19
5.3.5. Thời hạn giải quyết: 19
5.3.6. Đối tượng thực hiện: 20
5.3.7. Cơ quan thực hiện 20
5.3.8. Căn cứ pháp lý 20
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 21
1. Sơ lược về phương pháp nghiên cứu 21
1.1. Đối tượng nghiên cứu 21
1.2. Phạm vi nghiên cứu 21
1.3. Phương pháp nghiên cứu 21
1.3.1. Phương pháp trực quan 21
1.3.2. Phương pháp lý luận 21
1.3.3. Phương pháp điều tra 21
1.4. Kế hoạch nghiên cứu 21
2. Tiến hành nghiên cứu 22
2.1. Tiến hành nghiên cứu trực quan 22
2.2. Tiến hành nghiên cứu lý luận 22
2.3. Phương pháp thu thập, điều tra dữ liệu 22
3. Kết quả nghiên cứu: 22
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN UỶ NHIỆM CHI TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN NÔNG CỐNG TỈNH THANH HOÁ. 23
1. Thực trạng thanh toán bằng tiền mặt ở chi nhánh. 23
2. Nguyên nhân 26
3. Gỉải pháp mở rộng thanh toán uỷ nhiệm chi 28
4. Đánh giá 31
4.1. Những tiêu cực 31
Hạn chế 32
4. 2. Đánh giá tích cực 32
4.2.1. Cơ hội 32
4.2.2 Tiềm năng: 32
PHẦN BA: PHẦN KẾT LUẬN 33
CHƯƠNG V: KẾT LUẬN - ĐỀ XUẤT VÀ KIẾN NGHỊ. 33
1. Kết luận 33
2. Ý nghĩa 33
3. Một số kiến nghị 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 35
39 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2110 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp mở rộng và hoàn thiện hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi tại chi nhánh Ngân Hàng Nông Nghiệp Và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống Tỉnh Thanh Hoá, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện thanh toán có thể sử dụng tiền đủ giá (vàng) hoặc dấu hiệu giá trị. Trở ngại chính của tiền giấy và tiền kim loại là chúng dễ bị đánh cắp và có thể tốn nhiều chi phí vận chuyển; để khắc phục nhược điểm này, cùng với bước phát triển của hệ thống thanh toán là sự ra đời của séc trong hoạt động của Ngân hàng hiện đại. Điều này cải tiến một bước rất quan trọng trong thanh toán, nâng cao hiệu quả thanh toán. Chúng có thể được sử dụng bù trừ trong thanh toán, giảm chi phí vận chuyển và đặc biệt là nó an toàn, ghi theo số lượng tiền tuỳ ý. Tuy nhiên, nó có hai nhược điểm cơ bản: thanh toán chậm do không được ghi “Có” ngay vào tài khoản người thụ hưởng và chi phí in ấn, quản lý còn cao.
Hình thức thanh toán là tổng thể các quy định về một cách thức trả tiền, là sự liên kết các yếu tố của quá trình thanh toán. Các hình thức cụ thể:
5.2. Các hình thức cụ thể trong thanh toán
Ủy nhiệm chi: là một hình thức thanh toán khá phổ biến trong môi trường kinh tế các nước khi bắt đầu chuyển sang kinh tế thị trường. Việc chuyển nợ có uỷ quyền như các doanh nghiệp nhờ Ngân hàng trả lương vào Tài khoản của công nhân, việc nộp các loại phí bảo hiểm… cũng là một dịch vụ thanh toán mới tương tự như ủy nhiệm nhưng hình thức luân chuyển thông tin có thể là đĩa hoặc băng từ hay qua mạng viễn thông.
Ủy nhiệm thu: ủy nhiệm thu do người thụ hưởng lập gửi vào Ngân hàng phục vụ mình để thu tiền hàng đã giao hay dịch vụ đã cung ứng, thông thường là các dịch vụ điện, nước, điện thoại.
Các loại séc chuyển khoản, bảo chi, định mức, chuyển tiền do người mua phát hành để trả tiền hàng hoá, dịch vụ.
Ngân phiếu thanh toán: Thực chất là một lệnh trả tiền đặc biệt của chủ sở hữu nào đó, việc trả tiền thực hiện theo đúng chứng từ thanh toán có tên Ngân phiếu thanh toán.
Thư tín dụng: Đối với thanh toán trong nước được sử dụng ít, chủ yếu được sử dụng trong việc thực hiện các nghiệp vụ kinh doanh xuất nhập khẩu hàng hoá và dịch vụ.
Các loại thẻ thanh toán: Thẻ thanh toán do Ngân hàng phát hành bán cho khách hàng sử dụng để trả tiền hàng hoá, dịch vụ, các khoản thanh toán khác, rút tiền mặt tại các Ngân hàng đại lý thanh toán hay các quầy rút tiền tự động.
Thúc đẩy thanh toán điện tử trong người tiêu dùng. “Trong thời gian vừa qua, việc sử dụng thẻ thanh toán đã tăng trưởng theo cấp số nhân tại Việt Nam. Tin tưởng rằng, người tiêu dùng Việt... Visa đã và đang thúc đẩy những phương thức thanh toán phi tiền mặt tại Việt Nam. Ngoài việc phối hợp với Ngân hàng Nhà nước đưa ra các giải pháp thẻ thanh toán thương mại trong khu vực Chính phủ. Nhằm mục đích thúc đẩy thanh toán phi tiền mặt, tạo thói quen mua sắm hàng hoá bằng thẻ.
Để khắc phục nhược điểm của séc, cùng với phát triển của máy tính điện tử và hệ thống viễn thông, trong mấy thập kỷ qua hệ thống thanh toán được cải tiến và hoàn thiện, chuyển sang một hệ thống mới với các khái niệm mới: “Tiền điện tử”, “Ví điện tử”, “Thẻ thanh toán”, “Hệ thống chuyển khoản điện tử”. Ngoài ra, ở nhiều nước đã tổ chức hệ thống chuyển tiền liên Ngân hàng (thanh toán bù trừ liên Ngân hàng), được dùng để thanh toán liên Ngân hàng trong phạm vi quốc gia và quốc tế. Việc thanh toán cũng được thực hiện không chỉ tại các Chi nhánh Ngân hàng mà hàng loạt kênh giao dịch mới ra đời: ATM, KIOSK, PC, Telephone, Mobile phone.
Khi Internet ra đời, việc giao lưu kinh tế được thuận lợi hơn bao giờ hết, nó không bị giới hạn bởi không gian và thời gian. Nhờ đó, các giao dịch mua bán hàng hóa (vật chất hoặc nội dung hoặc các dịch vụ) được thực hiện gần như tức thời. Vấn đề nảy sinh cần được nghiên cứu và giải quyết là: xác nhận về người mua người bán, xác nhận về giao dịch, các quy định về thủ tục hải quan liên quan đến xuất nhập khẩu/vấn đề bảo hiểm và vận chuyển hàng hóa (nếu có), cơ sở để xử lý tranh chấp v v… và đặc biệt là vấn đề thanh toán. Thanh toán điện tử trong thương mại điện tử là vấn đề rất phức tạp, đa dạng liên quan đến pháp lý, kinh tế, tiền tệ và kỹ thuật trong việc đạt được mục tiêu “Nhanh chóng – Chính xác – An toàn”.
5.2.1. Thanh toán trong nội bộ ngân hàng
Ngân hàng là một loại hình doanh nghiệp đặc biệt kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và dịch vụ. Chức năng làm trung gian thanh toán của Ngân hàng Thương mại thực chất là Ngân hàng làm thủ quỹ, thực hiện các nhiệm vụ uỷ quyền của khách hàng.
Trong các loại nghiệp vụ Ngân hàng, vai trò làm trung gian thanh toán cho nền kinh tế là một nghiệp vụ rất quan trọng, nó có lịch sử gắn liền với lịch sử hình thành và phát triển của hệ thống Ngân hàng cũng như có vai trò to lớn trong việc thúc đẩy sản xuất và lưu thông hàng hoá phát triển. Các giao dịch thanh toán của khách hàng và nội bộ ngân hàng (đổi tiền, đầu cơ, đầu tư, quyết toán thanh toán…) thực hiện dưới hình thức tiền mặt, chuyển khoản (trong hệ thống) hoặc chuyển tiền (liên ngân hàng).
Trước đây, do điều kiện cơ sở hạ tầng kỹ thuật khó khăn, việc thanh toán của khách hàng trong một hệ thống Ngân hàng thường được quản lý và xử lý phân tán trên cơ sở chứng từ và luân chuyển qua bưu điện. Sau đó, khi có điện thoại và telex, các Ngân hàng sử dụng việc chuyển tiền bằng điện báo của bưu điện. Những giao dịch này bắt đầu và kết thúc không đồng thời, do đó, các ngân hàng phải tổ chức hệ thống thanh toán trong nội bộ (intrabank payment). Hệ thống thanh toán này phù hợp với mô hình quản lý phân tán và thời gian hoàn tất một giao dịch từ một cho đến 15 ngày (điều kiện Việt Nam). Khi máy tính ra đời, nhiều Ngân hàng thương mại lớn đã thực hiện việc kết nối máy tính giữa Trụ sở chính với các Chi nhánh, sử dụng các máy tính lớn (mainframe) và trạm làm việc (terminal). Đồng bộ với nó là hệ thống quản lý và xử lý tập trung các giao dịch của các khách hàng. Các nghiệp vụ thanh toán giữa các khách hàng trong một hệ thống ngân hàng được thực hiện dưới hình thức chuyển khoản (books transfer), ghi “Nợ” và ghi “Có” tức thì cho khách hàng. Việc quản lý tài khoản khách hàng, xử lý giao dịch tập trung cho phép thực hiện các giao dịch trực tuyến (online), tức thời (real time), giảm tối đa các rủi ro trong thanh toán và tối ưu hóa trong quản lý vốn của ngân hàng và khách hàng.
Cùng với sự phát triển của hệ thống kỹ thuật và đổi mới cấu trúc kinh doanh của ngân hàng, việc “bán” các dịch vụ thanh toán cũng từng bước được củng cố và phát triển về lượng và chất. Trước đây, khách hàng muốn thực hiện giao dịch phải đến chi nhánh ngân hàng nơi mở tài khoản, tới quầy giao dịch gặp các nhân viên kế toán chuyên trách theo từng công đoạn của một sản phẩm thanh toán (séc, ủy nhiệm chi, thanh toán liên ngân hàng…). Ngày nay, công nghệ đã trợ giúp cho việc tích hợp các sản phẩm dịch vụ của ngân hàng. Do tài khoản khách hàng được quản lý tập trung nên khách hàng có thể đến bất kỳ chi nhánh nào, đến bất cứ quầy giao dịch nào để thực hiện bất kỳ giao dịch nào. Thậm chí, khách hàng có thể tự thực hiện giao dịch trên các máy trạm của ngân hàng hay sử dụng các loại thẻ thanh toán tại các điểm bán lẻ POS, máy ATM, PC, telephone, Internet để thực hiện các giao dịch với khách hàng khác có mở tài khoản tại hệ thống ngân hàng đó hay ở hệ thống ngân hàng khác một cách linh hoạt và tiện lợi.
5.2.2. Thanh toán liên ngân hàng
Trong quan hệ thanh toán trong nước và thanh toán quốc tế, các Ngân hàng có thể ký kết các văn bản thoả thuận về việc thanh toán bù trừ giữa hai bên hoặc nhiều bên về thanh toán tiền nội địa hay thanh toán bù trừ về ngoại tệ. Các Ngân hàng mở tài khoản tại tiền gửi thanh toán cho nhau, quy định về loại tiền, hạn mức thấu chi, thời gian thấu chi, tất toán theo định kỳ, cách tính lãi … Đặc điểm thuận lợi là có thể tận dụng các thế mạnh trong thanh toán cho nhau ở những nơi Ngân hàng này chưa có chi nhánh nhưng Ngân hàng khác có lợi thế về ngoại tệ của mỗi Ngân hàng khác nhau, đảm bảo thanh toán nhanh chóng. Nó rất thuận lợi cho nhóm Ngân hàng lớn trong việc quản lý điều hành vốn tập trung tại trụ sở chính trong khi chưa thể mở rộng thanh toán bù trừ đa biên, tăng khả năng đảm bảo thanh toán, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn với mức tối ưu trước khi phải vay mượn trên thị trường tiền tệ hay vay chiết khấu tại Ngân hàng Trung ương.
Hiện nay, việc tổ chức thanh toán bù trừ song biên do các ngân hàng tự thỏa thuận và quyết toán thanh toán qua tài khoản tại Ngân hàng Nhà nước. Ngân hàng Nhà nước chịu trách nhiệm chính trong tổ chức thanh toán bù trừ chứng từ và bù trừ điện tử liên ngân hàng. Đối với thanh toán quốc tế có Ngân hàng thanh toán quốc tế – IBS tổ chức bù trừ. Đặc biệt, đến đầu năm 2004, 55 ngân hàng thành viên (trong đó có 11 Ngân hàng trung ương) của CLS bank (Continuous Linked Settlement) đã tham gia mạng bù trừ đa tiền tệ (CAD, USD, EUR, JNY, GB, CHF và dự kiến sẽ có thêm 7 loại tiền nữa) nhằm giảm rủi ro, cung cấp tiện ích quản lý vốn trong ngày, tăng tính lỏng của vốn tiền tệ, giảm lỗi và giảm phí giao dịch.
Bù trừ qua mạng ATM, POS: Trong thập kỷ 80, một số Ngân hàng lớn thường đầu tư riêng cho mình một hệ thống ATM, các khách hàng của Ngân hàng nào chỉ được sử dụng thẻ tại các máy ATM của Ngân hàng đó. Sau này, các Ngân hàng đều nhận thấy việc sử dụng chung hệ thống thiết bị là tiết kiệm và cũng không ảnh hưởng lớn đến cạnh tranh nên cùng nhau góp vốn xây dựng các trung tâm xử lý thẻ hoặc sử dụng kỹ thuật để cùng khai thác mạng ATM của các Ngân hàng kết nối với nhau. Trung tâm xử lý thẻ có trách nhiệm quản lý hệ thống và xác định các giao dịch của mỗi Ngân hàng làm căn cứ thanh toán bù trừ về vốn cũng như phân bổ chi phí. Trên cơ sở liên kết giữa các Ngân hàng trong việc phát triển mạng lưới ATM, việc giao dịch và thanh toán của các khách hàng và Ngân hàng được mở rộng một cách nhanh chóng.
Ngân hàng Agribank Huyện Nông Cống đã có một trạm ATM rút tiền và còn có các loại thẻ VISA, MASTER, AMERICA EXPRESS, JCB CARD… là các loại thẻ tín dụng, thanh toán cho cá nhân trên phạm vi quốc gia và quốc tế. Các khách hàng có thể tham gia làm thành viên các tổ chức phát hành các loại thẻ nói trên, khách hàng có thể nhận cung ứng hàng hoá, dịch vụ trong khoảng thời gian 24h/24 giờ/1 ngày, 7/7 ngày trong tuần, thanh toán trong nước (POS, EDP, ATM) cũng như tại các chi nhánh, đại lý .
5.2.3. Thanh toán quốc tế
Trong việc tổ chức thanh toán giữa các tổ chức tín dụng ở các quốc gia khác nhau để thực hiện các khoản thu chi liên quan đến hoạt động kinh tế chính trị – xã hội đều diễn ra qua việc xử lý các giấy tờ thanh toán nhất định gọi là nghiệp vụ thanh toán quốc tế.
5.2.3.1. Phương thức chuyển tiền
Trong thanh toán quốc tế, một khách hàng (người trả tiền) có thể yêu cầu Ngân hàng phục vụ mình chuyển một số tiền cho một người khác (người thụ hưởng) ở một địa điểm nhất định bằng hai cách: Chuyển tiền điện hay chuyển tiền bằng thư. Phân biệt nội dung 2 cách này là thời gian nhanh hay chậm, phí cao hay thấp. Nếu khách hàng chuyển tiền ra nước ngoài thì việc thanh toán thực hiện bằng ngoại tệ, nó được sử dụng chủ yếu trong thanh toán phi mậu dịch, các dịch vụ liên quan đến xuất nhập khẩu hàng hoá…
5.2.3.2. Phương thức uỷ thác thu hay nhờ thu
Đây là phương thức thanh toán, trong đó người xuất khẩu sau khi hoàn tất nghĩa vụ xuất chuyển hàng hoá cho người nhập khẩu thì uỷ thác cho Ngân hàng phục vụ mình thu hộ số tiền ở người nhập khẩu trên cơ sở hối phiếu do mình lập ra. Phương thức nhờ thu gồm nhờ thu phiếu trơn và nhờ thu kèm chứng từ.
5.2.3.3. Phương thức tín dụng chứng từ
Trên cơ sở hợp đồng Thương mại đã ký kết, người nhập khẩu lập thủ tục xin mở thư tín dụng.
Ngân hàng mở thư tín dụng thông báo nội dung và chuyển thư tín dụng qua Ngân hàng phục vụ người xuất khẩu là Ngân hàng thông báo.
Ngân hàng thông báo, báo tín cho người xuất khẩu về nội dung thư tín dụng đã mở.
Người xuất khẩu nếu thấy nội dung thư tín dụng phù hợp yêu cầu cần thì tiến hành xuất hàng hoá cho người nhập khẩu.
Sau khi xuất chuyển hàng hoá, người xuất khẩu lập bộ chứng từ thanh toán gửi Ngân hàng mở thư tín dụng (qua Ngân hàng thông báo).
Ngân hàng mở thư tín dụng kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp thì thanh toán cho người xuất khẩu.
Ngân hàng mở thư tín dụng đòi tiền người nhập khẩu và chuyển giao bộ chứng từ cho người nhập khẩu.
Người nhập khẩu kiểm tra bộ chứng từ, nếu thấy phù hợp với thư tín dụng thì hoàn trả tiền cho Ngân hàng, nếu không, có quyền từ chối trả tiền.
5.2.3.4. Phương thức thư tín dụng
Là một sự thỏa thuận, trong đó một Ngân hàng theo yêu cầu của khách hàng, sẽ trả một số tiền nhất định, cho một người thứ ba hoặc chấp nhận hối phiếu do người thứ ba ký phát trong phạm vi số tiền đó, khi người thứ ba này xuất trình cho Ngân hàng bộ chứng từ thanh toán phù hợp với những quy định đã đề ra trong thư tín dụng. Các loại thư tín dụng Thương mại chủ yếu gồm: Thư tín dụng có thể huỷ ngang; Thư tín dụng không thể huỷ ngang; Thư tín dụng không thể huỷ bỏ có xác nhận; Thư tín dụng chuyển nhượng. Đây là một nghiệp vụ được các Ngân hàng đặc biệt quan tâm nhằm đáp ứng nhu cầu kinh doanh của khách hàng trong điều kiện quốc tế hoá thị trường hiện nay.
Ngoài những phương thức trên, ngân hàng còn thực hiện các nghiệp vụ thanh toán khác (biên lai tín thác), hoặc thực hiện các nghiệp vụ bảo lãnh thanh toán, chiết khấu bộ chứng từ thanh toán…. Việc thực hiện giao dịch có thể qua đường thư, telex hoặc mạng máy tính qua hệ thống SWIFT (Society for Worldwide Interbank Financial Telecommunication): Hiệp hội tài chính viễn thông liên Ngân hàng toàn cầu. SWIFT được thành lập năm 1973 và đi vào hoạt động chính thức từ cuối năm 1977, trụ sở chính đặt tại thủ đô Bruxelles của nước Bỉ.
SWIFT là hiệp hội của các Ngân hàng với mạng lưới viễn thông an toàn, tiết kiệm và hiệu quả cao, quy mô hoạt động trên toàn thế giới. Đến nay đã có gần trên 150 thành viên quốc gia với hơn 4000 ngân hàng thành viên góp cổ phần, (không kể các thành viên phụ).
SWIFT là tổ chức hoạt động không vì lợi ích tự thân, cung cấp cho các Ngân hàng thành viên một mạng riêng để chuyển giao dữ liệu trên phạm vi toàn cầu, xử lý các giao dịch liên Ngân hàng quốc tế với các đặc điểm cơ bản: tiêu chuẩn (Standard), an toàn (Security), trách nhiệm tài chính (Finacial Liablity), hợp tác (Cooperation).
Khi nói đến SWIFT, thường hay nhắc đến việc tiêu chuẩn hoá. SWIFT sử dụng các tiêu chuẩn quốc tế (International Standard Organization – ISO), ngược lại, ISO cũng cố gắng sắp xếp định dạng các bức điện trong thanh toán liên ngân hàng phù hợp với các khuôn mẫu do SWIFT đã đưa ra. Tất nhiên, các tiêu chuẩn của SWIFT cũng có quan hệ rất chặt chẽ với các quy chế của phòng Thương mại quốc tế Paris.
5.3. Thủ tục thanh toán trong nước
5.3.1. Thủ tục thanh toán:
Thủ tục thanh toán trong nước - Thanh toán bằng Ủy nhiệm chi:
5.2.2 Trình tự thực hiện
Bước 1: Khách hàng lập Ủy nhiệm chi theo mẫu quy định gửi Phòng Kế toán ngân quỹ .
Bước 2: Phòng Kế toán ngân quỹ Ngân Hàng tiếp nhận hồ sơ, kiểm tra các thông tin có liên quan đến quá trình thanh toán của khách hàng. Nếu đủ điều kiện thanh toán theo quy định thì Phòng Kế toán ngân quỹ tiến hành thực hiện thanh toán theo lệnh của khách hàng và ghi Nợ, ghi Có vào tài khoản thích hợp. Nếu không đủ điều kiện thanh toán theo quy định thì Phòng Kế toán ngân quỹ trả lại chứng từ cho khách hàng, từ chối thanh toán và nêu rõ 5.3.3 Cách thực hiện
Trực tiếp tại trụ sở Sở giao dịch hoặc trụ sở chi nhánh, Phòng giao dịch .
5.3.4. Hồ sơ
Thành phần hồ sơ
Ủy nhiệm chi (03 liên)
Số lượng hồ sơ: 01 bộ
5.3.5. Thời hạn giải quyết:
Ngay trong ngày nếu đủ điều kiện thanh toán.
5.3.6. Đối tượng thực hiện:
Cá nhân; Tổ chức
5.3.7. Cơ quan thực hiện
Cơ quan có thẩm quyền quyết định: Giám đốc Ngân Hàng cấp tỉnh, cấp huyện.
Cơ quan hoặc người có thẩm quyền được uỷ quyền hoặc phân cấp thực hiện (nếu có):
Cơ quan trực tiếp thực hiện: Phòng Kế toán Ngân quỹ NHCSXH cấp tỉnh, cấp huyện.
Cơ quan phối hợp (nếu có).
Phí dịch vụ thanh toán theo biểu phí
5.3.8. Căn cứ pháp lý
Nghị định số 64/2001/NĐ-CP ngày 20/9/2001 của Chính phủ về hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Quyết định số 16/2003/QĐ-TTg ngày 22/01/2003 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt Điều lệ về tổ chức và hoạt động của Ngân hàng Chính sách xã hội.
Quyết định 226/2002/QĐ - NHNH ngày 26/3/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc Ban hành Quy chế hoạt động thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán.
Quyết định số 1092/2002/QĐ-NHNN ngày 08/10/2002 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy định thủ tục thanh toán qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. về việc Hướng dẫn nghiệp vụ thanh toán trong hệ thống ngân hàng.
( thiếu 3 tác phẩm nghiên cứu, mỗi tác phẩm phân tích theo 3 mục tiêu: tóm tắt tp, đóng góp, hạn chế)
CHƯƠNG III: PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU
1. Sơ lược về phương pháp nghiên cứu
1.1. Đối tượng nghiên cứu
Uỷ nhiệm chi thuộc hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, cùng với các hình thức thanh toán bằng séc, chuyển tiền điện tử, uỷ nhiệm thu, yhư tín dụng, thẻ thanh toán, ngân phiếu thanh toán.
1.2. Phạm vi nghiên cứu
Uỷ nhiệm chi hoặc lệnh chi được áp dụng trong thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, nộp thuế, trả nợ hoặc chuyển tiền của người sử dụng dịch vụ thanh toán tại một chi nhánh Ngân Hàng, hoặc giữa các chi nhánh ngân hàng cùng hoặc khác hệ thồng trong phạm vi cả nước.
( phạm vi thời gian?)
1.3. Phương pháp nghiên cứu
1.3.1. Phương pháp trực quan
Dùng phương pháp này chúng ta chỉ mới quan sát được thực tế rất ít những việc làm trong ngân hàng, ngân hàng có nhiều công việc cần độ bảo mật cao, dùng phương pháp này sẽ kém phần hiệu quả. ( quan sát ở đâu? Khi nào?)
1.3.2. Phương pháp lý luận
Dùng thông tin từ những nguồn khác để phân tích như các bảng mẫu, các giấy tờ có liên quan đến quy trình thanh toán trong kinh doanh tiền tệ của ngân hàng thương mại. ( nguồn gốc các thông tin lấy từ đâu?)
1.3.3. Phương pháp điều tra
Sau đó lên kế hoạch điều tra để tiện cho việc nghiên cứu và là cơ sở dữ liệu tập trung và sử dụng các ứng dụng công nghệ thông tin vào trong quản lý của Ngân Hàng.
Phương pháp thu thập dữ liệu:
Lấy số liệu từ Ngân Hàng mà sinh viên thực tập. ( số liệu minh họa đâu?)
1.4. Kế hoạch nghiên cứu
Kế hoạch nghiên cứu được thực hiện trong thời gian thực tập tại ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống.
Từ ngày 07/3/2011 đến ngày 16/5/2011.
Kế hoạch nghiên cứu là khoảng thời gian thực tập tại Ngân Hàng, dựa trên phương pháp nghiên cứu được áp dụng tại ngân hàng.
2. Tiến hành nghiên cứu
2.1. Tiến hành nghiên cứu trực quan
Cảm nhận , quan sát sự thay đổi hàng ngày của nền kinh tế với hướng phát triển vượt bậc ảnh hưởng tới quá trinh công nghiệp hóa, hiện đại hóa .
Mục đích: Tìm ra các cách thức thanh toán mà người dân địa phương áp dụng.
2.2. Tiến hành nghiên cứu lý luận
Thu thập thông tin dữ liệu liên quan tới hoạt động thanh toán trong ngân hàng, từ đó tìm ra nét riêng trong các hình thức thanh toán tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Huyện Nông Cống_ Tỉnh Thanh Hóa.
2.3. Phương pháp thu thập, điều tra dữ liệu
Được tiến hành trong suốt thời gian thực tập từ ngày 07.3 đến ngày 16.5 tại chi nhánh, sau đó là tình hình khảo sát thực tế tại các hộ gia đình. Ngoài ra còn tham khảo tại sách báo, mạng internet.
3. Kết quả nghiên cứu:
Qua quá trình thực tập tại Ngân Hàng đã thu thập được những số liệu, chứng từ có liên quan đến hoạt động thanh toán uỷ nhiệm chi kết quả được trình bày hết trong báo cáo thực tập.
CHƯƠNG IV: MỘT SỐ GIẢI PHÁP GÓP PHẦN MỞ RỘNG HOẠT ĐỘNG THANH TOÁN UỶ NHIỆM CHI TẠI CHI NHÁNH NGÂN HÀNG NÔNG NGHIỆP VÀ PHÁT TRIỂN NÔNG THÔN HUYỆN NÔNG CỐNG TỈNH THANH HOÁ.
1. Thực trạng thanh toán bằng tiền mặt ở chi nhánh. ( chương 4 làm lại toàn bộ theo đúng đề cương mẫu)
Theo khảo sát của cơ quan chức năng vào năm 2003 cho thấy thanh toán bằng tiền mặt còn rất phổ biến. Tiền mặt vẫn là phương tiện thanh toán chiếm tỷ trọng lớn trong khu vực doanh nghiệp và chiếm đại đa số trong các giao dịch thanh toán của khu vực dân cư. Tại 740 doanh nghiệp Việt Nam ở cả 3 miền Bắc, Trung, Nam thì các doanh nghiệp tư nhân có trên 500 công nhân có khoảng 63% số giao dịch của họ được tiến hành qua hệ thống ngân hàng; những doanh nghiệp có ít hơn 25 công nhân thì tỷ lệ này là 47%; với doanh nghiệp nhà nước mới chỉ hơn 80% giao dịch được thực hiện qua ngân hàng; hầu hết các doanh nghiệp cả nhà nước lẫn tư nhân đều trả lương bằng tiền mặt. Tại các hộ kinh doanh thì 86,2% số hộ kinh doanh vẫn chi trả hàng hoá bằng tiền mặt; 75% số hộ kinh doanh chi trả dịch vụ bằng tiền mặt; 72% số hộ kinh doanh tư nhân nộp thuế bằng tiền mặt; số người sử dụng dịch vụ ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, lao động ở khu vực có vốn đầu tư nước ngoài, nhân viên công sở có thu nhập cao và ổn định. Từ năm 2001 đến nay, tỷ trọng tiền mặt được sử dụng trong thanh toán so với tổng phương tiện thanh toán năm 2001 là 23,7%; năm 2004 là 20,3%; năm 2005 là 19%; năm 2006 là 17,21%, năm 2007 là 16,36%, năm 2008 là 14,6%; tuy tỷ trọng hàng năm đã giảm nhưng còn ở mức cao hơn so với thế giới; tỷ trọng này ở các nước tiên tiến như Thụy Điển là 0,7%, Na Uy là 1%, còn Trung Quốc là nước phát triển trung bình nhưng cũng chỉ ở mức là 10%.
Các phương thức thanh toán không dùng tiền mặt chưa thuận tiện
Theo tác giả Đặng Đức Anh trong bài “Dịch vụ tài chính – ngân hàng Việt Nam trước ngưỡng cửa hội nhập” đăng tải trên Tạp chí Thông tin và Dự báo kinh tế – xã hội số 11/2006, tỷ trọng giá trị thanh toán bằng các phương tiện thanh toán (%) như sau:
Ví dụ: Nguồn báo cáo kết quả kinh doanh trong ba năm gần đây (đơn vị: triệu đồng).
Chỉ tiêu
31/12/2008
31/12/2009
31/12/2010
Tổng nguồn
6998,097
8253,248
7451,045
Nguồn ngăn hạn
4901,920
5612,334
5316,156
Nguồn trung .dài hạn
2096,177
2649,914
2134,889
So sánh kết quả các năm
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Tổng dư nợ tín dụng của ngân hàng năm 2009 tăng 1255,151 triệu đồng so với năm 2008. Trong đó nguồn ngắn hạn tăng 710,414 triệu đồng chiếm 14,5%, nguồn trung và dài hạn tăng 544,737 triệu đồng chiếm 26%.
Tương tự, tổng dư nợ năm 2010 giảm 802,203 triệu đồng đồng thời giảm 9,7%. Trong đó nguồn ngắn hạn giảm 296,178 triệu đồng tương ứng với 5.3%, nguồn trung và dài hạn giảm 506,025 triệu đồng ứng với 19,2%.
Một trong các phương tiện thanh toán khá phổ biến hiện nay là thẻ thanh toán giao dịch qua máy ATM, máy POS; tuy số lượng thẻ, máy ATM, máy POS do các ngân hàng thương mại (NHTM) phát hành, lắp đặt ngày càng nhiều nhưng tác dụng giảm khối lượng tiền mặt vào lưu thông còn rất khiêm tốn. Theo thống kê, khoảng 80% giao dịch qua ATM là để rút tiền mặt. Theo người dân phản ánh, việc thanh toán tiền mua hàng, trả phí dịch vụ qua máy POS còn rất hạn chế vì không có đủ máy quét cho nhiều loại thẻ của nhiều ngân hàng. Để trả tiền mua hàng, khách hàng phải rút tiền mặt từ máy ATM lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị. Do hệ thống POS lắp đặt tại các cửa hàng, siêu thị của các ngân hàng hiện nay chưa được kết nối với các hệ thống của ngân hàng khác, dẫn đến ít tiện ích cho các thẻ ATM nội địa của các ngân hàng Việt Nam.
Séc là một trong những phương tiện thanh toán đã có lâu đời ở các nước phát triển, dựa trên Công ước thế giới về Séc năm 1933, các nước đều ban hành Luật Séc, hoặc ban hành các văn bản hướng dẫn thực hiện Luật Séc, để việc sử dụng séc được nhanh chóng, thuận tiện không chỉ trong cùng địa phương và cùng tổ chức phát hành séc, các nước đều có Trung tâm xử lý thanh toán bù trừ séc ngoài hệ thống và khác địa phương do Ngân hàng Trung ương hoặc Hiệp hội Ngân hàng quản lý, nhờ vậy, phương tiện thanh toán bằng séc được sử dụng phổ biến ở nhiều nước phát triển. Mỹ là nước sử dụng thanh toán điện tử trong hoạt động ngân hàng sớm nhất.
Còn ở nước ta, thanh toán bằng séc đã ra đời từ những năm 1960 nhưng đến nay, phương tiện thanh toán này ngày càng giảm. Mặc dù thanh toán bằng séc có nhiều thuận lợi và nhanh chóng trong giao dịch mua bán, người mua hàng ký séc đưa cho người bán và người bán chỉ cần cầm séc và CMND ra ngân hàng là có thể nhận được tiền hoặc chuyển vào tài khoản nhưng hiện nay, tỷ lệ thanh toán bằng séc mới chiếm khoảng 2% trong tổng thanh toán phi tiền mặt; nguyên nhân thanh toán bằng séc bị hạn chế là do chưa có quy định bắt buộc về hạn mức phải thanh toán bằng séc mà hiện chỉ “động viên” dùng séc và một nguyên nhân khác là sự lo ngại của người bán hàng sợ tài khoản của người mua không còn tiền, séc giả, dễ dẫn đến rủi ro. Việc thanh toán séc cũng gặp không ít phiền phức nếu khách mua và khách bán không có tài khoản ở cùng một ngân hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Huyện Nông Cống.
Thương mại điện tử (TMĐT) còn nhiều rào cản trong những năm gần đây, TMĐT đã được ứng dụng rộng rãi trong các doanh nghiệp. Hiện có tới 99% số doanh nghiệp đã kết nối internet. Tuy nhiên, do thói quen mua sắm của người tiêu dùng và khâu thanh toán khiến TMĐT Việt Nam chậm phát triển; người mua và người bán vẫn thực hiện theo phương thức “tiền trao cháo múc”, vì người tiêu dùng lo ngại mua phải sản phẩm không dùng được hoặc chất lượng không đạt như mong muốn. Hệ thống pháp lý bảo vệ thông tin cá nhân vẫn còn thiếu những quy định, chế tài cụ thể về bảo vệ đối tượng sử dụng TMĐT. Nhìn chung, việc phát triển TMĐT ở địa bàn hiện còn mang tính tự phát
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- BÁO CÁO HOÀN CHỈNH _ Nguyễn Thị Len.doc