Con người luôn được đặt ở vị trí trung tâm của mọi hoạt động. Hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế đặc biệt phải nhấn mạnh đến yếu tố con người vì con người là chủ thể sáng tạo và trực tiếp điều hành các hoạt động. Yếu tố này được thể hiện thông qua hai chỉ tiêu: tinh thần làm việc và năng lực công tác. Tinh thần làm việc được thể hiện thông qua không khí trong doanh nghiệp, tinh thần đoàn kết và ý chí phấn đấu vì mục tiêu chung. Năng lực của nhân viên lại thể hiện thông qua kỹ năng điều hành, công tác nghiệp vụ cụ thể và qua kết quả của hoạt động. Để nâng cao vai trò của nhân tố con người, các doanh nghiệp một mặt phải chú trọng đào tạo cán bộ, công nhân viên, bồi dưỡng và nâng cao nghiệp vụ của họ, mặt khác phải quan tâm đến lợi ích cá nhân, bao gồm cả lợi ích vật chất lẫn lợi ích tinh thần.
41 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2760 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương- TPL, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhà thầu độc lập, nhân danh mình chịu trách nhiệm cung cấp các dịch vụ mà khách hàng yêu cầu. Người giao nhận chịu trách nhiệm đối với hành vi và sơ suất của mình cũng như người mà mình thuê.
Người giao nhận phải chịu trách nhiệm đối với những mất mát, hư hỏng của hàng hóa và chậm giao hàng: Đây là trách nhiệm lớn nhất của người giao nhận khi đóng vai trò là người chuyên chở. Người giao nhận phải chịu trách nhiệm về hàng hóa từ nơi nhận hàng để chở đến nơi giao hàng mà quá trình này có thể gồm nhiều phương thức vận tải khác nhau.
Trách nhiệm của người chuyên chở bao gồm 3 nội dung cơ bản sau:
- Cơ sở trách nhiệm (Basic of Liability).
- Thời hạn trách nhiệm (Period of Responsibility).
- Giới hạn trách nhiệm (Limit of Liability).
Trong đó:
* Cơ sở trách nhiệm.
Trách nhiệm của người chuyên chở đường biển đối với hàng hóa được quy định trong các Công ước quốc tế và các Nghị định thư sửa đổi, bổ sung. Hiện nay có 3 quy tắc song song tồn tại đồng thời có hiệu lực là: Quy tắc Hague (Hague Rules); Quy tắc Hague – Visby (Hague – Visby Rules) và Quy tắc Hamburg (Hamburg Rules).
Trách nhiệm của người chuyên chở đối với hàng hóa theo ba quy tắc trên là khác nhau và tăng dần từ Quy tắc Hague đến Quy tắc Hamburg.
Theo quy tắc Hague và quy tắc Hague – Visby thì người chuyên chở có ba trách nhiệm cơ bản là:
- Trước và vào lúc bắt đầu hành trình, người chuyên chở phải cần mẫn một cách hợp lý để đảm bảo cho tàu có khả năng đi biển.
- Người chuyên chở phải tiến hành một cách cẩn thận và thích hợp việc chất xếp, di chuyển, bảo quản hàng hóa và dỡ hàng.
- Người chuyên chở cấp vận đơn (B/L – Bill of Lading) cho ngươi bán hàng.
Bên cạnh đó, theo quy tắc Hamburg, người chuyên chở phải chịu trách nhiệm về mất mát, hư hỏng của hàng hóa và chậm giao hàng nếu có sự cố xảy ra khi hàng hóa còn thuộc trách nhiệm của người chuyên chở trừ khi người chuyên chở chứng minh được rằng anh ta đã áp dụng mọi biện pháp cần thiết, hợp lý để ngăn ngừa sự cố xảy ra và hậu quả của nó.
Trách nhiệm của người chuyên chở dựa trên nguyên tắc “Lỗi hoặc sơ suất suy đoán”, có nghĩa là khi có tổn thất thì suy đoán rằng người chuyên chở có lỗi, muốn thoát lỗi, người chuyên chở phải chứng minh là mình không có lỗi.
* Thời hạn trách nhiệm của người chuyên chở.
Cả hai quy tắc Hague và Hague – Visby đều quy định rằng: Người chuyên chở chịu trách nhiệm về hàng hóa kể từ khi hàng được xếp lên tàu ở cảng đi cho đến khi hàng được dỡ khỏi tàu ở cảng đến. Tổn thất của hàng hóa trước khi xếp lên tàu và sau khi hàng dỡ khỏi tàu sẽ không được người chuyên chở bồi thường.
Quy tắc Hamburg quy định thời hạn trách nhiệm rộng hơn, chủ yếu là thời gian trước khi xếp hàng lên tàu và thời gian sau khi dỡ hàng khỏi tàu. Cụ thể, người chuyên chở chịu trách nhiệm kể từ khi anh ta nhận hàng từ người gửi hàng hoặc người thứ ba khác có thẩm quyền tại cảng xếp hàng tiếp tục trong suốt quá trình chuyên chở cho đến khi anh ta giao hàng cho người nhận hàng hoặc đại diện người nhận hàng tại cảng dỡ.
* Giới hạn trách nhiệm.
Theo quy tắc Hague thì người chuyển chở không chịu trách nhiệm về hư hỏng, mất mát của hàng hóa vượt quá 100 bảng Anh (GBP) cho một kiện hàng hay đơn vị đóng hàng trừ khi tính chất và giá trị hàng hóa được người gửi hàng khai trước khi xếp hàng và đã nêu trong vận đơn.
Giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở được quy định trong quy tắc Hague – Visby ở mức tiền cao hơn là 30 Fr cho 1 kg trọng lượng hàng hóa cả bì (tương đương 2 SDR . SDR (Special Drawing Right – Quyền rút vốn đặc biệt) là đơn vị tiền tệ quốc tế do Quỹ tiền tệ quốc tế (IMF – International Monetary Fund) phát hành, phân bổ cho các nước thành viên một lượng theo tỷ lệ phần đóng góp vốn của mình vào IMF.
) hoặc 10.000 Fr cho một kiện hoặc một đơn vị (tương đương 666,67 SDR).
Theo quy tắc Hamburg thì giới hạn trách nhiệm của người chuyên chở đã tăng lên rất nhiều so với hai quy tắc trên: 835 SDR cho một kiện hay đơn vị chuyên chở hoặc 2,5 SDR cho 1 kg hàng hóa cả bì bị mất. Đối với các nước không phải là thành viên của IMF hoặc các nước mà luật lệ cấm sử dụng đồng SDR thì có thể tuyên bố tính giới hạn trách nhiệm theo đơn vị tiền tệ (Monetary Unit – MU) với mức tương ứng là 12.500 MU/kiện hay đơn vị hoặc 37,5 MU/kg hàng hóa cả bì bị mất mát, hư hỏng. (1 MU tương đương với 65,5 mg vàng với độ nguyên chất 900/1.000).
CHƯƠNG II:THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂNTẠI CÔNG TY TNHH TIẾP VẬN XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG
I. GIỚI THIỆU KHÁI QUÁT VỀ CÔNG TY TNHH TIẾP VẬN XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG.
1. Sơ lược về quá trình hình thành và phát triển.
Tên tiếng Việt : Công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương.
Tên tiếng Anh : Trans Pacific Logicstics.
Tên viết tắt : TPL.
Người đại diện theo pháp luật : Giám đốc Vi Thị Khoa.
Địa chỉ : Số 23, Ngõ 61/2, Phố Lạc Trung, Quận Hai Bà Trưng, Hà Nội.
Điện thoại : 04. 8210909
Fax : 04. 6364174
Website : www.tplvn.com
Mã số thuế : 0101626481.
Công ty TNHH tiếp vân xuyên Thái Bình Dương bắt đầu đi vào hoạt động từ năm 1995. Từ khi hoạt động đến nay dù trải qua nhiều hoạt động thăng trầm, công ty vẫn khẳng định được vị trí của mình trên thương trường, là thương hiệu được khách hàng tín nhiệm.
2. Các lĩnh vực hoạt động.
Công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương hoạt động kinh doanh trong bốn lĩnh vực chính sau:
2.1. Dịch vụ giao nhận hàng hóa bằng đường biển.
Với một hệ thống đại lý mạnh, dịch vụ giao nhận đường biển của Trans Pacific Logicstics không ngừng phát triển và cải tiến, thương hiệu Trans Pacific Logicstics đã được phổ biến rộng rãi. Công ty đã thực hiện giao nhận hàng vạn chuyến hàng xuất khẩu và nhập khẩu qua các cảng biển quốc tế tại Việt Nam.
Thực hiện dịch vụ gom hàng lẻ xuất khẩu với một thương hiệu TPL từ năm 1995, Trans Pacific Logicstics là đơn vị đi đầu trong dịch vụ này và luôn bảo đảm cung cấp cho khách hàng dịch vụ giao nhận vận chuyển hàng lẻ xuất khẩu nhanh, gọn, an toàn và có lợi với mức chi phí thấp theo những tuyến đường và lịch vận chuyển ổn định, hợp lý.
Các dịch vụ trong lĩnh vực giao nhận hàng hóa bằng đường biển mà công ty cung cấp là:
- Giao nhận đường biển (xuất khẩu và nhập khẩu).
- Dịch vụ gom hàng lẻ xuất khẩu.
- Dịch vụ chia lẻ hàng nhập khẩu.
- Dịch vụ giao hàng tận nhà.
- Môi giới bảo hiểm hàng hóa.
- Dịch vụ hỗ trợ hàng xuất nhập khẩu.
2.2. Dịch vụ giao nhận hàng hóa bằng đường hàng không.
Các dịch vụ trong lình vực giao nhận hàng hóa bằng đường hàng không mà công ty cung cấp là:
- Giao nhận từ kho chủ hàng hoặc sân bay đến sân bay hoặc kho người nhận.
- Vận chuyển kết hợp đường biển và đường hàng không.
- Dịch vụ phát chuyển nhanh (chứng từ, hàng mẫu, hàng thương phẩm).
- Gom hàng lẻ xuất khẩu và chia lẻ hàng nhập khẩu.
- Dịch vụ khai quan và giao nhận nội địa.
- Dịch vụ đại lý hải quan.
- Đại lý bán cước và hợp đồng vận chuyển với nhiều hãng hàng không lớn trên thế giới như : SQ, TG, VN, BA...
2.3. Dịch vụ logicstics.
Công ty cung cấp các dịch vụ logicstics như sau:
- Khai thuê hải quan.
- Đại lý hải quan.
- Giao nhận hàng triển lãm và công trình.
- Giao nhận hàng hóa tận nhà.
- Đóng gói bao bì hàng hóa.
- Dịch vụ kiểm kiện.
- Đại lý gom hàng lẻ.
- Đại lý lưu kho và phân phối hàng hóa.
- Gom hàng lẻ xuất khẩu và chia hàng lẻ nhập khẩu qua kho CFS.
- Di dời văn phòng, nhà xưởng và tài sản cá nhân.
- Dịch vụ kho ngoại quan.
2.4. Kinh doanh kho và bảo quản hàng hóa.
Theo yêu cầu của khách hàng, Trans Pacific Logicstics thực hiện dịch vụ lưu kho bảo quản hàng hóa theo các hình thức sau:
- Thuê bao trọn kho.
- Dịch vụ kho ngoại quan.
- Lưu kho và bảo quản hàng hóa tính theo dung lượng: tấn/tháng, m²/tháng, container/ngày.
3. Nhiệm vụ của công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương.
Trong bản điều lệ công ty, ban lãnh đạo đã xác định rõ nhiệm vụ của công ty như sau:
- Tổ chức phối hợp với các công ty trong và ngoài nước để chuyên chở, giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu, hàng quá cảnh, hàng hội trợ triển lãm, tài liệu, chứng từ…
- Nhận ủy thác về dịch vụ giao nhận, kho vận, thuê và cho thuê kho bãi, lưu cước… bằng các hợp đồng trọn gói “door to door” và thực hiện các dịch vụ khác có liên quan như thu gom, chia lẻ hàng hóa, làm thủ tục XNK, thủ tục hải quan…
- Nhận ủy thác xuất nhập khẩu hoặc kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp hàng hóa.
- Làm đại lý cho các hãng tàu nước ngoài và làm các công tác phục vụ cho tàu biển của nước ngoài vào cảng Việt Nam. Liên doanh, liên kết với các tổ chức kinh tế trong và ngoài nước trong lĩnh vực vận chuyển, giao nhận, kho bãi…
4. Bộ máy tổ chức.
Công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương được cơ cấu tổ chức tương đối gọn nhẹ, chỉ bao gồm 9 phòng ban nhưng các phòng ban đã được phân chia theo chức năng một cách khá rõ ràng, trách nhiệm, quyền hạn của từng phòng ban không bị chồng chéo nhau. Ta có thể hiểu rõ hơn về cơ cấu tổ chức của công ty thông qua sơ đồ sau:
Sơ dồ 1: Sơ đồ bộ máy tổ chức công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương
Giám đốc điều hành
Phó giám đốc kinh doanh
Phó giám đốc tài chính
Phòng HCNS
Tổ chức công đoàn
Phòng KTKL
Phòng kinh doanh vận tải biển
Phòng kinh doanh vận tải hàng không
Phòng DV logicstics
Phòng DV kinh doanh kho và bảo quản hàng hóa
Phòng KTTC
Phòng KD NVTC
Chú thích:
Phòng HCNS : Phòng Hành chính nhân sự.
Phòng KTKL : Phòng khen thưởng kỷ luật.
Phòng KTTC : Phòng Kế toán Tài chính.
Phòng KDNVTC : Phòng Kinh doanh nghiệp vụ tài chính.
Từ sơ đồ bộ máy tổ chức của công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương, ta có thể tìm hiểu về chức năng các phòng ban trong công ty:
-Phòng kinh doanh vận tải biển: Lập dự án, thực hiện các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ giao nhận, vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường biển của công ty.
- Phòng kinh doanh vận tải hàng không: Lập dự án, thực hiện các hoạt động kinh doanh nghiệp vụ giao nhận, vận tải hàng hóa quốc tế bằng đường hàng không của công ty.
- Phòng dịch vụ logicstics: Hoạt động kinh doanh dịch vụ logicstics.
- Phòng dịch vụ kinh doanh kho và bảo quản hàng hóa: Thực hiện dịch vụ kinh doanh kho và bảo quản hàng hóa theo yêu cầu của khách hàng.
- Phòng kế toán tài chính: Giúp việc và tham mưu cho Phó Giám đốc Tài chính trong công tác tổ chức, quản lý và giám sát hoạt động kinh tế, tài chính, hạch toán và thống kê; Theo dõi, phân tích và phản ánh tình hình biến động tài sản, nguồn vốn của công ty và cung cấp thông tin về tình hình tài chính, kinh tế cho Phó Giám đốc Tài chính trong công tác kinh doanh.
- Phòng kinh doanh nghiệp vụ tài chính: Thực hiện hoạt động tài chính đem lại nguồn lợi nhuận phụ cho công ty (đầu tư chứng khoán, kinh doanh ngoại tệ…).
- Phòng hành chính nhân sự: Tổ chức tuyển dụng; đăng ký, làm sổ bảo hiểm xã hội, bảo hiểm thất nghiệp cho cán bộ công nhân viên; quản lý tình hình nhân sự của công ty.
- Phòng khen thưởng kỷ luật: Thực hiện các hoạt động khen thưởng cán bộ công nhân viên có thành tích tốt trong công việc đồng thời kỷ luật những người vi phạm khuyết điểm.
- Tổ chức công đoàn: Đại diện, bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp chính đáng của người lao động…
II. THỰC TRẠNG HOẠT ĐỘNG GIAO NHẬN HÀNG HÓA QUỐC TẾ BẰNG ĐƯỜNG BIỂN TẠI CÔNG TY TNHH TIẾP VẬN XUYÊN THÁI BÌNH DƯƠNG.
1. Thực trạng hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương.
1.1. Những thành tựu đã đạt được.
Giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển là dịch vụ chủ yếu chiếm tỷ trọng lớn trong toàn bộ hoạt động kinh doanh của công ty. Kể từ khi thành lập vào năm 1995 đến nay, với một hệ thống đại lý mạnh, dịch vụ giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển của Trans Pacific Logicstics không ngừng phát triển và cải tiến, thương hiệu Trans Pacific Logicstics đã được phổ biến rộng rãi. Trans Pacific Logicstics đã thực hiện giao nhận hàng vạn chuyến hàng xuất khẩu và nhập khẩu qua các cảng biển quốc tế tại Việt Nam.
Để có thể thấy rõ những thành tựu của công ty, ta có thế đánh giá, xem xét qua các tiêu chí sau đây: sản lượng giao nhận, giá trị giao nhận, mặt hàng giao nhận, thị trường giao nhận.
1.1.1. Sản lượng giao nhận.
Tại công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương, giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển luôn chiếm trung bình trên 80% tổng sản lượng giao nhận của toàn công ty. Hàng năm, khối lượng hàng hóa công ty giao nhận qua các cảng biển Việt Nam khoảng 1000 – 1500 tấn và tăng không ngừng ( mức tăng bình quân 21.09 % / năm, dự đoán trong năm 2011 có thể lên đến 25%). Khối lượng hàng hóa quốc tế giao nhận bằng đường biển của công ty trong 5 năm qua như bảng số liệu sau:
Bảng 2: Sản lượng giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biểntại công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương
Đơn vị: tấn
2006
2007
2008
2009
2010
SLGN đường biển
1020
1280
1499
1795
2190
Mức tăng trưởng %
25.49
17.11
19.75
22.01
Tổng sản lượng giao nhận
1265
1600
1750
2000
2500
Tỷ trọng (%)
80.63
80.00
85.66
89.75
87.60
Nguồn: Báo cáo tổng hợp – Phòng kinh doanh vận tải biển, quý IV-2010 (Số liệu thu thập tháng 4 năm 2011).
Qua bảng trên ta thấy rằng trong 5 năm trở lại đây, sản lượng giao nhận của công ty tăng đều đặn qua từng năm. Từ năm 2006 đến 2010 đã tăng lên gấp 2 lần, dự đoán hết năm 2011 có thể đạt khoảng 3100 tấn. Việc sản lượng giao nhận hàng hóa của công ty tăng đều đặn như vậy đã cho thấy công ty đã khẳng định được uy tín, thương hiệu của mình, hình thành được một lượng khách hàng ổn định.
Trong đó, sản lượng giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển của công ty chiếm trên 80% tổng sản lượng toàn công ty (năm 2009 và 2010 gần đạt được mức 90%). Sở dĩ có được con số này là do giao nhận bằng đường biển bản thân nó có những ưu điểm nhất định (như đã trình bày ở chương I), ngoài ra đây còn là lĩnh vực kinh doanh trọng yếu của công ty. Về mức tăng trưởng, giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển cũng đạt được những con số khả quan (khoảng 20%). Vào năm 2008, 2009 mức tăng trưởng có giảm do chịu ảnh hưởng chung của khủng hoảng kinh tế thế giới, nhưng năm 2010 mức tăng trưởng đã tăng cao trở lại cho thấy sự cố nỗ lực hết mình của toàn thể cán bộ công nhân viên trong công ty trong việc khắc phục khó khăn mà cuôc khủng hoảng kinh tế mang lại.
Có thể nói, xét về mặt sản lượng giao nhận, công ty đã đạt được những kết quả hết sức khả quan. Nhưng với một công ty giao nhận thì con số có ý nghĩa hơn lại là giá trị giao nhận, nó có thể phản ánh khái quát doanh thu mà các đơn hàng mang lại cho công ty. Ta sẽ tìm hiểu thành tựu mà công ty đã đạt được trong những năm qua dựa trên tiêu chí giá trị giao nhận ở phần tiếp theo.
1.1.2. Giá trị giao nhận.
Giá trị giao nhận là doanh thu mà người giao nhận có được từ hoạt động giao nhận hàng hóa.
Tỷ lệ thuận với tỷ trọng của sản lượng giao nhận trong tổng sản lượng giao nhận của toàn công ty, thu nhập của công ty cũng chủ yếu là từ hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển (chiếm từ khoảng 80 đến 85% tổng các nguồn thu nhập của công ty). Trong khoảng thời gian từ năm 2006 đến năm 2010, giá trị giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển của công ty luôn đạt mức cao và tăng dần đều qua các năm. Ta có thể dễ dàng nhận thấy điều này qua bảng số liệu sau:
Bảng 3: Giá trị giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tạicông ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương
2006
2007
2008
2009
2010
GTGN đường biển (triệu VNĐ)
810
1450
2175
3439
5534
Tăng trưởng (%)
79.01
50.00
58.11
60.92
Tổng GTGN (triệu VNĐ)
1012
1791
2621
4116
6511
Tỷ trọng (%)
79.33
80.96
82.98
83.55
84.99
Nguồn: Báo cáo tổng hợp – Phòng kinh doanh vận tải biển, quý IV – 2010 (Số liệu thu thập tháng 4 năm 2011).
1.1.3. Mặt hàng giao nhận.
Với vai trò là người giao nhận, công ty không lựa chọn riêng một mặt hàng nào mà tùy thuộc vào hợp đồng ký kết với khách hàng: nông sản, máy móc, thiết bị, dụng cụ y tế, rượu, mỹ phẩm, nội thất… Có thể nói các mặt hàng mà công ty tiến hành giao nhận là tương đối đa dạng tuy nhiên mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong hoạt động kinh doanh giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển của công ty trong vài năm qua là mỹ phẩm, rượu ngoại… những mặt hàng xa xỉ phẩm. Việc có cơ cấu mặt hàng giao nhận nghiêng về các mặt hàng xa xỉ phẩm chính là một trong những nguyên nhân giúp công ty ít chịu ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới, do đây là mặt hàng phục vụ chủ yếu cho tầng lớp có thu nhập cao trong xã hội, dù khủng hoảng kinh tế xảy ra thì thu nhập của họ vẫn cao hơn nhiều lần mức trung bình của xã hội, nhu cầu về mặt hàng này vẫn không mấy giảm sút, từ đó mà hoạt động kinh doanh của công ty ít bị ảnh hưởng. Ta có thể thấy rõ cơ cấu mặt hàng giao nhận của công ty qua biểu đồ sau:
Nguồn: Báo cáo tổng hợp–Phòng kinh doanh vận tải biển, quý IV năm 2010(Số liệu thu thập tháng 4 năm 2011).
1.1.4. Thị trường giao nhận.
Thị trường giao nhận của công ty rất đa dạng và rộng lớn, trong đó các thị trường chiếm tỷ trọng lớn nhất bao gồm:
- Khu vực châu Âu: EU, đây là thị trường giao nhận quan trọng bậc nhất của công ty, hàng năm chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 50 – 55% về sản lượng giao nhận cũng như giá trị giao nhận của hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại công ty.
- Khu vực châu Mỹ: Mỹ, Canada, Braxin…
- Khu vực châu Á: Nhật Bản, Nga, Singapore, Hàn Quốc…
1.2. Những hạn chế còn tồn tại.
Có thể nói qua quá trình hình thành và phát triển lâu dài (từ năm 1995 đến nay), công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương đã đạt được nhiều thành tựu lớn kể trên nhờ vào đội ngũ nhân sự đông đảo và có trình độ chuyên môn cao. Tuy nhiên công ty vẫn còn đang đối mặt với một tồn tại xuất phát từ tính thời vụ của đặc điểm ngành kinh doanh. Tính thời vụ này thể hiên ở việc lượng giao nhận hàng hóa vào các thời điểm khác nhau trong năm còn chưa ổn định. Lượng hàng tập trung lớn vào khoảng tháng 4, 5 đầu hè và các dịp giáng sinh, lễ tết…, khi đó dù nguồn lực về kho bãi, phương tiện vận tải của công ty không phải là yếu kém nhưng vẫn không đủ để đáp ứng nhu cầu khách hàng, buộc phải thuê thêm của các công ty khác làm hiệu quả kinh doanh giảm đi (thậm chí có lúc không thể thuê ngoài được làm mất một số mối làm ăn). Đến những tháng có ít đơn đặt hàng thì nguồn nhân lực và cơ sở vật chất lại dư thừa, lãng phí. Tính thời vụ này mang tính khách quan nên rất khó khắc phục, hạn chế nên công ty phải rất nỗ lực đồng thời phải tạo được sự tin tưởng, ủng hộ cao của khách hàng.
Đó là yếu tố khách quan, ngoài ra công ty còn tồn tại một vài hạn chế về yếu tố chủ quan, về nội lực của công ty, như vấn đề nhân sự. Chúng ta đều biết hoạt động giao nhận là một công việc khá phức tạp đòi hỏi phải có kiến thức hiểu biết rất đa dạng. Khi giao dịch với khách hàng, người giao nhận không chỉ phải giỏi nghiệp vụ, thông thạo các tuyến đường, nắm vững mức cước trên thị trường với từng dịch vụ, từng luồng tuyến mà còn phải thông tường luật pháp, có những kiến thức tổng quát về tính chất hàng hóa, có khả năng thuyết phục khách hàng, hơn thế phải tư vấn cho khách hàng về nhu cầu thị trường. Muốn vậy, người làm giao nhận phải am hiểu nghiệp vụ, thông thạo ngoại ngữ, nắm vững địa lý, có nghệ thuật giao tiếp với khách hàng.
2. Các nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương.
2.1. Nhân tố khách quan.
2.1.1. Tình hình quốc tế.
Trong xu thế toàn cầu hóa thì phụ thuộc giữa các nước ngày càng tăng, vì vậy mà sự biến động của tình hình kinh tế - xã hội ở nước ngoài đều có những ảnh hưởng nhất định đến hoạt động kinh tế trong nước. Lĩnh vực giao nhận hàng hóa quốc tế nói chung và giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển nói riêng là lĩnh vực trực tiếp quan hệ với các chủ thể ở nước ngoài, chịu sự chi phối và tác động của các nhân tố ở nước ngoài nên nó lại càng rất nhạy cảm. Bất kỳ một sự thay đổi nào về chính sách xuất nhập khẩu, tình hính lạm phát, thất nghiệp hay tăng trưởng và suy thoái kinh tế… của các nước đều ảnh hưởng tới hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển của công ty.
Cuộc khủng hoảng kinh tế thế giới năm 2008 đã làm mức tăng trưởng của hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế tại công ty chỉ đạt mức 17.11% và 19.75% trong khi mức tăng trưởng bình quân qua các năm là khoảng trên 20%.
Một yếu tố khách quan khác là giá dầu: Giá dầu thế giới tăng không ngừng trong khoảng 10 năm qua đã ảnh hưởng đến lợi nhuận, doanh thu từ hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển của công ty. Ta có thể thấy tình hình biến động giá dầu thế giới trong 10 năm qua thông qua biểu đồ sau:
Biểu đồ 2: Biểu đồ giá dầu thế giới 10 năm qua (2000 – 2010).
Nguồn: (Ngày truy cập: 12.4.2011).
Quan trọng nhất phải kể đến tình hình tự do hóa dịch vụ vận tải biển trong Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) đặc biệt là khi Việt Nam đã chính thức là thành viên của tổ chức này. Trong hợp tác đa phương dịch vụ, vận tải biển là một trong những ngành dịch vụ nhạy cảm và được các quốc gia rất quan tâm vì vận tải biển được thống kê và cho là vận tải phổ biến, thuận tiện và rẻ nhất trong thương mại quốc tế khi mà biển chiếm phần lớn diện tích trái đất, vận tải biển chiếm tới hơn 80% lượng hàng buôn bán quốc tế, nhưng tiến trình tự do hóa ngành dịch vụ này lại gặp nhiều khó khăn do một số nước đưa ra ý kiến phản đối để đưa ra luật riêng nhằm bảo hộ ngành vận tải biển của nước mình. Các nỗ lực để tự do hóa ngành dịch vụ này đã bị đổ vỡ vào phiên đàm phán vào năm 1996 và bị ngừng lại vào năm 1997. Tuy nhiên các nước đã đạt được cam kết là không áp dụng thêm các hạn chế mới đối với ngành dịch vụ này.
Trên thực tế, môi trường kinh doanh của ngành dịch vụ này vẫn tiếp tục được cải thiện và tự do hóa đáng kể. Lý do chính là những ủng hộ tự do hóa vẫn tiếp tục kiên trì tiến hành tự do hóa đơn phương hoặc tham gia đàm phán trong khuôn khổ các diễn đàn hợp tác kinh tế khác như Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á Thái Bình Dương (APEC), Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN). Nhờ vậy mà những người làm giao nhận mới có điều kiện tin tưởng vào sự phát triển trong thời gian tới.
2.1.2. Các chính sách và quy định của nhà nước.
Thông qua việc đề ra các chính sách và quy định, Nhà nước thiết lập môi trường pháp lý nhằm điều chỉnh các hoạt động của các doanh nghiệp nên nó có ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động giao nhận hang hóa quốc tế bằng đường biển.
Các chính sách khác của Nhà nước như chính sách tỷ giá hối đoái, xây dựng các mặt hàng chủ lực, trực tiếp gia công xuất khẩu, đầu tư cho xuất nhập khẩu, lập các khu chế xuất, các chính sách tín dụng xuất nhập khẩu ... cũng góp phần to lớn tác động tới tình hình xuất nhập khẩu của một quốc gia. Tuỳ theo mức độ can thiệp, tính chất và phương pháp sử dụng các chính sách trên mà hiệu quả và mức độ ảnh hưởng của nó tới lĩnh vực giao nhận hang hóa quốc tế bằng đường biển sẽ như thế nào. Bên cạnh các chính sách trên, nhóm các chính sách hỗ trợ mang tính thể chế - tổ chức, các khung pháp lý và hệ thống hành chính cũng là một trong các nhân tố tác động trực tiếp tới hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển của công ty.
Những thay đổi cơ bản trong quản lý quá trình xuất nhập khẩu của Nhà nước cũng ảnh hưởng đến hoạt động xuất nhập khẩu. Đặc biệt là từ khi ra đời Nghị định 57/1998NĐ-CP ngày 31/7/1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn thi hành thì quyền tự do kinh doanh của thương nhân được mở rộng tạo ra một bước tiến mới, họ được quyền kinh doanh tất cả những gì mà pháp luật cho phép, tạo ra một môi trường kinh doanh lành mạnh cho các doanh nghiệp. Thủ tục xin phép đăng ký kinh doanh xuất nhập khẩu trực tiếp với những điều kiện ràng buộc về vốn, tiêu chuẩn, nghiệp vụ ... đối với doanh nghiệp đã được dỡ bỏ. Từ khi thi hành nghị định này ( 1/9/1998 ) nước ta đã có hơn 30.000 doanh nghiệp được quyền tham gia kinh doanh xuất nhập khẩu, sự tăng lên về con số này khó tránh khỏi tình trạng tranh mua, tranh bán, giá cả cạnh tranh, ép giá, dìm giá , làm cho nhiều doanh nghiệp bước đầu chưa tìm được lối thoát nên hiệu quả kinh doanh giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển còn thấp.
Ngoài ra, chính sách hạn chế nhập khẩu như đánh thuế hàng nhập khẩu cao khiến lượng hàng hóa nhập khẩu giảm, dẫn đến hoạt động giao nhận hàng nhập khẩu cũng giảm đi.
Đối với chính sách về hải quan, nếu như trước đây, bên hải quan sẽ giúp chủ hàng khai hải quan, thì bây giờ trách nhiệm khai hải quan thuộc về chủ hàng. Điều này khiến dịch vụ khai thuê hải quan rất phát triển, mà người thành thạo trong lĩnh vực này không ai khác là người giao nhận. Từ đó vị trí của người giao nhận càng được nâng cao.
2.1.3. Biến động thời tiết.
Ảnh hưởng của thời tiết đến hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế đường biển bao gồm các yếu tố như thiên tai (động đất, núi lửa…) , sự thay đổi thời tiết, khí hậu giữa cảng đến, cảng đi cũng như trên hành trình vận chuyển.
2.2. Nhân tố chủ quan.
Các nhân tố chủ quan là các nhân tố mà doanh nghiệp có thể kiểm soát được, bao gồm: chiến lược, mục tiêu của công ty; bộ máy quản lý hay tổ chức hành chính; nguồn nhân lực; mạng lưới kinh doanh; cơ sở vật chất kỹ thuật của công ty.
2.2.1. Chiến lược, mục tiêu của công ty.
Công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Báo cáo năm 2011- Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động giao nhận hàng hóa quốc tế bằng đường biển tại công ty TNHH tiếp vận xuyên Thái Bình Dương-.doc