LỜI NÓI ĐẦU . Trang 3
Chương I: VAI TRÒ , VỊ TRÍ CỦA CỬA HÀNG BÁN THUỐC
PHỤC VỤ NHÂN DÂN . 4
I.Quan điểm chủ trương về mạng lưới cung ứng thuốc 4
1.Chính sách quốc gia về thuốccủa Việt nam 4
2.Quan điểm chủ trương về thuốc ở Việt nam 9
II.Vai trò của các cửa hàng thuốc 14
1. Khái niệm hiệu thuốc 14
2. Vai trò chức năng . 14
3. Những nhân tố tác động đến kết quả kinh doanh của chi nhánh 18
Chương II: THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG KINH DOANH CỦA
CHI NHÁNH DƯỢC PHẨM VĂN GIANG 21
I.Giới thiệu tổng quát về chi nhánh . 21
1. Quá trình hình thành và phát triển . 21
2. Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý của chi nhánh 34
3. Nhiệm vụ của chi nhánh . 37
4. Phương thức kinh doanh của chi nhánh . 39
II. Kết quả kinh doanh của chi nhánh . 43
1. Tình hình kinh doanh của chi nhánh . 43
2. Hiệu quả kinh doanh của chi nhánh 43
3. Đánh giá kết quả thu được và nhận xét . 52
III. Những tồn tại vướng mắc 53
1. Những yếu tố bên ngoài ảnh hưởng tới hoạt động của chi nhánh. 53
2. Những yếu tố bên trong ảnh hưởng tới hoạt động của chi nhánh. 54
Chương III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG PHỤC VỤ VÀ KINH DOANH CỦA CHI NHÁNH DƯỢC PHẨM VĂN GIANG 55
I. Phương hướng và nhiệm vụ của chi nhánh năm 2007 55
II. Một số giải pháp khắc phục nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và kinh doanh của chi nhánh dược phẩm Văn giang 56
1.Sự cần thiết nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh 56
2. Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng phục vụ và kinh doanh của chi nhánh dược phẩm Văn giang 58
III. Một số kiến nghị với sở y tế Hưng yên và nhà nước 63
KẾT LUẬN 65
TÀI LIỆU THAM KHẢO 66
CHỨNG THỰC CỦA CHI NHÁNH 67
68 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1207 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao hiệu quả phục vụ và kinh doanh của chi nhánh dược phẩm Văn Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
và cần làm:
Thủ tục đăng ký hành nghề
Mối quan hệ với cơ quan và tổ chức có liên quan
Vấn đề thanh tra hành nghề.
Ở các nước các điều kiện trên đây được ghi trên một điều luật quốc gia do quốc hội thông qua thường được sửa đổi bổ sung cho phù hợp với tình hình phát triển khoa học kỹ thuật và xã hội từng giai đoạn.
- Hai là: Những yêu cầu về tư cách lương tâm và trách nhiệm của người hành nghề đúng với đạo lý xã hội thường được gọi là đạo đức hành nghề ở nước ta gọi là y đức ở các nước gọi là nghĩa vụ nghề nghiệp (esthique, ethics, dedontologic). Tất cả những yêu cầu naỳ được tập hợp lại vào một tập được gọi là luật nghĩa vụ được ngành y tế thảo ra có sự tham khảo của các hội đoàn y dược (nhất là các hội hành nghề) và được người đứng đầu nhà nước ban hành.
Nói cách khác việc hành nghề y dược được Nhà nước quản lý chặt có sự phối hợp của các hội y dược. Điều rõ ràng là về phương diện chuyên môn cũng như đạo đức các yêu cầu trên được áp dụng trong hội y dược bất luận thuộc chuyên ngành hay chuyên khoa nào, không phân biệt công hay tư. Công tư chỉ khác nhau ở tiền thù lao. Một đằng là lương của nhà nước, một đằng là sự đóng góp trực tiếp của bệnh nhân mà mức độ đều được qui định. Chính sự cơ bản là văn bằng, yêu cầu cơ bản là lý lịch tư pháp. Hai giám sát chính xuất phát từ nhà nước thông qua thanh tra và hội hành nghề thông qua sự theo dõi của đồng nghiệp.
Ở nước nào cũng vậy ngoài những dàng buộc bất thiết phải có để đảm bảo an toàn xã hội Nhà nước luôn luôn đơn giản các thủ tục hành chính để đội ngũ cán bộ y dược ngày càng thêm đông. Có thể động viên và tập chung trí lực vào viêc giải quyết một cách thuận lợi các yêu cầu về sức khoẻ của cộng đồng. Và đây là tinh thần và ý nghĩa của việc xã hội hoá ngành y dược của Đảng và Nhà nước ta.
1.3. Quá trình hình thành và phát triển chi nhánh dược phẩm Văn giang.
a) Điều kiện hình thành:
Cũng như mọi ngành kinh tế của một quốc gia sản xuất và phân phối là hai mặt hoạt động cơ bản của ngành dược. Kể từ ngày Nhà nước giành độc lập cho đến nay trải qua 61 năm dù trong giai đoạn chiến tranh hay khi cả nước đã được hoàn toàn giải phóng và thống nhất lúc nào Đảng và nhà nước cũng quan tâm xây dựng một nền y tế nhân dân. Đặt vấn đề bảo vệ nâng cao sức khoẻ của nhân dân thành một chiến lược hàng đầu. Sự nghiệp bảo vệ sức khoẻ luôn là vấn đề đáng quan tâm. Để tồn tại con người phải tìm đủ cách để đối phó với bệnh tật. Thuốc đã phát triển từ xa xưa phát triển nhanh chóng và luôn giữ vị trí độc tôn. Cho nên đi đôi với chân lý “đói ăn rau” người đời đã xác định “đau uống thuốc”. Qua thời gian thuốc ngày càng phát triển để kịp thời đáp ứng nhu cầu phòng và chữa bệnh cho nhân dân. Nhưng việc cung cấp thuốc men với nhận thức là hàng hoá đặc biệt đưa thuốc tới tận tay người bệnh trong điều kiện hợp lý và đảm bảo an toàn không nhầm lẫn phù hợp với khả năng tài chính của dân. Trong mọi hoàn cảnh an toàn phải được coi là tiêu chí cao nhất.
Cung ứng thuốc trong kinh tế thị trường tức là không bao cấp mà mua bán như đối với mọi hàng hoá khác có bán buôn và bán lẻ.
Cũng do tính chất là hàng hoá đặc biệt nên thuốc không phải bất cứ ai cũng phân phối được mà phải được giao cho dược sỹ là những cán bộ khoa học kỹ thuật được đào tạo có trường lớp. Ngoài nguyên tắc phân công đã được qui định: Thầy thuốc (bác sỹ) khám bệnh, định bệnh, chỉ định thuốc (tức cho toa) dược sỹ căn cứ vào toa mà giao thuốc bán thuốc.
Chất lượng thuốc được xem là yếu tố quyết định kết qủa điều trị đồng thời cũng là một trong những điều kiện an toàn được hết sức coi trọng nên đòi hỏi những yêu cầu đặc biệt về sản xuất tồn trữ bảo quản giao nhận theo dõi sử dụng phải được kiểm tra chặt chẽ không được vi phạm. Những điều trên đây là những nguyên tắc chỉ đạo tổ chức và hoạt động của việc cung ứng thuốc men. Chi nhánh dược phẩm Văn giang đã được thành lập dựa trên các nguyên tắc chỉ đạo đó.
Từ thời còn bao cấp (khoảng những năm 80) chi nhánh dược phẩm Văn giang đã bắt đầu hoạt động nhưng khi đó nó chỉ là một cửa hàng của hiệu thuốc Châu giang. Cửa hàng hoạt động với mục đích cung cấp thuốc và dụng cụ y tế cho nhân dân trong huyện dưới hình thức bán lẻ đưa thuốc tới tận tay người tiêu dùng.
Sau đó vào những năm 90 của thập kỷ này một số cửa hàng con được mở ra và nằm rải rác ở một số các xã trong huyện (có 3 cửa hàng) nhằm đưa thuốc đến tận tay người tiêu dùng một cách triệt để hơn.
Mãi cho đến tháng 8 năm 1999 khi có quyết định chia tách một số tỉnh huyện trong cả nước của nhà nước. Huyện Châu giang đuợc tách ra làm hai huyện: Khoái châu và Văn giang. Khi đó hiệu thuốc Châu giang cũng được tách ra làm hai hiệu thuốc là: “Hiệu thuốc Khoái châu” và “Hiệu thuốcVăn giang”.
Như vậy có nghĩa là tháng 8 năm 1999 chi nhánh dược phẩm Văn giang chính thức được thành lập lấy tên là “Hiệu thuốc Văn giang” trực thuộc công ty dược và vật tư y tế Hưng yên. Đến tháng 8 năm 2005 do chuyển đổi doanh nghiệp thành: “Chi nhánh dược phẩm Văn giang” trực thuộc “Công ty cổ phần dược Hưng yên”.
b) Quá trình phát triển.
Tháng 8 năm 1999 hiệu thuốc Văn giang ra đời với đầy đủ tư cách pháp nhân trong quy chế hành nghề dược. Với đội ngũ cán bộ công nhân viên gồm 12 người, trong đó có 1 dược sỹ đại học, 7 dược sỹ trung học, 3 dược tá và 1 kế toán.
Trong suốt quá trình hình thành và phát triển nhiệm vụ của hiệu thuốc không phải là kinh doanh đơn thuần mà nó là đơn vị mang cả 3 tính chất: phục vụ, kinh doanh và dự báo thị trường (vì nó có thể dự báo mùa nào dùng loại thuốc gì nhiều và chủ yếu, do đó các nhà sản xuất có thể dựa vào đó để có kế hoạch sản xuất). Hiệu thuốc vừa là đơn vị kinh doanh hạch toán độc lập thuộc công ty dựoc vật tư y tế Hưng yên, có quan hệ hợp đồng cung cấp hàng cho bệnh viện, bệnh xá trong toàn huyện, vừa giúp công ty trong việc chỉ đạo mạng lưới lưu thông, phân phối thuốc tới tận tay người tiêu dùng.
Sự khởi đầu của hiệu thuốc Văn giang vô cùng khó khăn với đồng vốn ít ỏi (chỉ có 12 triệu đồng do hiệu thuốc Châu giang bàn giao lại, chỉ là nhà cấp bốn, mưa vẫn còn bị dột, khô thì ẩm thấp). Cộng với hoàn cảnh ra đời lúc nền kinh tế thị trường rộng mở: Nhà nước cho phép tư nhân đủ điều kiện pháp nhân và có cơ sở vật chất đúng yêu cầu được mở cửa hàng tư nhân dưới hình thức nhà thuốc, đại lý thuốclại thêm khó khăn là do huyện mới thành lập, do đó ban quản lý thị trường còn chưa hoạt động, các cửa hàng thuốc tư nhân không có giấy phép mở ra nhiều, gây cho hoạt động của hiệu thuốc càng thêm khó khăn. Đã vậy địa bàn của hiệu thuốc lại gần Hà nội, nên khó khăn càng thêm chồng chất, có lúc tưởng chừng như hiệu thuốc sẽ không thể đứng vững được. Nhưng với tinh thần trách nhiệm cao, sự nhạy bén của đội ngũ lãnh đạo hiệu thuốc, cùng với sự cố gắng hết mình vì tập thể của đội ngũ cán bộ công nhân viên hiệu thuốc, đã dần dần đưa hiệu Văn giang thoát khỏi bế tắc.
Đội ngũ cán bộ lãnh đạo hiệu thuốc đã khéo léo quan hệ tốt với bệnh viện và các cơ quan có liên quan, tạo mối quan hệ tốt, cung cấp thuốc tốt, đúng đủ và đảm bảo chất lượng nên đã dần tạo được lòng tin cho bạn hàng.
Đội ngũ nhân viên đã không quản ngại khó khăn tranh thủ cả sớm tối đêm khuya bám trụ cửa hàng của mình để phục vụ thuốc tới tận tay người tiêu dùng. Với phương châm “chất lượng hàng đầu”; “đủ về số lượng, phong phú về chủng loại”, “giá cả hợp lý”, “vui lòng khách đến, vừa lòng khách đi”Và cũng dần chiếm được thị trường.
Bằng nỗ lực hết mình của đội ngũ lãnh đạo và cán bộ công nhân viên, cơ sở vật chất kỹ thuật của cơ quan đã được thay đổi về diện mạo: nhà cửa, kho tàng được lại: nâng nền, tôn mái, làm trần nhựa chống nóng, trát lại tường bao cho sạch sẽ, cửa ra vào được làm lại chắc chắn. Mua được thêm một số trang thiết bị mới như: Bàn ghế, bàn họp, bàn làm việc, giường tủ
Để có được kết quả trên đội ngũ lãnh đạo của hiệu thuốc đã có một tầm nhìn xa trông rộng hầu hoạch định một hướng đi liên tục, đem lại lợi ích cho nhân viên với những bước phát triển nhanh chóng, nối tiếp nhau, bước sau cao hơn bước trước. Đó là chiến lược xây dựng hướng đi cho mình, có chiến lược xem như cốt lõi, rồi mới vạch ra kế hoạch đi tới, dài hạn để đi xa, ngắn hạn để đạt được mục tiêu của những giai đoạn nhỏ. Xong mới đến chính sách được đề ra làm khuôn khổ tạo điều kiện để chiến lược được thực thi thuận lợi. Kế tiếp đó là những biện pháp tức là những công cụ góp phần vào việc thực thi chiến lược và kế hoạch.
Nắm chắc được tình hình sử dụng thuốc trong toàn huyện trong từng thời điểm và nhằm ấn định bước đi lên: đặt yếu tố đảm bảo thuốc men cho dân lên hàng đầu thông qua hệ thống phân phối: bệnh viện, bệnh xá, các cửa hàng bán lẻ của hiệu thuốc, các đại lý được xem là yếu tố then chốt của chiến lược.
Đầu năm 2003 khi hiệu thuốc đã đi vào quỹ đạo ổn định thì có vấn đề xảy ra nổi bật trên thị trường dược phẩm, đó là vấn đề “giá thuốc”. Các phương tiện thông tin đại chúng, dân thành thị và nông thôn, người bệnh, cán bộ y dược các cấp, đoàn thể cà chính quyền ai cũng đều xúc động: tại sao giá thuốc lại lên giá đồng loạt, lên cao và lên nhanhthực tế là như thế nào?
Phải công nhận giá là một chỉ tiêu rất tổng hợp không những về kinh tế và đời sống mà cả về chính trị và xã hội, về kỹ thuật và văn hoá, nên bất cứ ai cũng quan tâm và nhà nước đã lo cho dân thì phải quan tâm bậc nhất. Trong các loại giá, giá thuốc thuộc loại “xung yếu” nhất, không chú ý đúng mức hậu quả tất yếu sẽ xảy ra, đôi khi khó lường. Nhất là ở vùng nông thôn, địa bàn mà hiệu thuốc quản lý, đối với nền kinh tế còn eo hẹp thì thuốc tăng giá lại là cả vấn đề lớn. Do đó việc tăng giá thuốc chung trong cả nước đã làm hiệu thuốc gặp không ít trở ngại. Nhưng với chiến lược rõ ràng, cùng với những lời giải thích hợp lý, cùng với lòng tin của khách hàng đối với hiệu thuốc đã tạo được từ trước đã giúp hiệu thuốc tiếp tục đứng vững.
Năm 2004, thực hiện chủ trương cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước, công ty dược và vật tư y tế Hưng yên cũng bắt đầu tiến hành các thủ tục, hoàn tất các việc để chuyển đổi thành công ty cổ phần.
Vậy công ty cổ phần là thế nào?
Khái niệm công ty cổ phần: [6]
*Công ty cổ phần là doanh nghiệp nhà nước trong đó:
Vốn điều lệ chia thành nhiều phần bằng nhau gọi là cổ phần.
Cổ đông chỉ chịu trách nhiệm về nợ và có các nghĩa vụ tài sản của doanh nghiệp trong phạm vi số vốn đóng vào doanh nghiệp.
Cổ đông có quyền tự do chuyển nhượng cổ phần của mình cho người khác, trừ trường hợp cổ đông sở hữu cổ phần ưu đãi biểu quyết thì không được chuyển nhượng cổ phần cho người khác. Và trong 3 năm kể từ ngày công ty được cấp giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh, các cổ đông sáng lập phải cùng nhau nắm giữ ít nhất 20% số cổ phần phổ thông được quyền chào bán. Cổ phần phổ thông của cổ đông sáng lập có thể chuyển nhượng cổ phần không có quyền biểu quyết về quỳên chuyển nhượng các cổ đông đó.
Cổ đông có thể là tổ chức cá nhân, số lượng cổ đông tối thiểu là 3 và không hạn chế số lượng tối đa.
*Công ty cổ phần có quyền phát hành chứng khoán ra công chúng theo qui định của pháp luật Nhà nước về chứng khoán.
*Công ty cổ phần có tư cách pháp nhân kể từ ngày được cấp chứng giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh.
Là một chi nhánh của công ty dược và vật tư y tế Hưng yên, nên hiệu thuốc Văn giang cũng nhanh chóng thực hịên hoàn tất các thủ tục để chuyển đổi sang cổ phần. Nhưng do trục trặc về phía công ty nên đến tận tháng 8 năm 2005. Công ty dược vật tư y tế Hưng yên mới chính thức chuyển đổi thành công ty cổ phần và lấy tên là “công ty cổ phần dược Hưng yên”, hiệu thuốc Văn giang được chuyển thành “chi nhánh dược phẩm Văn giang”.
Khi chuyển đổi sang công ty cổ phần, công ty có được những thuận lợi sau đó công tác kinh doanh được phát triển như sau:
Ban lãnh đạo (hội đồng quản trị) có các quyền sau:
- Quyền quyết định phát triển chiến lược công ty.
- Quyết định phương án đầu tư.
- Quyết định đào tạo bán cổ phần mới trong phạm vi số cổ phần được quyền chào bán của từng loại, quyết định hay động thêm vốn theo các hình thức khác.
- Quyết định giải pháp phát triển thị trường, tiếp thị công nghệ thông qua hợp đồng mua bán, vay, cho vay và hợp đồng khác có giá trị bằng hoặc lớn hơn 50% tổng giá trị tài sản được ghi trong sổ kế toán của công ty, hoặc tỉ lệ khác nhỏ hơn được qui định tại điều lệ công ty.
- Quyết định cơ cấu tổ chức qui chế quản lý nội bộ công ty, quyết định thành lập công ty con, lập chi nhánh văn phòng đại diện và việc góp vốn, mua cổ phần của doanh nghiệp khác.
- Quyết định giá chào bán cổ phần và trái phiếu của công ty, định giá tài sản góp vốn không phải là tiền Việt nam, ngoại tệ tự do chuyển đổi vàng.
- Quyết định mua lại không qua 10% số cổ phần đã bán của từng loại.
- Các quyền và nhiệm vụ khác qui định tại luật này và điều lệ công ty. Các ý kiến của các cổ đông được xem xét và giải quyết trong các cuộc họp cổ đông.
Như vậy công ty cổ phần dược Hưng yên nói chung và chi nhánh dược phẩm Văn giang nói riêng đã có thêm nhiều điều kiện để phát triển. Như được chắp cánh bay cao hơn, xa hơn. Chi nhánh dược phẩm Văn giang đã có vốn vay quay vòng dư dật hơn. Nhân viên đã có tinh thần trách nhiệm, giờ đây tinh thần đó ngày càng được tăng cao thêm vì các nhân viên đều cảm thấy mình phải có trách nhiệm hơn với chính đồng vốn của mình bỏ ra. Nhưng không có một con đường đi nào mà không gặp phải những trở ngại. Đầu năm 2006, giá thuốc lại tiếp tục leo thang. Điều đáng nói ở đây là sự phòng bị. Ba năm gần đây cứ theo chu kỳ 10 tháng đến 12 tháng lại rộ lên tiếng kêu từ nhiều cơ quan thông tin đại chúng là giá thuốc đang lên. Rồi từ tiếng kêu đó, những cơ quan có liên quan bị xúc động theo lối bị động dây truyền, từ dưới dội lên trên và từ trên dội xuống dưới, với sự xôn xao trong dư luận và với biện pháp cuối cùng là tổ chức thanh tra hàng loạt, đến mức đã có báo nhận xét “đến hẹn lại tăng”. Điều này có nghĩa là biện pháp nên ra để khắc phục giá thuốc trước kia chưa phải là tối ưu, mà mang nhiều tính chất đối phó chưa có công hiệu cơ bản. Và như vậy cơn dông này sẽ đi qua hết một chu kỳ thì cơn dông khác sẽ lại ập đến, chứ không phải bị khống chế hay triệt tiêu từ xa. Nên chăng có một đề tài nghiên cứu về giá thuốc một cách toàn diện triệt để, để có thể có những phương án giải quyết tận gốc. Cũng như những loại hàng hoá khác chúng ta không bao giờ ảo tưởng giá thuốc sẽ đứng tại chỗ, bất di bất dịch, trừ trường hợp có sự trợ giá thoả đáng. Thái độ đúng đắn nhất có lẽ là trên tình hình cụ thể, chủ động cho giá của việc quản lý. Cũng có việc cần chú ý: Đừng để giảm phẩm chất của thuốc. Giá cả và giá thuốc là một vấn để xứng đáng để giành nhiều công sức.
Khó khăn cứ nối tiếp khó khăn. Mặc dù sang năm 2006, chi nhánh dược phẩm Văn giang đã xuất hàng được cho 11 xã trong toàn huyện và thêm ở đại lý nữa, nhưng hàng cung ứng cho bệnh viện lại bị giảm một cách rõ rệt. Nguyên nhân là do Bộ y tế ban hành chính sách đấu thầu thuốc cung ứng cho bệnh viện. Do ít vốn, kinh nghiệm về lĩnh vực đấu thầu của đội ngũ cán bộ công ty còn non kém, nên hầu hết các loại thuốc chủ chốt để đưa vào bệnh viện công ty đều không trúng thầu. Đúng như kinh nghiệm dân gian đã đúc kết: “họa vô đơn chí”. Do qui chế mới của bộ y tế qui định dược tá không được phép bán hàng ở thị trấn, thị tứ, nên 4 dược tá (ban đầu là 3 dược tá, nhưng 2 dược tá lại mới nhận được vào thay cho một dược sỹ trung học về nghỉ chế độ và một dược tá về hưu) phải cử đi học để nâng cao chuyên môn. Mặc dù học tập bố trí được xen kẽ nhau nhưng dù sao thì nhân lực cũng bị ảnh hưởng ít nhiều.
Đã vậy, tháng 6 năm 2006, chủ nhiệm của chi nhánh mới được bổ nhiệm là một nhân viên phụ trách cửa hàng khu vực, vì vậy đương nhiên là chi nhánh bị mất đi doanh thu của một cửa hàng đó. Do đó doanh thu của chi nhánh bị giảm bớt. Thời gian này thực sự là một bài toán khó cho đội ngũ cán bộ lãnh đạo và nhân viên của chi nhánh dượcVăn giang. Nhưng với sự nhiệt tình năng động và khéo léo, với sức trẻ của thế hệ kế tiếp, đội ngũ lãnh đạo chi nhánh trở lại quỹ đạo hoạt động và đã phần nào thu được kết quả.
2.Cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý cuả chi nhánh:
2.1. Cơ cấu tổ chức:
* Khái niệm cơ cấu tổ chức: [3]
Cơ cấu tổ chức thể hiện mối quan hệ chính thức hoặc phi chính thức giữa những con người trong tổ chức.
Cơ cấu tổ chức (chính thức) là tổng hợp các bộ phận (đơn vị và cá nhân) có mối quan hệ phụ thuộc lẫn nhau, được chuyên môn hoá có những nhiệm vụ và quyền hạn và trách nhiệm nhất định được bố trí theo những cấp, những khâu khác nhau nhằm thực hiện các hoạt động của tổ chức và tiến tới những mục tiêu đã xác định.
Cơ cấu tổ chức thể hiện cách thức trong đó các hoạt động của tổ chức được phân công giữa các phân hệ, bộ phận và cá nhân. Nó xác định rõ mối tưong quan giữa các hoạt động cụ thể, những nhiệm vụ những quỳên hạn và trách nhiệm gắn liền với các cá nhân, bộ phận, phân hệ của tổ chức, và các mối quan hệ quyền lực bên trong tổ chức.
* Cơ cấu tổ chức của chi nhánh dược phẩm Văn giang. Chi nhánh dược phẩm Văn giang hiện tại có 11 các bộ công nhân viên. Trong đó có: 1 dược sỹ đại học, 5 dược sĩ trung học, 4 dược tá và 1 kế toán.
* Cơ cấu tổ chức gồm:
+ Trưởng chi nhánh: Chịu trách nhiệm quản lý tổ chức điều hành toàn bộ hoạt động kinh doanh của chi nhánh.
+ Kế toán
+ Tổ nghiệp vụ: gồm 2 người
Nghiệp vụ
Thủ kho
+ Tổ bán hàng: Gồm 7 người phụ trách 5 cửa hàng
1) Cửa hàng số 1 (cửa hàng chính)
Cửa hàng số 2: Đóng tại thị trấn Văn giang(xã Văn phúc)
3) Cửa hàng số 3: Đóng tại thị trấn Văn giang (xã Phụng công )
Cửa hàng số 4: Đóng tại (bệnh viện Văn giang)
Cửa hàng số 5: Đóng tại xã Cửu cao
Mô hình tổ chức của bộ máy quản lý kinh doanh của chi nhánh được tổ chức theo mô hình tổ chức bộ phận theo địa dư: Việc hình thành bộ phận dựa vào lãnh thổ là một phương thức khá phổ biến ở các tổ chức hoạt động trên phạm vi địa lý rộng. Trong trường hợp này điều quan trọng là các hoạt đọng trong khu vực hay địa dư nhất định được hợp nhóm và giao cho một người quản lý. Mô hình tổ chức của bộ phận theo địa dư được áp dụng khi tiến hành các hoạt động giống nhau ở các khu vực địa lý khác nhau.
Ưu và nhược điểm của mô hình tổ chức theo địa dư:[3]
+ Ưu điểm:
1) Chú ý đến nhu cầu thị trường và vấn đề địa phương
Có thể phối hợp hành động của các bộ phận chức năng và hướng các hoạt động này vào các thị trường cụ thể.
Tận dụng được tính hiệu quả của các nguồn lực và hoạt động tịa địa phương.
Có được thông tin tốt hơn về thị trường.
Tạo điều kiện thuận lợi để đào tạo các cán bộ quản lý chung.
+ Nhược điểm:
Khó duy trì hoạt động thực tế trên diện rộng của tổ chức một cách nhất quán.
Đòi hỏi phải có nhiều cán bộ quản lý.
Công việc có thể bị trùng lặp
Khó duy trì việc ra quyết định và kiểm tra một cách tập trung.
2.2. Sơ đồ tổ chức bộ máy quản lý của chi nhánh Dược phẩm Văn Giang.
Trưởng chi nhánh
Kế Toán
Nghiệp vụ
Cửa hàng số
1
Cửa hàng số
2
Cửa hàng số
3
Cửa hàng số
4
Cửa hàng số
5
2.3. Chức năng nhiệm vụ các bộ phận:
Toàn bộ hoạt động kinh doanh của chi nhánh đều được sự quản lý của Trưởng chi nhánh. Trưởng chi nhánh cùng các bộ phận phối hợp chặt chẽ, nhịp nhàng với nhau.
Tuy mỗi bộ phận đều có nhiệm vụ riêng biệt nhưng chúng có mối liên hệ mật thiết với nhau trong phạm vi chức năng, quyền hạn của mình.
- Kế toán: Tổ chức quản lý, tính giá cả, hạch toán các nghiệp vụ kế toán góp phần bảo toàn và phát triển vốn sản xuất kinh doanh, giám sát đầy đủ, kịp thời và chính xác mọi nghiệp vụ kinh tế phát sinh trong chi nhánh. Lập kế hoạch tiền lương.
- Nghiệp vụ: Lập kế hoạch và theo dõi việc thực hiện kế hoạch mua bán hàng hoá theo hợp đồng, thường xuyên nắm bắt tình hình hàng tồn kho để điều chỉnh kế hoạch mua bán. Phối hợp với Trưởng chi nhánh giao hàng cho bệnh viện và các bệnh xá trong toàn huyện. Xuất nhập hàng hoá theo đúng qui định của chi nhánh.
- Hệ thống cửa hàng (tổ bán hàng); Có nhiệm vụ bán lẻ thuốc, phục vụ tới tận tay người tiêu dùng.
3. Nhiệm vụ của chi nhánh.
Chi nhánh dược phẩm Văn giang cung ứng thuốc và dụng cụ y tế cho bệnh viện huyện Văn giang thông qua khoa dược bệnh viện. Cung ứng thuốc cho 11 trạm xá trong huyện, cung ứng thuốc cho nhu cầu phòng và chữa bệnh của nhân dân trong toàn huyện thông qua các cửa hàng bán lẻ và các đại lý.
Cung ứng thuốc trong cơ chế thị trường, tức là không bao cấp mà mua hàng như đối với mọi hàng hoá khác: có bán buôn và bán lẻ. Nhưng thuốc chữa bệnh là một hàng tiêu dùng đặc biệt. Đặc biệt ở chỗ sơ xuất một chút dù rất nhỏ vẫn có thể gây ra tác hại to lớn ảnh hưởng đến sức khoẻ và tính mạng con người, cho nên mua thuốc cũng là một “hành động”, đặc biệt, từ việc chọn đến việc sử dụng.
Trước hết người mua không thể chọn hàng theo ý muốn của mình. Chỉ biết có một điều: có bệnh phải có thuốc chữa và phải mua thuốc, còn mua thuốc gì còn phải do một người chuyên môn chỉ định, từ loại thuốc sát trùng ngoài da đến thứ phải uống vào trong cơ thể, xem xét bệnh để xác định đó là bệnh gì? ở đâu, mức độ nào, xảy ra trên một cơ thể như thế nào? rồi chỉ định tức là áp dụng các biện pháp thế nào? Đó là dùng thuốc gì? bằng con đường nào? (uống hay dùng ngoài); liều lượng? Cách dùng như thế nào? (sau ăn, trước ăn, hay trong bữa ăn) và nơi cung ứng thuốc sẽ là hiệu thuốc .
Hiệu thuốc không những là nơi cung ứng thuốc tới tận tay người bệnh mà còn là nơi tư vấn về cách sử dụng thuốc, hướng dẫn thuốc cho người bệnh, để bệnh nhân biết mà thực hiện dùng thuốc an toàn và hợp lý.
Tất nhiên, mỗi người dùng thuốc một khác. người đang khoẻ mạnh hay đã lâm bệnh, lại còn phải chú ý đến người bệnh là trẻ con, hay người già, hay phụ nữ (nhất là phụ nữ có thai); mỗi người một cách, một liều thuốc khác nhau mà có thể dạng thuốc dùngcũng khác nhau. Do vậy ý kiến của nhà chuyên môn là rất cần thiết, không phải chỉ để tham khảo (như khi đi mua hàng hoá khác) mà để thực hiện đúng và đủ.
Nhiệm vụ của chi nhánh dược phẩm Văn giang còn có là cố gắng đảm bảo đủ thuốc cho nhân dân. Đủ thuốc không chỉ có nghĩa là đáp ứng đủ về nhu cầu số lượng và chủng loại, mà còn là lúc nào cần là có ngay, cũng như bất cứ nơi nào cũng có, người dân không phải chạy vạy tìm kiếm. Không chỉ thuốc phải có chất lượng cả nội dung lẫn hình thức, tức là phải có hiệu lực nhanh chóng chữa được căn bệnh, đồng thời phải được đóng gói chắc chắn, dễ coi và phải còn phù hợp với túi tiền của đông đảo mọi người. Đó là trên hết, thuốc phải đạt độ an toàn và không được gây quá nhiều tác dụng phụ. Nếu có độc tính cao thì hiệu thuốc phải thực hiện qui chế quản lý theo đúng qui định. Chính vì vậy lựa chọn thuốc để cung ứng cho nhu cầu nhằm phòng và chữa bệnh cho nhân dân trong toàn huyện của chi nhánh dược phẩm Văn giang là một nhiệm vụ hết sức quan trọng.
- Tổ chức phát triển mạng lưới bán buôn và bán lẻ thuốc, trang thiết bị y tế và dụng cụ y tế.
- Vận động nhân dân tham gia nuôi trồng con và cây làm thuốc, phát triển vườn thuốc nam tại nhà. Thu mua chế biến các loại dược liệu sẵn có tại địa phương. Sưu tập các bài thuốc gia truyền có hiệu quả chữa bệnh, phục vụ công tác chăm sóc sức khoẻ cộng đồng.
- Tham mưu đề xuất với chính quyền về quản lý và phát triển công tác dược tại địa phương, tham gia quản lý thị trường thuốc thuộc phạm vi quản lý.
- Chấp hành tốt các qui chế chuyên môn, pháp lệnh hành nghề được.
- Tham gia bồi dưỡng đào tạo cán bộ dược cho ngành.
- Hoàn thành tốt kế hoạch kinh doanh được giao (doanh số mua bán, duy trì, tích luỹ vốn được giao).
- Đảm bảo đời sống cán bộ, nhân viên của hiệu thuốc ngày càng được nâng cao.
4. Phương thức kinh doanh của chi nhánh:
Trong kinh doanh, mua bán là sự thoả thuận giữa người mua và người bán. Đối với người mua, mục tiêu của họ là giá trị sử dụng hàng hoá. Đối với người bán, mục tiêu của họ là lợi nhuận. Vì vậy doanh nghiệp (cụ thể ở đây là chi nhánh dược phẩm Văn giang) cần phải bán đuợc hàng hoá và bán được nhiều mới có khả năng thu được lợi nhuận cao, đứng vững trên thị trường và phát triển tốt. Ngược lại nếu hàng hoá không bán được thì chi nhánh sẽ bị thua lỗ và có nguy cơ phá sản. Do đó, trong hoạt động bán hàng của chi nhánh, việc sắp xếp bố chí các địa điểm bán hàng thuận lợi sẽ tạo điều kiện cho chi nhánh bán được nhiều hàng. Đây là một trong những lợi thế quan trọng để chiến thắng trong cạnh tranh.
Chi nhánh dược phẩm Văn giang hiện nay có 5 cửa hàng đặt trong địa bàn huyện Văn giang. Mạng lưới bán hàng của chi nhánh không phân bổ rộng khắp trong toàn huyện đã hạn chế sự phân phối thuốc của chi nhánh đến tận tay người tiêu dùng, giảm tính cạnh tranh của chi nhánh trên thị trường.
Hoạt động kinh doanh hiện nay của chi nhánh:
- Hình thức bán buôn: Bán cho bệnh viện huyện, các trạm xá trong toàn huyện.
- Hình thức bán lẻ: Được thực hiện thông qua mạng lưới các cửa hàng. Đây là hình thức bán hàng đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng (có 5 cửa hàng).
- Bán hàng qua các cửa hàng đại lý: Đây là một hình thức bán hàng của chi nhánh áp dụng để chiếm lĩnh và quản lý thị trường thuốc.
II. KẾT QUẢ KINH DOANH CỦA CHI NHÁNH:
1. Tình hình kinh doanh của chi nhánh
1.1. Công tác nhập hàng: [7]
Chi nhánh nhập thuốc và vật tư y tế theo các nguồn sau:
* Nguồn thuốc nhập từ công ty dược, cụ thể là công ty cổ phần dược Hưng yên: đây là nguồn nhập chính.
- Chủ yếu là chi nhánh nhập các lo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 5361.doc