Lời nói đầu 1
Chương I: Lý luận chung về thẻ thanh toán 4
I. Tổng quan về thẻ thanh toán 4
1.1. Lịch sử ra đời và phát triển của thẻ thanh toán 4
1.2. Khái niệm, đặc điểm cấu tạo phân loại thẻ 5
1.3. Quy trình phát hành và thanh toán thẻ 9
1.4. Các yếu tố ảnh hưởng đến phát hành và thanh toán thẻ 14
1.5. Một số tiện ích của thẻ thanh toán 17
1.6. Một số rủi ro trong phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ 19
II. Kinh nghiệm và xu thế phát triển của công tác phát hành, xử dụng và thanh toán thẻ trên thế giới 21
2.1. Kinh nghiệm của tổ chức thẻ American Express 21
2.2. Xu thế phát triển thẻ tín dụng tại một số khu vực trên thế giới 23
2.3. Triển vọng phát triển của công nghệ thẻ ở Việt Nam 25
Chương II: Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 28
I. Tính tất yếu của việc ứng dụng công nghệ thẻ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 28
II. Thực trạng của công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 30
2.1. Công tác phát hành thẻ ở Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 30
2.2. Công tác thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 44
III. Một số hạn chế, khó khăn cần giải quyết trong công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 56
3.1. Đối tượng sử dụng thẻ còn hạn chế 57
3.2. Môi trường thanh toán thẻ nhỏ 58
3.3. Công nghệ thẻ chưa đáp ứng được yêu cầu 59
3.4. Rủi ro phát sinh trong phát hành và thanh toán thẻ 60
Chương III: Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 62
I. Định hướng phát triển hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 62
1.1. Định hướng phát triển thẻ thanh toán trong hệ thống ngân hàng Việt Nam 62
1.2. Định hướng phát triển của NHNT trong hoạt động phát hành và thanh toán thẻ 63
II. Một số giải pháp đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam 66
2.1. Giải pháp cho việc phát hành thẻ tại Vietcombank 66
2.2. Giải pháp cho việc thanh toán thẻ tại Vietcombank 75
2.3. Phòng chống rủi ro trong phát hành và thanh toán thẻ 81
III. Một số kiến nghị 85
3.1. Dành một số ưu tiên đối với những hoạt động liên quan đến thẻ 85
3.2. Đẩy mạnh công tác đấu tranh chống tội phạm về thẻ 86
3.3. Đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng 86
3.4. Ngân hàng Nhà nước cần tạo tiền đề về cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ. 87
3.5. Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thẻ 87
3.6. Nâng cao ý thức và trình độ của người dân 88
96 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1208 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh công tác phát hành và thanh toán thẻ tại Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
sử dụng thẻ của khách hàng đã trở nên quen thuộc và đã có sự tự tin về thẻ do NHNT phát hành hơn.
Sang năm 2001, hoà cùng với xu thế đi lên của nền kinh tế đất nước trong năm đầu của thế kỷ 21, doanh số phát hành thẻ tại NHNT VN cũng đánh dấu một bước phát triển vượt bậc. So với năm 2000, tổng số thẻ phát hành cho cả hai loại thẻ là Visa và Master Card là 3.057 thẻ, tăng 131,7%, đưa tổng số thẻ từ khi phát hành đến nay là hơn 9000 thẻ. Số thẻ phát hành tăng nhiều như vậy là so NGNT đã tìm nhiều biện pháp khắc phục để hạn chế những nguyên nhân yếu kém trước đây. Cụ thể là NHNT đã cải tiến công nghệ , đầu tư nhân lực, trí tuệ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, nhằm mục tiêu đem đến cho khách hàng một chất lượng dịch vụ cao hơn. Vì vậy, cho tới nay máy in thẻ rất ít khi bị hoảng vặt, chất lượng in thẻ bảo đảm hơn, đẹp hơn, không còn tình trạng ảnh của chủ thẻ bị hỏng, phai mờ như trước đây, cho phép NHNT tăng thời hạn hiệu lực của thẻ lên 2 năm, theo nguyện vọng của các chủ thẻ.
Tuy nhiên, máy in thẻ dự phòng cho tới nay vẫn chưa được trang bị một cách đồng bộ, còn chắp vá, chưa có một hệ thống sự phòng về máy in thẻ. Sang năm 2002, khi triển khai phát hành thẻ ATM, khối lượng thẻ sẽ là rất lớn. Nếu không kịp trang bị máy dự phòng, thì khó có thể đáp ứng được nhu cầu sử dụng thẻ để chi tiêu hoặc đi công tác xa, ngân hàng sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu một cách kịp thời, dễ xảy ra sự mất tín nhiệm của khách hàng.
Mặc dù NHNT đã thực hiện phát hành khuyến mại một tháng miễn phí thường niên cho thẻ Master, nhưng số lượng thẻ của cả hai loại thẻ do NHNT phát hành vẫn còn chưa cân đối. Tuy trong 2001, số lượng phát hành thẻ của cả hai loại thẻ đều tăng lên rõ rệt. Tuy thẻ Visa có số lượng phát hành cao hơn hẳn so với thẻ Master Card, nhưng nếu tính về sự tăng trưởng phần trăm của từng loại thẻ qua một năm thì thẻ Master lại có độ tăng trưỏng cao hơn. Thẻ Visa phát hành được 2.413 thẻ, trong khi đó số thẻ được phát hành của Master Card là 626 thẻ. Với con số này, so với số lượng thẻ phát hành năm 2000 thì năm 2001 thẻ Visa Card tăng 112,7% và thẻ Master Card tăng 240%. Đây là một kết quả thực sự khả quan cho sự phát triển thẻ ở Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng, nhất là trong giai đoạn tăng trưởng của nền kinh tế đất nước hiện nay.
Biểu đồ 1: Biểu đồ tình hình phát hành thẻ Visa và Master Card tại NHNT VN (1996- 2000)
Từ biểu đồ 1 ta thấy mặc dù phát hành sau nhưng số lượng thẻ Visa Card là lớn hơn rất nhiều so với Master Card. Điều này chứng tỏ thẻ Visa Card có uy tín với khách hàng nhiều hơn. Tuy nhiên do có sự chênh lệch qua nhiều giữa hai loại thẻ nên NHNT bên cạnh việc tăng số lượng Visa Card cũng cần có những chính sách thích hợp để cả hai loại thẻ được phát triển đồng đều.
Biểu đồ 2: Tình hình chung về phát hành thẻ ở NHNT VN
(1996-2002)
Biểu đồ 2 cho thấy trong 2 năm 1996, 1997 chưa phát hành thẻ Visa Card, số thẻ Master Card chênh lệch nhau không đáng kể. Ba năm 1998, 1999, 2000, 2001, 2002 phát hành thêm Visa Card, tổng số thẻ tăng lên nhiều nhưng số lượng thẻ trong 3 năm này cũng xấp xỉ nhau. Điều này chứng tỏ hoạt động thẻ nhìn chung là ít có biến chuyển lớn. Nguyên nhân chủ yếu của hiện này là do NHNT có nhiều đối thủ cạnh tranh nên việc tăng thêm thị phần là rất khó. Ngoài ra, đối tượng sử dụng thẻ chỉ hạn chế ở những đối tượng đi nước ngoài làm việc hoặc đi du lịch, công tác chứ trong đại đa số tầng lớp dân cư vẫn chưa sử dụng thẻ.
Nhìn vào doanh số sử dụng thẻ, có thể thấy doanh số sử dụng thẻ do NHNT phát hành tăng dần theo các năm. Năm 1998, doanh số sử dụng thẻ mới chỉ là 48 tỷ VND thì đến năm 1999 là 65 tỷ (tăng 35%). Tới năm 2000, doanh số sử dụng thẻ lại tăng lên tới 69,3 tỷ VND (tăng 7%) so với năm 1999 và đến năm 2002 con số này đã tăng đột biến lên tới gần 300 tỷ. Điều này chứng tỏ thẻ tín dụng ngày càng được sử dụng rộng rãi và có một tiềm năng phát triển mạnh.
Nếu xét riêng cho từng loại thẻ, có thể thấy được tuy số lượng thẻ Master Card phát hành ít hơn thẻ Visa Card nhưng doanh số sử dụng của hai loại thẻ này lại gần tương đương nhau. Năm 1998, tổng số thẻ được phát hành của Visa và Master là 1305 và 1450 chiếc, nhưng chỉ sau 1 năm phát hành, thẻ Visa đã chứng tỏ ưu thế của mình bằng doanh số tăng lên không ngừng qua các năm: 1999 là 36 tỷ VND (tăng 112% so với năm 1998), năm 2000 tăng lên xấp xỉ 40 tỷ VND (tăng 11% so với năm 1999) và đến năm 2002 với tổng doanh số sử dụng thẻ là 254,73 tỷ VND thì doanh số sử dụng thẻ Visa chiếm tới 86%.
Nhưng thực tế hiện nay thì mỗi loại thẻ đều có những ưu điểm riêng. Nếu như thẻ Visa có số lượng phát hành nhiều hơn vì có được sự tích luỹ kinh nghiệm từ các loại thẻ ra đời trước nó và có một sự đầu tư khuyếch trương cùng những ưu đãi trong thời gian đầu nên đã thu hút một số lượng lớn số lượng khách hàng, thì thẻ Master lại có những ưu thế hơn ở chỗ nó ra đời trước thẻ Visa 5 năm nên có được một lượng ổn định những khách hàng trung thành mà trong đó phần lớn là những người có thu nhập cao, sử dụng thẻ vàng.
Tuy nhiên, theo các chuyên gia, theo xu hướng kinh tế của Việt Nam, tâm lý tiêu dùng của người Việt Nam và mạng lưới các cơ sở chấp nhận thẻ thì thẻ Visa chắc chắn sẽ ngày càng tăng lên về số lượng thẻ phát hành.
Biểu đồ 2: Cơ cấu phát hành thẻ Visa Card và Master Card
ở NHNT (năm 2002)
Như đã phân tích ở trên, trong năm 2002 số lượng thẻ Visa Card lớn hơn rất nhiều so với Master Card. Biểu đồ 3 này chỉ là hình ảnh minh hoạ cho thị phần của Visa Card so với Master Card: Visa Card chiếm hơn 86 % trong tổng số thẻ phát hành ở NHNT năm 2002, trong khi đó Master Card chỉ chiếm gần 14%. Điều này cho thấy tuy có một sự cố xảy ra, song xu thế phát triển của Visa Card là rất lớn.
Một điều đáng chú ý trong hoạt động phát hành thẻ của NHNT là công tác phòng chống rủi ro. Trong suốt 10 năm thực hiện phát hành thẻ, số các trường hợp rủi ro là rất ít. Từ năm 1993 đến nay chỉ có 4 trường hợp thẻ bị mất, không kịp đưa vào danh sách Buletin nên bị lợi dụng với số tiền tổn thất vào khoảng 5.000 USD. Ngoài ra số rủi ro xảy ra là không đáng kể. Năm 2002, tỷ lệ rủi ro trong thu nợ hầu như không có (0,05%). Thành công này xuất phát từ việc ngân hàng đã tuân thủ chặt chẽ các quy định về việc phát hành thẻ nhất là trong khâu thẩm định hồ sơ khách hàng. Thẻ thường được giao tận tay khách hàng, đồng thời khi mua thẻ khách hàng phải ký quỹ một số tiền nhất định, do đó không xảy ra rủi ro tín dụng (chỉ có vài trường hợp nợ quá hạn). Bên cạnh đó cũng phải kể đến một số nguyên nhân khách quan tạo nên sự thành công này đó là: NHNT tuy là một ngân hàng lớn tại Việt Nam nhưng so với thế giới và khu vực thì có vẫn còn nhỏ bé, số lượng thẻ phát hành lại chưa nhiều. Do vậy, thẻ do Ngân hàng phát hành chưa là đối tượng cho các tổ chức tội phạm quốc tế làm giả. Hơn nữa, các tổ chức tội phạm trong nước chưa đủ trình độ làm giả. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho Ngân hàng trong công tác phòng chống rủi ro.
Tuy nhiên cũng cần phải nói thêm rằng việc tuân thủ quá chặt chẽ các quy định trong khâu phát hành đã ảnh hưởng tới kết quả phát hành thẻ tại Ngân hàng. Trong thời gian tới, Ngân hàng nên xem xét để có thể giảm thiểu những ảnh hưởng này, đồng thời vẫn đảm bảo phát hành an toàn.
Về tổng quan, tình hình phát hành thẻ tại NHNT trong những năm qua còn hạn chế. Số lượng thẻ phát hành còn ít so với tiềm năng.
Thẻ chủ yếu phát hành cho người nước ngoài, và người Việt Nam đi công tác học tập ở nước ngoài.
Chỉ có một phần nhỏ phát hành được người Việt Nam sử dụng để tiêu dùng trong nước. Do vậy, công tác phát hành còn phụ thuộc vào bên ngoài, cụ thể là số khách nước ngoài vào Việt Nam và người Việt Nam ra nước ngoài. Thực tế này rất bất lợi cho NHNT khi có sự biến động nào đó trong quan hệ quốc tế hoặc tình hình kinh tế ở nước ngoài. Về lâu dài thì ngân hàng phải tìm kiếm khách hàng ở thị trường nội địa và việc phát hành thẻ phải phục vụ cho nhu cầu trong nước. Có làm được như vậy thì công tác phát hành thẻ của ngân hàng mới có phát triển vượt bậc, từ đó đẩy mạnh công tác thanh toán thẻ, đưa công tác thanh toán có những biến đổi về chất.
2.2 Công tác thanh toán thẻ tại NHNT VN
Từ năm 1991, NHNT VN đã bắt đầu tham gia thanh toán thẻ tín dụng quốc tế với vai trò làm đại lý thanh toán ba loại thẻ là:
+ VISA
+ MASTER CARD
+JCB
Ngay trong những năm đầu thực hiện nghiệp vụ thanh toán này, NHNT đã có doanh số thanh toán thẻ tương đối khả quan là 7,85 triệu USD. Năm 1994, NHNT VN lại tham gia thanh toán thêm một loại thẻ nữa là:
+AMEX
Kể từ đó cho đến nay Vietcombank chính thức là đại lý thanh toán cho 4 loại thẻ tín dụng quốc tế nói trên và ngày càng thành công trên lĩnh vực này.
Chủ thẻ
Chi nhánh Vietcombank phát hành
Đơn vị chấp nhận thẻ
Ngân hàng đại lý thanh toán
Trung tâm thẻVietcombank
Trung tâm thẻ quốc tế
2.2.1. Quy trình thanh toán thẻ tại NHNT VNTại đơn vị chấp nhận
* Tại đơn vị chấp nhận thẻ
Đơn vị chấp nhận thẻ (ĐVCNT) là các tổ chức hay cá nhân cung ứng hàng hoá hay dịch vụ chấp nhận thẻ làm phương tiện thanh toán.
Khi chủ thẻ xuất trình thẻ để thanh toán tiền hàng hoá, dịch vụ, hoặc tạm ứng tiền mặt tại ngân hàng đại lý thanh toán, các đơnvị chấp nhận thẻ, hay ngân hàng phải kiểm tra:
+ Tính hợp lệ của thẻ
+ Danh sách thẻ cấm lưu hành (Buletin) và các thông báo khác của ngân hàng
+ Kiểm tra chứng minh thư hoặc hộ chiếu của chủ thẻ khi nghi vấn.
Nếu giá trị vượt quá giá trị hạn mức thanh toán thì đơn vị chấp nhận thẻ phải liên hệ xin cấp phép.
Khi có trả lời cấp phép, đơn vị chấp nhận thẻ phải thực hiện đúng theo yêu cầu của trung tâm thẻ.
Trong thời hạn tối đa không quá 4 ngày làm việc kể từ ngày thực hiện giao dịch, các ĐVCNT phải xuất trình các hoá đơn giao dịch cho ngân hàng đại lý thanh toán của NHNT hoặc cho NHNT.
* Tại chi nhánh NHNT làm đại lý thanh toán
Căn cứ vào hoá đơn và bảng kê do các ĐVCNT gửi đến, chi nhánh kiểm tra tính hợp lệ của hoá đơn và nhập dữ liệu để lập hồ sơ nhờ thu và theo dõi hồ sơ ĐVCNT.
Hoá đơn được lưu lại để dùng làm chứng từ gốc nhằm tra soát và giải quyết khiếu nại về thẻ phát sinh sau này.
Chi nhánh được quyền tạm ứng tiền cho ĐVCNT trên sơ sở tổng giá trị hoá đơn sau khi trừ đi phí mà ĐVCNT phải thanh toán với ngân hàng theo tỷ lệ đã quy định trong hợp đồng đại lý đã ký kết với NHNT. Đồng thời chi nhánh lập bảng kê theo mẫu quy định và gửi về trung tâm thẻ nhờ thu.
Bảng kê được phân thành hai loại: Bảng kê lập cho thẻ do NHNT phát hành và bảng kê cho thẻ do ngân hàng phát hành.
Nếu nhận được báo có do trung tâm thẻ gửi về chi nhánh đối chiếu với hồ sơ gốc nếu khớp đúng thì làm thủ tục tất toán tài khoản nhờ thu.
* Tại trung tâm thẻ
Căn cứ vào bảng kê đó, các chi nhánh gửi đến nhờ thu. Trung tâm thẻ nhập dữ liệu vào máy để lập hồ sơ quản lý thẻ.
Đối với thẻ do NHNT phát hành, Trung tâm báo nợ chi nhánh tổng giá trị hoá đơn của các chủ thẻ do ngân hàng phát hành theo mẫu quy định, có kê chi tiết các giao dịch theo từng thẻ.
Đối với thẻ do chi nhánh NHNT thanh toán (kể cả thẻ do NHNT phát hành và thẻ do ngân hàng khác phát hành), trung tâm thẻ báo có cho chi nhánh số tiền chi nhánh ngân hàng đã thanh toán cho ĐVCNT (tổng giá trị hoá đơn- phí thu của cơ sở chấp nhận thẻ + phí chi nhánh được hưởng hoa hồng). Báo có ghi rõ số tham chiếu của bảng kê hoá đơn do chi nhánh lập gửi Trung tâm thẻ. Đồng thời Trung tâm thẻ tổng hợp thẻ do ngân hàng khác phát hành và làm thủ tục nhờ thu đối với tổ chức thẻ quốc tế.
Nếu nhận được báo có của nước ngoài, trung tâm thẻ đối chiếu với hồ sơ gốc và tất toán khoản có liên quan.
Đối với thẻ của NHNT phát hành được thanh toán ở nước ngoài, khi nhận được bảng kê báo nợ của tổ chức thẻ quốc tế, Trung tâm cập nhật dữ liệu cần thiết vào hồ sơ thẻ và hạch toán báo nợ cho các chi nhánh liên quan.
Trong giấy báo nợ gửi các chi nhánh, Trung tâm thẻ phải ghi đầy đủ các dữ liệu để chi nhánh có cơ sở tra soát khiếu nại có thể phát sinh sau này.
Tổ chức thẻ hiện nay thanh toán theo phương thức bù trừ, do vậy khi nhận được giấy báo thanh toán của nước ngoài, phải đối chiếu cẩn thận các bảng kê ngân hàng nhờ thu, bảng kê nước ngoài báo nợ.
Hàng tháng vào ngày sao kê, Trung tâm thẻ lập sao kê chi tiết các giao dịch đã phát sinh trong kỳ của từng thẻ và gửi cho chi nhánh qua mạng vi tính.
* Tại chi nhánh NHNT làm chức năng phát hành
Nhận được giấy báo nợ do Trung tâm thẻ gửi về, chi nhánh lập hồ sơ cần thiết vào hồ sơ khách hàng và hạch toán vào tài khoản thanh toán thẻ thanh toán với ngân hàng không thuộc hệ thống NHNT.
Căn cứ vào hợp đồng đại lý, ngân hàng đại lý gửi nhờ thu cho Trung tâm thẻ, Trung tâm thẻ tiến hành các bước xử lý như trường hợp nhận được nhờ thu của chi nhánh NHNT và tiến hành thanh toán theo thoả thuận ghi trong hợp đồng đã ký.
2.2.2. Phân tích và đánh giá kết quả công tác thanh toán thẻ tại NHNT
Không giống với công tác phát hành thẻ, công tác thanh toán thẻ tại NHNT bắt đầu sớm hơn. Năm 1990, hoạt động thanh toán được triển khai bước đầu và đến năm 1991 hoạt động này bắt đầu đi vào nề nếp. Hoạt động thanh toán thẻ có phần sôi động hơn, phát triển hơn.
Bảng 3: Bảng tổng kết tình hình thanh toán thẻ tại NHNT
Đơn vị 1.000USD
Năm
Thẻ
Visa Card
Masters Card
Amex
JCB
Tổng cộng
1991
6.558
1.0
-
100
7.858
1992
11.012
4.031
-
500
15.543
1993
18.686
8.368
-
847
27.901
1994
39.287
17.444
19.438
1.715
77.884
1995
55.761
24.321
38.921
3.265
122.268
1996
55.299
26.204
41.000
4.000
126.803
1997
38.402
19.114
35.944
2.589
96.155
1998
33.500
16.200
29.500
1.700
80.900
1999
34.000
15.000
24.500
1.100
74.600
2000
37.00
15.700
17.000
1.50
71.000
2001
37.992
15.521
18.013
1.241
72.767
2002
61.817
24.162
28.820
1.365
116.164
(Nguồn: Phòng kinh doanh thẻ NHNT - năm 2002)
Nhìn vào bảng tông kết, ta có thể thấy rằng trong năm 1991 doanh số thanh toán là 7,858 triệu USD, nhưng chỉ sau 1 năm con số này đã tăng lên gấp đôi. Năm 1992 doanh số là 15,543 triệu USD. Trong những năm tiếp theo từ 1993 đến 1995 doanh số luôn tăng với tốc độ đáng mừng khoảng 200%. Năm 1994 với việc triển khai thanh toán thêm thẻ Amex doanh số tăng lên với tốc độ kỷ lục nhất khoảng 2,4 lần từ 27,901 triệu USD năm 1993 lên 77,884 triệu USD. Tuy nhiên năm 1995 mới là năm có doanh số thanh toán tăng nhiều nhất với lượng tăng là 44 triệu USD. Sau năm 1995 tốc độ tăng doanh số có phần chững lại. So với năm 1995, doanh số thanh toán của ngân hàng trong năm 1996 chỉ tăng được hơn 4 triệu USD. Tuy vậy đây cũng là những năm đỉnh cao trong gần 10 năm thực hiện hoạt động thanh toán thẻ của NHNT. Năm 1997, cùng với nhiều hoạt động khác của ngân hàng, do chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực, hoạt động thanh toán thẻ của ngân hàng sút giảm một cách đáng kể. Từ chỗ doanh số đạt 126,503 triệu USD năm 1996, thì năm 1997 chỉ còn 96,115 triệu USD. Tình trạng này nằm trong xu thế chung của thị trường thẻ Việt Nam.
Năm 1998 vẫn chưa phải là một năm khả quan của công tác thanh toán thẻ tại NHNT. Cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực vẫn chưa có dấu hiệu chấm dứt mà ngược lại đang tiếp tục lan rộng. Lượng khách nước ngoài tiếp tục giảm, do đó doanh số thanh toán cũng giảm theo. Tình hình sút giảm này không chỉ diễn ra ở NHNT mà còn diễn ra ở nhiêù ngân hàng khác trong hoạt động thanh toán thẻ. Mặc dù NHNT đã tìm mọi biện pháp nhằm cải thiện tình hình như mở rộng ĐVCNT, khuyến khích các cơ sở đẩy mạnh việc chấp nhận thanh toán bằng thẻ tín dụng... nhưng hoạt động thanh toán thẻ vẫn không có dấu hiệu khả quan hơn.
Việc sút giảm trong hoạt động thanh toán thẻ tiếp tục diễn ra trong năm 1999. Cả năm 1999, tổng doanh số thanh toán chỉ đạt khoảng 71 triệu USD. Ngoài nguyên nhân như số khách nước ngoài vào giảm, tình hình kinh doanh trong lĩnh vực như nhà hàng, khách sạn có sự chậm lại, giá cả hàng hoá khác trong nước nói chung có xu hướng giảm, có một nguyên nhân quan trọng khác là sự cạnh tranh của các ngân hàng khác làm cho thị phần thanh toán của NHNT nhỏ đi đáng kể. Đặc biệt năm 1999, JCB, vốn chỉ do NHNT làm đại lý thanh toán độc quyền tại Việt Nam, đã ký hợp đồng thanh toán với ngân hàng khác nên doanh số thanh toán thẻ JCB giảm đáng kể, khoảng gần 56% so với năm 1998 làm tổng số thanh toán cũng giảm theo.
Sang đến năm 2000, hoạt động thanh toán thẻ không khởi sắc. Tuy nhiên có tăng chút ít so với năm 1999, đạt doanh số tương đương là 71,06 triệu USD. Nguyên nhân tăng chủ yếu là do năm 2000 là năm cuối cùng để bước vào thiên niên kỷ mới, lượng khách du lịch tăng, đương nhiên các dịch vụ thẻ cũng tăng theo. Ngoài ra, trong thời gian sắp bước sang thiên niên kỷ mới, tổng cục du lịch cũng đề ra chủ trương “Việt Nam là điểm đến của thiên niên kỷ mới”, do đó đã có rất nhiều hoạt động khuyến khích dịch vụ du lịch phát triển nên dịch vụ thẻ cũng có doanh số tăng.
Hầu hết doanh số thanh toán của các loại thẻ đều tăng lên. Riêng thẻ Amex bị giảm từ 151 nghìn USD năm 1999 xuống còn 110,738 nghìn USD năm 2000, giảm 26,7% vì tổ chức thẻ Amex đã ký thêm hợp đồng thanh toán với các ngân hàng UOB, nên việc phân chia thị phần và doanh số là không thể tránh khỏi.
Nhìn chung doanh số thẻ thu được nhiều hầu hết là ở các thành phố lớn như Thành Phố Hồ Chí Minh, Hà Nội.... Đây là những thanh phố hiện đại ở Việt Nam.
Sang năm 2001, hoạt động thanh toán thẻ tại NHNT VN lại có phần khởi sắc hơn. Trong năm 2001, doanh số thanh toán 4 loại thẻ đạt 72.767 triệu USD. Đây là một dấu hiệu khả quan cho hoạt động thanh toán thẻ tại NHNT, đồng thời nó cũng bẻ ngoặt xu hướng giảm liên hoàn của doanh số thẻ trong 5 năm qua.
Để thấy rõ hơn sự thay đổi từng năm của doanh số thanh toán thẻ tại NHNT trong 13 năm hoạt động, ta có sơ đồ biểu diễn sau đây:
Biểu đồ 4: Biểu đồ biểu diễn doanh số thanh toán thẻ theo từng năm tại VCB (1991- 2002)
Thẻ
Visa Card
Masters Card
Amex
JCB
Tổng cộng
Năm 1991
6.558
1.0
0
100
7.858
Năm 1992
11.012
4.031
0
500
15.543
Năm 1993
18.686
8.368
0
847
27.901
Năm 1994
39.287
17.444
19.438
1.715
77.884
Năm 1995
55.761
24.321
38.921
3.265
122.268
Năm 1996
55.299
26.204
41.000
4.000
126.803
Năm 1997
38.402
19.114
35.944
2.589
96.155
Năm 1998
33.500
16.200
29.500
1.700
80.900
Năm 1999
34.000
15.000
24.500
1.100
74.600
Năm 2000
37.00
15.700
17.000
1.50
71.000
Năm 2001
37.992
15.521
18.013
1.241
72.767
Năm 2002
61.817
24.162
28.820
1.365
116.164
Biểu đồ 5: Số phí thu được trong thanh toán thẻ tại NHNT
(1991- 2002)
Nguồn thu chủ yếu của Viêtcombank từ hoạt động thanh toán là khoản phí mà các ĐVCNT hoặc các điểm ứng tiền mặt trả cho Ngân hàng thanh toán tính trên tỷ lệ % giá trị giao dịch. Khoản phí này ngân hàng thanh toán sẽ nhận được từ ngân hàng phát hành sau khi trừ đi giá trị giao dịch mà NHNT ứng trước cho ĐVCNT, điểm ứng tiền mặt. Là một ngân hàng thanh toán lớn, NHNT VN có nguồn thu rất lớn từ khoản phí này. Tỷ lệ phí quy định cho từng loại thẻ khác nhau tuỳ thuộc và ngân hàng thanh toán. Trước khi hiệp hội các ngân hàng thanh toán thẻ ra đời, một số ngân hàng nước ngoài thường cố tình hạ thấp mức phí nhằm tăng tính cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường gây ra nhiều khó khăn cho các ngân hàng Việt Nam. Sau khi ra đời, để giải quyết vấn đề trên, hiệp hội đã quy định giới hạn cho tỷ lệ phí này. Tỷ lệ phí giao động trong khoảng 2,5- 3,0%/1 giao dịch, riêng thẻ Amex quy định mức phí cao nhất là 3,6% cho một giao dịch. Nhưng để làm được đại lý thanh toán, Vietcombank cũng phải nộp một số khoản nhất định cho các tổ chức thẻ quốc tế hoặc tổ chức phát hành thẻ. Nguồn thu phí của Vietcombank biến động thường xuyên tuỳ thuộc vào doanh số thanh toán thẻ và chính sách phát triển của từng ngân hàng trong từng thời kỳ.
Nhìn vào biểu đồ 4 và 5 ta thấy gần như số phí thu được tăng giảm theo doanh số thanh toán thẻ của ngân hàng. Cụ thể, số phí thu được qua các năm như sau: năm 1996 đạt 1179 nghìn USD, tăng 12 % so với năm 1995. Nhưng từ năm 1997 đến năm 1999 thì số phí thu được lại tiếp tục giảm, chỉ đến năm 2000, phí thu được của NHNT mới có phần khởi sắc và sang đến năm 2001 thì tăng vọt lên một lượng lớn là 44% so với năm 2000, đạt 1183 nghìn USD. Số phí thu được trong năm 2001 và 2002 tăng lên lớn hơn cả doanh số thu phí tăng cao nhất từ trứơc đến nay vào năm 1996. Đây là một thành công vượt bậc của NHNT trong thời kỳ phát triển của đất nước.
Từ 1991 đến 1996, doanh số thanh toán và số phí thu được tăng lên đều là do NHNT lúc này chưa có đối thủ cạnh tranh trong công tác thanh toán thẻ, nên lượng khách sử dụng thẻ tăng dần lên. Tuy nhiên năm 1997, doanh số thanh toán thẻ và số phí ngân hàng thu được lại giảm nhiều (doanh số giảm 24%, phí giảm 25%). Nguyên nhân chủ yếu là do NHNT đã phải chịu sự cạnh tranh mạnh mẽ của một số ngân hàng như: UOB, ANZ, ACB, Hôngkông Bank và còn có thêm 2 thành viên mới là eximbank và Sài Gòn Bank. Doanh số thanh toán thẻ chủ yếu từ thẻ của doanh nhân và khách du lịch nước ngoài sử dụng ở Việt Nam. Trong khi đó tốc độ đầu tư nước ngoài và du lịc vào Việt Nam đang chững lại và có xu hướng giảm. Trong những năm tiếp theo (từ 1998-2000), doanh số thanh toán tuy giảm nhưng số phí ngân hàng thu được lại tăng lên đáng kể, cao nhất là năm 1998 là 1167 nghìn USD. Điều này chứng tỏ trong những năm qua, hoạt động thanh toán thẻ của NHNT đã có những bước phát triển theo chiều sâu. NHNT trong năm 1998 đã trang bị thêm cho các ĐVCNT gần 200 máy thanh toán tự động. Với loại máy này, phải trả lại phí ít hơn là máy cà tay. Hơn nữa ta thấy cơ cấu thanh toán thẻ đã có nhiều thay đổi, đặc biệt là tỷ trọng thanh toán thẻ Amex, loại thẻ có số phí thu được cao, tăng mạnh qua các năm. Tuy được đưa vào thanh toán muộn hơn so với các loại thẻ khách nhưng số phí do Amex đem lại luôn tăng cho dù doanh số thanhh toán có giảm. Đây là một sự chuyển biến tích cực trong hoạt động thanh toán thẻ tại NHNT.
Từ năm 1991 đến năm 2000, số ĐVCNT tăng lên rõ rệt với số lượng tăng lên liên tục qua các năm. Trong hơn 10 năm thực hiện thanh toán, số cơ sở chấp nhận thẻ từ 105 đơn vị (1991) đã tăng đến 2510 đơn vị (2000), tăng 2405 đơn vị. Số ĐVCNT tăng lên là một điều quan trọng để tăng doanh số thanh toán trong thời gian tới, nhất là khi tình hình thế giới và trong nước khả quan hơn và là tiền đề quan trọng để đẩy mạnh công tác phát hành thẻ của NHNT phục vụ tiêu dùng trong nước trong thời gian sắp tới.
Một công việc quan trọng có liên quan đến việc thanh toán thẻ là việc phòng chống rủi ro. Cho đến nay, thất thoát của ngân hàng trong công tác thanh toán lên đến hàng trăm nghìn đô la, riêng năm 1998, thất thoát khoảng 83.000 USD (theo số liệu báo cáo của phòng quản lý thẻ của NHNT trung ương). Như vậy, khoản thất thoát trung bình hàng năm (trừ năm 1998) xấp xỉ 2000 USD. Nguyên nhân chính của tổn thất này là do NHNT là ngân hàng đại lý thanh toán chưa đáp ứng được nhu cầu về công nghệ cao cho ĐVCNT, trình độ hiểu biết của đội ngũ nhân viên về công nghệ còn thấp nên NHNT phòng chống rỉu ro trong thanh toán vẫn chỉ ở mức hướng dẫn cho các chi nhánh và các ĐVCNT chấp hành tốt quy trình thanh toán thẻ mà chưa có biện pháp phòng chống thẻ giả, hơn nữa kinh nghiệm về phòng chống rủi ro của ngân hàng còn chưa nhiều.
Hoạt động phát hành và thanh toán thẻ tại NHNT còn là một nghiệp vụ nhỏ trong hoạt động của toàn ngân hàng. Lợi nhuận thu được từ dịch vụ này chưa được thống kê chính xác bởi một số chi phí của nó chưa được hạch toán riêng vẫn còn nằm trong chi phí của hoạt động thanh toán quốc tế. Vì vậy hiện nay ta chỉ đánh giá được chính xác hiệu quả của hoạt động này thông qua số phí thu được và doanh số thanh toán và phát hành. Hiện nay, hầu hết số phí thu được đều sử dụng để tái đầu tư cho hoạt động thẻ. Do vậy, có thể nói hoạt động phát hành và thanh toán thẻ chưa đóng góp gì được vào tổng lợi nhuận của toàn ngân hàng. Tuy nhiên hoạt động này đem lại nhiều lợi ích cho các hoạt động kinh doanh khác của ngân hàng. Những lợi ích này hoàn toàn chưa thể đo đếm bằng những con số cụ thể mà chỉ mới đánh giá được một cách định tính. Ta có thể thấy rõ được điều này qua phần III, chương II.
III. Một số hạn chế, khó khăn cần giải quyết trong công tác phát hành và thanh toán thẻ tại NHNT VN
Nghiệp vụ phát hành và thanh toán thẻ tuy là một nghiệp vụ mới mẻ tại Việt Nam nói chung và NHNT nói riêng, nhưng ngân hàng đã khai thác triệt để và đã thu được một số kết quả như: Ngân hàng đa dạng hoá được hoạt động kinh doanh của mình, thiết lập được quan hệ mật thiết với nhiều cơ sở kinh doanh trong nước, khuyến khích dân cư mở tài khoản tiền gửi thanh toán, tiền gửi tiết kiệm dùng cho mục đích cụ thể tại NHNT. Cũng qua việc thực hiện thanh toán thẻ, ngân hàng được gia nhập vào các tổ chức thẻ quốc tế lớn như là Visa Card và Master Card, ngân hàng không ngừng ứng dụng khoa học công nghệ hiện đại trong lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ quốc tế....
Trong bất kỳ hoạt động kinh doanh nào, ban đầu cũng sẽ gặp rất nhiều khó khăn vướng mắc và hoạt động kinh doanh thẻ cũng không phải là ngoại lệ. Trong quá trình ứng dụng dịch vụ thẻ, NHNT gặp phải một số hạn chế, khó khăn sau:
3.1 Đối tượng sử dụng thẻ còn hạn chế
Sự hạn chế về đối tượng sử dụng thẻ tín dụng do VCB phát hành là một trong n
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0552.doc