MỤC LỤC
LỜI MỞ ĐẦU 6
CHƯƠNG 1: LÝ LUẬN CHUNG VỀ QUẢN TRỊ XUẤT NHẬP KHẨU 8
1.1 Những vấn đề cơ bản về hoạt động xuất nhập khẩu hàng hoá 8
1.1.1 Một số khái niệm 8
1.1.2 Vai trò của hoạt động xuất nhập khẩu 8
1.2 Các hình thức xuất khẩu hàng hoá 8
1.3 Những yếu tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu 10
1.3.1 Các yếu tố cạnh tranh 10
1.3.2 Các yếu tố VH – XH 10
1.3.3 Các yếu tố kinh tế 11
1.3.4 Các yếu tố chính trị và pháp luật 11
1.3.5 Các yếu tố khoa học công nghệ 12
CHƯƠNG 2: PHÂN TÍCH THỰC TRẠNG XUẤT KHẨU GẠO, CÁC GIẢI PHÁP NÂNG CAO UY TÍN VÀ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU GẠO VIỆT NAM 13
2.1 Mặt hàng Gạo và Tình hình xuất khẩu gạo ở Việt Nam hiện nay 13
2.1.1 Nhu cầu gạo của thị trường thế giới hiện nay 13
2.1.2 Vai trò của gạo đối với hoạt động xuất khẩu nước ta 15
2.1.3 Thực trạng xuất khẩu gạo ở nước ta hiện nay 18
2.1.3.1 Sản lượng và giá cả 18
2.1.3.2 Chất lượng gạo xuất khẩu 21
2.2 Nhận xét, đánh giá về tình hình xuất khẩu gạo hiện nay của Việt Nam 23
2.2.1 Những thuận lợi có được trong hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta 23
2.2.2 Thách thức và các vấn đề còn tồn tại 25
2.3 Một số giải pháp nâng cao uy tín và đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu gạo Việt Nam ra thị trường thế giới. 27
CHƯƠNG 3: NHẬN XÉT - ĐÁNH GIÁ MÔN HỌC 31
3.1 Nhận xét 31
3.2 Đánh giá 31
3.3 Kiến nghị cho việc phát triển môn học 32
KẾT LUẬN 33
DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 34
34 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2038 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nâng cao uy tín và đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam ra thị trường thế giới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
m hiện tại (2011) vẫn chưa có vẻ kết thúc, Theo báo cáo mới đây của Ngân hàng Thế giới (WB), giá lương thực trên thế giới đã tăng lên mức báo động, có thể gây ra 'bất ổn vĩ mô' tại một số nước, trong khi có thêm khoảng 44 triệu người đang lâm vào cảnh bị đói. Dân số thế giới được dự báo là sẽ tăng lên 7 tỷ người trong năm 2011 - 2012. Giá lương thực hiện đang leo thang một lần nữa lại đẩy hàng triệu người phải đi ngủ với cái bụng lép kẹp hàng đêm. Thực tế này cho thấy thế giới đã không nuôi nổi số dân hiện tại, vậy 9,1 tỷ người như dự báo vào năm 2050 sẽ phải tính thế nào? Bên cạnh đó là nỗi lo về bất ổn chính trị, biến đổi khí hậu...có thể làm cho lúa gạo trở thành một sức mạnh thực sự, một thứ “vũ khí” của thế kỷ. Nắm bắt được nhu cầu đó, việc đẩy mạnh sản xuất Gạo xuất khẩu đóng góp một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế. Các số liệu của Liên Hợp Quốc cho thấy, giá lương thực trong tháng 2-2011 đã lên đến mức cao, hơn cả lúc xảy ra khủng hoảng hồi cuối năm 2008. Tổ chức này dự đoán, cuộc khủng hoảng lương thực toàn cầu mới có thể xảy ra vào cuối năm 2011 và lo ngại tình trạng giá lương thực tăng sẽ tạo ra nguy cơ bạo loạn tái diễn tại các nước nghèo.
Trong năm 2010, gần như chỉ có xuất khẩu gạo của Việt Nam là tăng cả sản lượng và giá trị, còn lại những nước có lượng xuất khẩu gạo lớn trước đây như: Thái Lan, Ấn Độ, Pakistan đều giảm. Trong khi đó, nhu cầu gạo thế giới lại tăng khá mạnh do thời tiết bất thường dẫn đến mất mùa tại nhiều nơi. Indonesia sau khi thông báo xuất khẩu gạo hồi đầu năm hiện phải quay sang nhập khẩu do mất mùa.
ĐVT: Triệu tấn
.
Năm
2008
2009
2010
2011
2012
Trung Quốc
131
134.5
133
134
134
Ấn Độ
93.2
90.5
93
95
97
Indonesia
37.4
37.8
38.3
38.8
39.3
Các nước Đông Nam Á khác
117.3
117.8
119.3
121
122.4
Châu Phi
21.6
22.3
23.3
24
24.5
Châu Mỹ Latin
18.3
18.2
18.7
19.1
19.4
Các nước khác
18.8
18.9
19.3
19.7
20
Tổng
437.5
440
444.9
451.6
456.6
% gia tăng
0.05
1.1
1.5
1.1
Nguồn: Bộ Nông nghiệp Hoa Kỳ(USDA); Economist Intelligence Unit
Hình 2.1: Mức tiêu thụ gạo ở một số thị trường trọng điểm trên thế giới và mức dự báo năm 2011, 2012
Tiêu thụ lúa gạo toàn cầu năm 2011 dự báo sẽ đạt mức 451,6 triệu tấn, tăng 1.5% so với năm 2010. Trung Quốc, với số dân hiện tại khoảng 1.3 tỷ người, lượng gạo tiêu thụ là rất lớn. Tuy nhiên đây không được coi là thị trường vàng để nước ta đẩy mạnh xuất khẩu, bới Trung Quốc có khả năng tự túc lương thực rất cao. Thị trường mà Việt Nam nhắm đến là các bạn hàng đến từ Indonesia, các nước Trung Đông, và các nước Mỹ Latin… Biểu đồ cũng cho thấy mức độ tiêu thụ gạo liên tục gia tăng bởi áp lực dân số. Theo số liệu của tổng cục thống kê, lượng gạo dùng cho lương thực tăng 7,8 triệu tấn ở mức 391,4 triệu tấn, chiếm 85% tổng tiêu thụ toàn thế giới. Trong khi đó, gạo dùng làm thức ăn cho động vật ước tính vào khoảng 12,2 triệu tấn. Mức tiêu thụ gạo trên đầu người năm 2011 xấp xỉ khoảng 57kg/người, tăng 0,5kg so với năm 2010. Mặc dù giá gạo tại một số nước châu Á như Indonesia, Myanmar, Pakistan, Sri Lanka, Thái Lan và Việt Nam tăng nhưng FAO vẫn dự báo tiêu thụ gạo theo đầu người tại châu Á sẽ tăng 1% so với năm 2010 ở mức 82kg/người. Do nguồn cung trong nước ổn định nên tiêu thụ gạo trung bình tại châu Phi dự báo sẽ tăng nhẹ ở mức 22,1 kg/người. Tại châu Mỹ La tinh và Ca-ri-bê, mức tiêu thụ gạo trung bình cũng dự báo tăng 1% ở mức 31,1 kg/người. Theo báo cáo mới nhất của Bolivia, Colombia, Cộng hòa Dominica, Haiti, Haiti, Honduras, Mexico và Peru, giá gạo tại các nước này đã tăng so với 3 tháng trước. Trong khi đó, giá gạo lại có xu hướng đi xuống tại Brazil, El Salvador và Uruguay.
Ấn Độ - nước xuất khẩu lớn ngang ngửa Việt Nam - sẽ giảm sản lượng khoảng 16-18 triệu tấn do hạn hán, mưa đến chậm. Pakistan (nước xuất khẩu khoảng 3 triệu tấn năm nay) thì đang có dấu hiệu giảm xuất gạo cấp thấp, chuyển sang xuất khẩu gạo đồ và gạo cao cấp, hòng chiếm lĩnh thị trường Ấn Độ còn bỏ ngỏ (tất yếu sẽ tạo cơ hội cho gạo cấp thấp của Việt Nam).
2.1.2 Vai trò của gạo đối với hoạt động xuất khẩu nước ta
Dân số thế giới được dự báo là sẽ tăng lên 7 tỷ người trong năm 2011 - 2012. Giá lương thực hiện đang leo thang một lần nữa lại đẩy hàng triệu người phải đi ngủ với cái bụng lép kẹp hàng đêm. Thực tế này cho thấy thế giới đã không nuôi nổi số dân hiện tại, vậy 9,1 tỷ người như dự báo vào năm 2050 sẽ phải tính thế nào? Bên cạnh đó là nỗi lo về bất ổn chính trị, biến đổi khí hậu...có thể làm cho lúa gạo trở thành một sức mạnh thực sự, một thứ “vũ khí” của thế kỷ. Nắm bắt được nhu cầu đó, việc đẩy mạnh sản xuất Gạo xuất khẩu đóng góp một vai trò quan trọng đối với nền kinh tế.
Góp phần bình ổn thị trường lương thực thế giới
Nếu cuốn sách nổi tiếng "The Omnivore's Dilemma" (tạm dịch: Thế lưỡng nan của loài ăn tạp) của Michael Pollan, bắt đầu bởi một câu hỏi: "Chúng ta nên ăn gì trong bữa tối?" thì ngược lại, những người lo lắng về nguồn cung thực phẩm lại hỏi: "Có gì để ăn cho bữa tối?". Theo tính toán của Tổ chức Nông-Lương Liên hợp quốc (FAO), để đủ lương thực cho thế giới vào năm 2050 thì sản lượng lương thực thế giới sẽ phải tăng 70% so với hiện nay. Riêng tại các nước đang phát triển sản lượng lương thực phải tăng gấp đôi mới đủ đáp ứng nhu cầu. Giá lương thực thế giới tăng đỉnh điểm vào đầu năm 2008, điều này cũng làm hàng trăm người rơi vào nghèo đói. Nhu cầu về lương thực lại tiếp tục tăng ở các nền kinh tế mới nổi đang có tốc độ tăng trưởng nhanh như Trung Quốc cả về kinh tế lẫn dân cư (đạt 1.34 tỷ người-theo kết quả điều tra mới được công bố của cục thống kê quốc gia Trung Quốc ngày 28-04-2011). Thêm nữa, nhiều người dự đoán các nước sản xuất nông nghiệp hàng đầu thế giới sẽ thất bát trong thời gian tới do những biến đổi thảm khốc của điều kiện khí hậu. Thử hỏi, nếu một nước xuất khẩu lúa gạo thứ 2 thế giới đột nhiện không xuất khẩu nữa thì hậu quả sẽ nghiêm trọng thế nào. Giá lương thực không những leo thang mà vấn đề thiếu lương thực sẽ càng thêm trầm trọng.
Tác động tích cực giải quyết công ăn việc làm, cải thiện đời sống người nông dân.
Trở lại thực tế ở các vùng nông thôn hiện nay. Xu hướng đô thị hóa cùng với sự phát triển của nền kinh tế thị trường đã phần nào ảnh hưởng tới quan niệm của người dân về nghề nông. Không ít nông dân đã bỏ hoang ruộng vườn, đoạn tuyệt với cày cuốc. Nhất là trong tình hình giá cả phân bón tăng cao như hiện nay thì việc bỏ hoang ruộng vườn ở nhiều vùng nông thôn xem ra càng phổ biến hơn. Một khi giá trị mặt hàng gạo xuất khẩu tăng, các nông dân trồng lúa sẽ có thêm thu nhập, từ đó họ trở nên gắn bó và yêu công việc của mình hơn.
Gia tăng giá trị xuất khẩu và kích thích nền kinh tế phát triển
Lượng giá trị thu được từ hoạt động xuát khẩu là không hề nhỏ. Năm 2010, lượng gạo xuất khẩu là 6.7 triệu tấn, tăng 750 nghìn tấn so với năm 2009, xấp xỉ 3,25 tỷ USD đóng góp 4.50% tổng kim ngạch xuất khẩu quốc gia (giá trị xuất khẩu 2010 của Việt Nam đạt 71.6 tỷ USD). 6,7 triệu tấn gạo này đã góp phần tích cực vào cán cân thương mại của cả nước.
Đẩy mạnh xuất khẩu được xem như một yếu tố quan trọng kích thích sự tăng trưởng kinh tế. Việc đẩy mạnh xuất khẩu sẽ tạo điều kiện mở rộng qui mô sản xuất, nhiều ngành nghề mới ra đời phục vụ cho xuất khẩu, gây phản ứng dây chuyền giúp cho các ngành kinh tế khác phát triển theo, dẫn đến kết quả tăng tổng sản phẩm xã hội và nền kinh tế phát triển nhanh. Xuất khẩu có ích lợi kích thích đổi mới trang thiết bị và công nghiệp sản xuất. Để có thể đáp ứng được nhu cầu cao của thế giới về qui cách phẩm chất sản phẩm thì một sản phẩm sản xuất phải đổi mới trang thiết bị công nghệ, mặt khác người lao động phải nâng cao tay nghề, học hỏi những kinh nghiệm sản xuất tiên tiến.
Tạo dựng lợi thế cạnh tranh trong ngành
Việt Nam có câu "Phi Nông bất ổn" trước khi nói đến "Phi Công bất phú". Lương thực đang là một vấn đề thu hút sự quan tâm của toàn thế giới trong khi Việt Nam có thế mạnh thì không có lý do gì lại không nâng sức mạnh đó lên. Vậy một khi giá lương thực thế giới đột ngột lên cao, những nước có thế mạnh nông nghiệp, có nhiều gạo xuất khẩu như Việt Nam sẽ có được lợi thế cạnh tranh và nếu tận dụng tốt cơ hội, có thể sẽ biến cơ hội này thành sức mạnh và được hưởng lợi. Như vậy là rõ ràng nông nghiệp Việt Nam đã tỏ rõ thế mạnh và có đóng góp đáng kể giúp kinh tế nước nhà vượt qua giai đoạn khó khăn. Và trong thực tế, điều này đã được minh chứng trong thực tiễn phát triển đất nước những năm qua. Thông qua xuất khẩu, hàng hoá trong nước sẽ tham gia vào cuộc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả và chất lượng. Cuộc cạnh tranh này đòi hỏi các nhà sản xuất trong nước phải tổ chức lại sản xuất, hình thành cơ cấu sản xuất phù hợp với nhu cầu thị trường. Ngoài ra, xuất khẩu còn đòi hỏi các nhà doanh nghiệp phải luồng đổi mới công hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh, nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành.
Đem lại lợi ích cho doanh nghiệp
Thông qua xuất khẩu các doanh nghiệp trong nước có cơ hội tham gia vào cuốc cạnh tranh trên thị trường thế giới về giá cả, chất lượng. Những yếu tố đó đòi hỏi doanh nghiệp phải hình thành một cơ câu sản xuất phù hợp với thị trường. Xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp luôn luôn đổi mới và hoàn thiện công tác quản lý sản xuất, kinh doanh nâng cao chất lượng sản phẩm, hạ giá thành. Xuất khẩu tạo điều kiện cho các doanh nghiệp mở rộng thị trường, mở rộng quan hệ kinh doanh với các bạn hàng cả trong và ngoài nước, trên cơ sở hai bên cùng có lợi, tăng doanh số và lợi nhuận, đồng thời phân tán và chia sẻ rủi ro, mất mát trong hoạt trong hoạt động kinh doanh, tăng cường uy tín kinh doanh của doanh nghiệp. Xuất khẩu khuyến khích việc phát triển các mạng lưới kinh doanh của doanh nghiệp, chẳng hạn như hoạt động đâu tư, nghiên cứu và phát triển các hoạt động sản xuất, marketing…,cũng như sự phân phối và mở rộng trong việc cấp giấy phép.
2.1.3 Thực trạng xuất khẩu gạo ở nước ta hiện nay
2.1.3.1 Sản lượng và giá cả
Đầu tháng 1/2009, giá gạo nước ta chỉ ở mức 380-405 USD/ tấn, cuối năm con số này đã đạt 490-505 USD/Tấn, tăng khoảng 77-80%. Năm 2010, sản xuất nông nghiệp tuy gặp khó khăn vì thiên tai, dịch bệnh, các tỉnh miền Bắc bị thiệt hại 300.000 tấn lúa, nhưng nhờ Đồng bằng sông Cửu Long mở rộng diện tích, tăng sản lượng nên sản lượng lúa toàn quốc đạt 40 triệu tấn, vượt năm 2009 là 1 triệu tấn, giá trị xuất khẩu là 3.1 tỷ USD. Điểm nổi bật là hoạt động xuất khẩu gạo năm 2010 tổng sản lượng đạt được 7 triệu tấn. Trong tổng sản lượng gạo xuất khẩu gạo trên toàn thế giới năm 2010 đạt 30 triệu tấn, thì của Việt Nam đạt 7 triệu tấn, Thái Lan đạt 8 triệu tấn, đóng góp 50% vào thị trường gạo của toàn cầu. Thật sự, đây là con số áp đảo trong cuộc chiến giành thị phần lúa gạo. Riêng Việt Nam, nếu tính về tốc độ tăng trưởng sản lượng 40 triệu tấn trên 4 triệu hécta gieo trồng, thì đã vượt xa Thái Lan (30 triệu tấn/10 triệu hécta gieo trồng). Chỉ có điều, giá trị thu về từ hạt gạo, ta còn thua xa Thái Lan và nhiều quốc gia khác trong vùng.
Theo số liệu của Hiệp hội Lương thực Việt Nam (VFA), châu Phi và châu Á vẫn là thị trường xuất khẩu chính của gạo nước ta. Sản lượng gạo xuất sang châu Phi khoảng 117.19 tấn chiếm 37,15%, con số này ở châu Á là 156.757 tấn chiếm 32,86%. Gạo nước ta đã xâm nhập được vào thị trường các nước châu Âu, tuy nhiên con số này còn chưa nhiều chỉ đạt khoảng 26.32 tấn chiếm 5,52% (như Hình 2.2)
Hình 2.2: Khối lượng gạo xuất khẩu gạo của Việt Nam tại một số thị trường tính đến tháng 9/2010
Còn sau đây là bảng số liệu thống kê kim ngạch và sản lượng xuất khẩu gạo của nước ta qua một số thị trường trọng điểm:
Năm
Năm 2010
Năm 2009
Lượng
(Tấn)
Trị giá(1000 USD)
Lượng
(Tấn)
Trị giá(1000 USD)
Philipin
1,475,821
947,379
1,707,994
917,130
Indonesia
687,213
346,017
17,786
7,214
Singapore
539,298
227,792
327,533
133,594
Cu Ba
472,270
209,217
449,950
191,036
Ma-lai-xi-a
398,012
177,689
613,213
272,193
Đài Loan
353,143
142,705
204,959
81,616
Hồng Công
131,123
65,176
44,599
20,215
Hình 2.3 : Sản lượng và kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam ở một số thị trường
So với năm 2009, xuất khẩu gạo trong năm 2010 đã đẩy mạnh vào 2 thị trường là Singapore và Indonesia và giảm hẳn sang Philipines và Malaisia,con số này thay đổi bất ngờ với thị trường Hồng Công, sản lượng xuất khẩu sang Hồng Công của ta năm 2009 mới là 44, 599 tấn, nhưng hết năm 2010 con số sản lượng là 131,123 tấn (thay đổi 294%). Ngoài ra xuất khẩu tới các thị trường khác như Cu Ba, Đài Loan... vẫn giữ được tính ổn định. Dẫn đầu thị trường xuất khẩu gạo vẫn là Philipinse, với khối lượng hơn 1,7 triệu tấn, trị giá hơn 917 triệu USD, đóng góp hơn một nửa thị phần của toàn khu vực châu Á, chiếm tới 35% tổng kim ngạch xuất khẩu gạo của Việt Nam năm 2009, điều này cũng không có gì đáng ngạc nhiên.
Tuy nhiên, tới năm 2011 dường như quy luật này có sự thay đổi. Trái với các năm trước, xuất khẩu gạo trong 3 tháng đầu năm nay đã đẩy mạnh vào 2 thị trường Indonesia và Bangladet và giảm hẳn sang Philippine và Đài Loan. Cụ thể: Indonesia đứng đầu với 686,2 nghìn tấn gạo, đạt trị giá 343,9 triệu USD, tăng tới 5.177% về lượng và 4.331% về trị giá so với cùng kỳ năm 2010. Tiếp đến là Bangladet vươn lên vị trí thứ 2 với lượng xuất 226,6 nghìn tấn, trị giá 121,9 triệu USD, tăng kỷ lục từ trước tới nay. Cuba đứng thứ 3 với mức tăng nhẹ hơn 60% về lượng và 102% về trị giá, tương đương 156,7 nghìn tấn, trị giá 85 triệu USD. Ở các năm trước, dẫn đầu trong khối các quốc gia nhập khẩu gạo từ Việt Nam phải kể đến Philipines, nhưng bước sang năm 2011, Philipines thay đổi cuộc chơi. Có lẽ mấu chốt ở chỗ Việt Nam đã quá kỳ vọng vào Philippines. Philippines là bạn hàng lớn của Việt Nam, hàng năm nước này nhập khẩu khoảng 1,3 triệu tấn gạo của Việt Nam. Ngoài ra có sự đảm bảo ở cấp quốc gia giữa hai nước trong một biên bản ghi nhớ ký kết từ năm 2008 về việc cung ứng gạo của Việt Nam cho Philippines với con số lên đến 1,5 triệu tấn, và biên bản này mới được tiếp tục gia hạn đến năm 2013. Tuy nhiên, chính phủ mới của Philippines lại đang hành động không theo như nếp cũ. Kể từ cuối năm 2010, thay vì đưa ra kế hoạch nhập khẩu gạo 2011 như mọi năm, lãnh đạo Philippines đã nói bóng gió trên báo chí về sự điều chỉnh chính sách nhập khẩu gạo. Chính phủ nước này đang có xu hướng chỉ trích Cơ quan Lương thực Philippines (NFA) dưới thời chính phủ tiền nhiệm đã nhập khẩu quá lớn ảnh hưởng đến sản xuất trong nước và với mức giá quá cao so với thị trường quốc tế.
2.1.3.2 Chất lượng gạo xuất khẩu
Giống lúa:
Trên thực tế, giống lúa được coi là yếu tố hàng đầu chi phối trực tiếp đến chất lượng sản phẩm gạo. Với mỗi loại giống lúa khác nhau sẽ cho một loại chất lượng gạo khác nhau như gạo nếp, gạo tẻ thường, gạo thơm, gạo dẻo, gạo hạt dài, gạo hạt ngắn hạt....Nhu cầu của thị trường thế giới lại có những khác biệt rõ nét tuỳ theo từng quốc gia. Ví dụ, người Tây Âu, Bắc Mỹ, Nhật Bản....ưa dùng loại gạo hạt dài, chất lượng cao; còn người Trung Quốc, Ôxtrâylia, Hàn Quốc....ưa dùng loại gạo hạt trong, dẻo; một số thị trường cấp cao thích gạo thơm đặc sản có giá trị dinh dưỡng cao....
Nguồn: Niên giám Thống kê Việt Nam
Loại
Thị phần (%)
25% tấm
37,90
5% tấm
26,56
15% tấm
15,50
10% tấm
13,11
Tấm
5,30
Nếp và gạo thơm
1,46
Các loại khác
1,17
Hình 2.3: Tỷ lệ một số loại gạo xuất khẩu chính của Việt Nam
Đối chiếu với Việt Nam, chúng ta nhận thấy sự đa dạng về chủng loại gạo xuất khẩu của ta còn nhiều hạn chế và chưa phát huy được thế mạnh vốn có của mình. Đó là chúng ta có những giống lúa thơm đặc sản truyền thống nổi tiếng như Tám thơm, Tám xoan, Dự hương, Nếp cái hoa vàng...., khiến ai đã dùng dù chỉ một lần sẽ nhớ mãi, nhưng tỷ trọng loại gạo này trong tổng số xuất khẩu của Việt Nam còn khá khiêm tốn. Ngoài ra, xuất khẩu loại này vừa thu được lợi nhuận lớn và đạt hiệu quả kinh tế cao vì số lượng ít nhưng kim ngạch cao. Điều này đòi hỏi Việt Nam nỗ lực đa dạng hoá chủng loại và cơ cấu gạo xuất khẩu hơn nữa để có thể mở rộng thị trường có hiệu quả.
Sau đây là phần mô tả một số đặc điểm về giống lúa Thái Lan – đặc điểm quan trọng khiến giá gạo Thái luôn cao hơn so với gạo Việt Nam:
Thái Lan xuất khẩu gạo đi khắp thế giới chỉ bằng hai giống lúa là Khao- đắc- mali và Jasmin. Các nhà khoa học Thái Lan chỉ tập trung nghiên cứu, cải tiến hai giống này để có chất lượng gạo tốt nhất. Do vậy, gạo xuất khẩu của họ giá luôn ở mức cao. Gần đây, một giống lúa giàu chắt sắt đã được nghiên cứu thành công ở Thái Lan, có hàm lượng sắt cực cao so với các giống lúa thường. Các nhà khoa học hy vọng giống lúa mới này sẽ giúp chống lại những căn bệnh do thiếu sắt gây ra. Giống có tên gọi chưa chính thức là “Jao Hon Nin 3” được lai tạo giữa giống lúa Khao Dak Mali và giống lúa Hon Nin, một giống lúa có gạo màu tía đỏ.
Trong khi đó, các nhà khoa học Việt Nam có rất nhiều đề tài, hàng chục bộ giống ra đời nhưng không giống nào đạt tầm quốc gia. Những năm gần đây, chúng ta chủ yếu đi khai thác công nghệ. Tiến hành nghiên cứu thì giống lúa của Việt Nam không ra được đồng ruộng trên diện rộng. Nguyên nhân do chúng ta sai ngay từ cách đặt đề tài, rồi đến cách tổ chức thực hiện.
Phẩm chất
Phẩm chất gạo bao gồm các tiêu thức cơ bản sau: mùi vị (mùi thơm), dẻo, dễ hấp thụ, giá trị dinh dưỡng cao, “sạch”...Các tiêu thức này trước hết phụ thuộc vào giống lúa vì với mỗi loại giống lúa khác nhau sẽ cho những phẩm chất gạo khác nhau. Chẳng hạn, giống lúa thơm đặc sản nổi tiếng của Việt Nam như Tám thơm, Tám xoan, Dự hương, Nếp cái hoa vàng....cho hạt cơm dẻo, mềm, vị đậm và ngon, giá trị dinh dưỡng cao, dễ hấp thụ, mùi thơm ngào ngạt. Nhưng cũng loại gạo đặc sản Mali của Thái Lan lại chỉ có mùi vị thơm thoảng nhẹ. Lúa nếp cho phẩm chất gạo khác với giống lúa tẻ, tương tự giống gạo tẻ thường cũng cho phẩm chất khác với phẩm chất của gạo dẻo....
Hơn nữa, phẩm chất của gạo cũng thường xuyên bị thay đổi theo thổ nhưỡng, khí hậu, độ thuần chủng...Thông thường những giống lúa tự nhiên cho phẩm chất cao hơn những giống lúa đã được lai tạo. Và giống lúa cho phẩm chất cao, mùi thơm ngon, bán giá cao hơn; và giống lúa được lai tạo cho phẩm chất gạo kém hơn, bán giá rẻ hơn. Những loại gạo có phẩm chất cao chủ yếu được tiêu thụ ở những nước phát triển có thu nhập cao như Mỹ, Tâu Âu, thứ đến những nước NICs ở châu Á như Hồng Kông, Singapore. Qua phân tích trên, chúng ta nhận thấy có mối liên hệ mật thiết giữa giống lúa và phẩm chất gạo. Chúng ta quan tâm đầu tư đến giống lúa, cũng như quan tâm đến phẩm chất gạo. Do vậy, giống lúa hay phẩm chất là yếu tố tiên quyết ảnh hưởng đến chất lượng gạo. Trong giai đoạn hiện nay, việc gây ấn tượng ban đầu về chất lượng gạo của Việt Nam đối với người tiêu dùng là rất cần thiết để tạo điều kiện dễ dàng cho việc tiếp cận khách hàng nước ngoài vì hình ảnh và phẩm cấp gạo xuất khẩu của ta chưa thực sự chiếm lĩnh thị trường gạo thế giới.
2.2 Nhận xét, đánh giá về tình hình xuất khẩu gạo hiện nay của Việt Nam
2.2.1 Những thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu gạo của nước ta
Thứ nhất, Việt Nam đã trở thành một thế lực chủ yếu trên thị trường gạo thế giới. Việt Nam đã chứng minh được bằng việc có thật, từ chỗ là nước thiếu ăn phải nhập khẩu lương thực trở thành một trong những quốc gia dẫn đầu thế giới về xuất khẩu nông sản. Xuất khẩu gạo Việt Nam đã đứng thứ hai thế giới trong 22 năm liền, gạo Việt Nam hiện chiếm 1/5 tổng lượng gạo thương mại thế giới. Do đó, sản xuất và xuất khẩu gạo là một trong những hướng ưu tiên phát triển của Chính Phủ không chỉ xuất phát từ chính sách an ninh lương thực quốc gia mà còn là mặt hàng xuất khẩu có lợi thế của Việt Nam hiện nay.
Thứ hai, điều kiện thiên nhiên thuận lợi cho sự phát triển của cây lúa, chi phí nguồn lực nội địa thấp. Do đó, tăng trưởng xuất khẩu gạo chưa vượt quá ngưỡng an toàn lương thực quốc gia do mức tăng trưởng sản lượng cao. Mặt khác, Nhà nước lại có các chính sách cơ cấu lại giống lúa, điều này đang được quan tâm hơn và bước đầu đã đem lại hiệu qủa, nâng cao năng suất lúa. Vì thế, Việt Nam hoàn toàn có tiềm năng về phát triển gạo chất lượng cao. Bên cạnh các doanh nghiệp Nhà nước, nhiều doanh nghiệp tư nhân đã tham gia vào thị trường sản xuất, chế biến, xuất khẩu gạo và đã có ít nhiều kinh nghiệm xuất khẩu gạo.
Thứ ba, Bộ Công thương đang tập trung tăng cường các cơ hội tiếp cận thị trường cho hàng hoá xuất khẩu Việt Nam. Theo hướng này, Bộ Công Thương đang chủ trì tiến hành đàm phán về các khu vực mậu dịch tự do với Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản, Australia, New Zealand, Ấn Độ... nhằm dỡ bỏ các rào cản thuế, phi thuế quan giúp cho xuất khẩu “gạo” của Việt Nam có nhiều cơ hội để phát triển và khả năng thâm nhập vào các thị trường này là rất lớn do giá thành sản xuất gạo của chúng ta thấp có thể tạo ra được lợi thế cạnh tranh cũng như thu hút được sự quan tâm của thị trường các nước này.
Thứ tư, theo dự báo về nhu cầu nhập khẩu gạo trên thị trường thế giới, khả năng tăng trưởng gạo xuất khẩu trong tương lai còn rất lớn tại các khu vực thị trường thế giới. Một khi giá lương thực thế giới đột ngột lên cao, những nước có thế mạnh nông nghiệp, có nhiều gạo xuất khẩu như Việt Nam sẽ có được lợi thế cạnh tranh và nếu tận dụng tốt cơ hội, có thể sẽ biến cơ hội này thành sức mạnh và được hưởng lợi. Như vậy là rõ ràng nông nghiệp Việt Nam đã tỏ rõ thế mạnh và có đóng góp đáng kể giúp kinh tế nước nhà vượt qua giai đoạn khó khăn. Và trong thực tế, điều này đã được minh chứng trong thực tiễn phát triển đất nước những năm qua.
Thứ năm, xu hướng tự do hóa thương mại và yêu cầu mở cửa thị trường cho các sản phẩm nông nghiệp sẽ tác động mạnh đến chính sách tự cung về lương thực và làm tăng nhập khẩu lương thực của các nước đang nhập khẩu dòng về lương thực, như: các nước thuộc Châu Á (thị trường xuất khẩu chính của Việt Nam). Đồng thời, chính sách cắt giảm viện trợ lương thực của các nước phát triển cho các nước kém phát triển cũng làm tăng lượng nhập khẩu lương thực theo điều kiện thương mại thông thường của các nước này, nhất là với các nước Châu Phi.
Một luận điểm nữa là, nhu cầu nhập khẩu các sản phẩm nông nghiệp đã và sẽ tiếp tục tăng nhanh ở cả những nước đông dân (như Trung Quốc, Ấn Độ, Brazil, Hàn Quốc) và những nước khan hiếm tài nguyên đất và nước (như các quốc gia vùng vịnh).
2.2.2 Thách thức và các vấn đề còn tồn tại
Thứ nhất, trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp bị phá bỏ trừ trường hợp được hưởng ưu đãi dành cho nước đang phát triển: Là nước gia nhập sau, Việt Nam phải bãi bỏ tất cả các trợ cấp xuất khẩu trong nông nghiệp nói chung và ngành xuất khẩu “gạo” nói riêng (trừ trường hợp được hưởng đối xử ưu đãi dành cho nước đang phát triển). Bởi vì đây là biện pháp bị cấm hoàn toàn đối với tất cả các quốc gia gia nhập WTO sau 1/1/1995. Như vậy, về cơ bản, doanh nghiệp Việt Nam không hy vọng được hưởng các hình thức trợ cấp xuất khẩu này. Đây chính là một điểm bất lợi hay là điểm yếu cho ngành xuất khẩu “gạo” ở Việt Nam bởi vì nó sẽ làm tăng thêm chi phí và giảm sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường.
Thứ hai, cơ sở hạ tầng, máy móc trang thiết bị đầu tư cho nông nghiệp cũng như hệ thống vận chuyển còn thấp: Cơ sở hạ tầng còn yếu kém như hệ thống giao thông vận tải, máy móc đầu tư cho sản xuất nông nghiệp còn thấp dẫn đến năng suất chưa cao, chất lượng chưa đảm bảo, và tất nhiên là nguồn nguyên liệu đầu vào cho xuất khẩu “gạo” còn nhiều hạn chế. Diện tích sản xuất rộng lớn, nhưng qui mô sản xuất của các hộ nông dân thấp, chủ yếu sử dụng các lao động không chuyên nghiệp, mức đầu tư vào các thiết bị sản xuất trong phạm vi hộ thấp. Khâu chế biến gạo xuất khẩu còn nhiều khó khăn cả về mức công suất, trình độ công nghệ và mức độ lẫn loại của nguồn lúa nguyên liệu. Không chỉ dừng lại ở đó, do đầu tư cho nông nghiệp thấp nên hiện nay nước mặn đã xâm nhập sâu vào đất liền nhiều tỉnh ven biển. Đây là khó khăn rất lớn đối với vụ đông xuân của bà con hơn thế nữa tình trạng hạn hán kéo dài cũng ảnh hưởng rất lớn đến chất lượng, sản lượng lúa và khi đó giá thành sẽ tăng lên.
Thêm nữa, bệnh dày nâu và bệnh đạo ôn đe doạ nguồn cung cho xuất khẩu gạo nước ta. Theo thống kê, hiện có khoảng 80.000 ha lúa bị bệnh đạo ôn. Điều đáng lo ngại là có tới 80% giống lúa mà nông dân dùng để gieo sạ đã nhiễm bệnh này. Do trình độ và sự hiểu biết của họ chưa cao nên trong quá trình sản xuất nông dân lại gieo sạ dày, bón phân đạm quá nhiều, gặp thời tiết bất lợi nên bệnh dễ bùng phát và rất khó phòng trị. Đây chính là điểm yếu mà chúng ta cần khắc phục để đẩy mạnh việc xuất khẩu “gạo” bằng hình thức tạo ra một nguồn cung ứng dồi dào.
Một điểm yếu nữa từ bên trong, đó là những khó khăn trong việc dự báo cung-cầu thị trường do nguồn lực tài chính, con người còn yếu kém. Những người làm công tác dự báo hiện nay đang ở thế “bất lực tòng tâm”, đội ngũ hiện có không đủ cán bộ chuyên môn và nghiệp vụ để trải rộng, để dự báo thường xuyên các chỉ tiêu vi mô về cung - cầu, về thị trường, về giá cả… ở trong nước và nước ngoài. Trình độ ngoại ngữ của các cán bộ nghiên cứu cũng còn hạn chế nên khó khăn khi tiếp cận các nguồn thông tin nước ngoài. Bên cạnh đó, sự thành bại của các dự báo kinh
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nâng cao uy tín và đẩy mạnh xuất khẩu gạo Việt Nam ra thị trường thế giới (2009 toi nay).doc