Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại Việt nam

Lời nói đầu 1

Chương I: Những vấn đề lý luận chung. 3

I. Một số vấn đề cơ bản về Thương mại quốc tế và hoạt động xuất khẩu. 3

1. Lý thuyết về Thương mại quốc tế. 3

2. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu: 4

2.1. Khái niệm xuất khẩu: 4

2.2. Sự cần thiết của hoạt động xuất khẩu: 5

3. Vai trò của hoạt động xuất khẩu: 5

3.1. Đối với nền kinh tế quốc dân: 5

3.2. Đối với doanh nghiệp : 7

4. Các hình thức xuất khẩu chủ yếu: 7

4.1. Xuất khẩu trực tiếp: 7

4.2. Xuất khẩu uỷ thác: 8

4.3. Buôn bán đối lưu: 8

4.4. Xuất khẩu theo nghị định thư: 8

4.5. Xuất khẩu tại chỗ: 8

4.6. Gia công quốc tế: 8

4.7. Tạm nhập, tái xuất: 8

4.8. Chuyển khẩu: 9

5. Các bước cần thiết để tiến hành hoạt động xuất khẩu: 9

5.1. Nghiên cứu thị trường xuất khẩu: 9

5.2. Tạo nguồn hàng xuất khẩu: 9

5.3. Lập phương án giao dịch, đàm phán, ký kết và tổ chức thực hiện hợp đồng xuất khẩu. 10

II. Xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI: 10

1. Doanh nghiệp FDI : 10

1.1. Khái niệm doanh nghiệp FDI: 10

1.2. Phân loại doanh nghiệp FDI: 11

2. Vai trò của các doanh nghiệp FDI trong nền kinh tế quốc dân Việt nam: 14

2.1. Tăng vốn đầu tư cho sản xuất và khai thác tiềm năng. 14

2.2. Tạo ra một khối lượng hàng hoá lớn và có chất lượng để xuất khẩu. 14

2.3. Tạo công ăn việc làm giải quyết thất nghiệp. 15

2.4. Thực hiện chuyển giao công nghệ, nâng cao năng lực sản xuất, nâng cao trình độ nghề nghiệp cho lao động và quản lý . 16

2.5. Mở rộng các hoạt động kinh tế đối ngoại. 16

3. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp FDI. 16

3.1. Yếu tố kinh tế trong nước và định hướng xuất khẩu của Chính phủ. 17

3.2. Quy chế xuất nhập khẩu. 17

3.3. Quan hệ kinh tế quốc tế. 18

3.4. Cơ chế quản lý và chính sách ngoại thương của các quốc gia. 18

3.5. Quan hệ tỉ giá hối đoái giữa đồng tiền của các nước. 18

3.6. Trình độ khoa học- công nghệ của các nước. 19

3.7. Lợi thế so sánh của một nước. 19

3.8. ảnh hưởng của yếu tố văn hoá. 19

4. Khả năng xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI: 20

4.1. Các doanh nghiệp FDI có khả năng huy động nguồn vốn lớn nên việc đầu tư vào xuất khẩu hàng hoá cao. 20

4.2. Có trang thiết bị và công nghệ hiện đại sẽ thúc đẩy công tác xuất khẩu. 20

4.3. Luật đầu tư nước ngoài đã được thực thi hơn 13 năm, đến nay đã có trên 70 nước và vùng lãnh thổ với nhiều tập đoàn kinh tế- tài chính lớn đầu tư vào nước ta. 20

Chương II: Thực trạng hoạt động xuất khẩu của các DN FDI tại Việt nam trong thời gian vừa qua 22

I. Thực trạng hoạt động xuất khẩu của Việt nam thời kỳ 1996 đến 2001. 22

II. Thực trạng hoạt động xuất khẩu trong các DN FDI tại Việt nam thời gian vừa qua. 25

1. Số lượng các doanh nghiệp tham gia xuất khẩu: 25

2. Về tình hình xuất khẩu: 30

3/ Đánh giá kết quả hoạt động xuất khẩu của các DN FDI. 47

4. Những biện pháp được Doanh nghiệp FDI thực hiện đẩy mạnh xuất khẩu: 49

4.1. Các biện pháp về tổ chức hoạt động xuất khẩu. 49

4.2. Các biện pháp hỗ trợ và phục vụ hoạt động xuất khẩu. 50

5. Một số hạn chế- Nguyên nhân trong việc tiến hành xuất khẩu. 52

5.1. Về quản lý Nhà nước. 52

5.2. Về phía các doanh nghiệp. 54

Chương III: 56

Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN FDI tại Việt nam trong thời gian tới 56

I. định hướng về xuất khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2010. 56

1. Các quan điểm chỉ đạo. 57

2. Các định hướng. 57

2.1. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng: 58

2.2. Về cơ cấu hàng hoá và dich vụ xuất khẩu. 59

2.3. Về thị trường xuất khẩu . 69

II. Các kiến nghị: 74

1. Kiến nghị đối với các cơ quan quản lý Nhà nước: 74

1.1. Đổi mới quan điểm, luận cứ khi xây dựng cơ chế chính sách. 74

1.2. Đổi mới căn bản nội dung cơ chế chính sách. 75

1.5. Chú trọng đến các địa bàn thuận lợi: 90

 1.6. Các vấn đề về thị trường - thông tin và xúc tiến thương mại .91

 1.7. Đẩy mạnh cải cách hành chính, xoá bỏ các rào cản bất hợp lý đang cản trở hoạt động xuất khẩu 92

2. Kiến nghị đối với doanh nghiệp FDI: 95

2.1.Khai thác triệt để công nghệ để sản xuất hàng hóa có chất lượng cao và có khả năng cạnh tranh cao trên thương trường quốc. 95

2.2. Các DN FDI phải đưa ra được các mục tiêu: 95

2.3. Sử dụng hiệu quả mạng lưới và kênh tiêu thụ của các DN FDI để thâm nhập thị trường. 96

Kết luận 98

 

doc102 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1227 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trong các doanh nghiệp FDI tại Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
n. Trong thời buổi cạnh tranh, có được bạn hàng là rất khó, duy trì đượcmối quan hệ còn khó hơn. Điều cốt yếu giành chiến thắng trên thương trường hiện nay là có sự tin tưởng, sự giúp đỡ lẫn nhau giữa các bạn hàng, làm ăn có uy tín. Đối với các DN FDI thì phong cách kinh doanh, cách cư sử với bạn hàng và khách hàng luôn thể hiện chữ tín, giúp đỡ và đảm bảo lợi ích cho bạn hàng một cách sòng phẳng kể cả hy sinh một phần lợi ích của mình, không vì lợi ích trước mắt mà bỏ đi cả một mối quan hệ lâu dài, mất nhiều thời gian và công sức mới gây dựng lại được. Các doanh nghiệp luôn đánh giá được tương lai và triển vọng của các bạn hàng, khách hàng cũ để từ đó xác định việc nên tập trung coi trọng mối quan hệ nào nhất để đem lại hiệu quả trong hợp tác kinh doanh cả về hiện tại và lâu dài. 4.2.3. Nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường: Uy tín của doanh nghiệp cũng là một yếu tố quan trọng tạo thuận lợi cho việc thiết lập mối quan hệ kinh doanh lâu dài trong việc nhận được các đơn đặt hàng, hợp đồng uỷ thác, các hoạt động dịch vụ có liên quan. Do đó, các doanh nghiệp đã triển khai thực hiện tốt nhiệm vụ của mình, ban lãnh đạo doanh nghiệp luôn quan tâm và có những sự chỉ đạo cụ thể đến từng thương vụ kinh doanh, có sự xử lý linh hoạt và kịp thời các tình huống phát sinh. Luôn giáo dục mỗi cá nhân, mỗi bộ phận của doanh nghiệp thấy rõ quyền lợi và nghĩa vụ của mình, của phần mình, gắn bản thân vào các hoạt động của doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường hiện nay, doanh nghiệp đã có những hoạt động quảng cáo khuếch trương để tăng cường uy tín của mình. Họ tổ chức quảng cáo dưới mọi hình thức đa dạng và phong phú về các sản phẩm hàng hoá và dịch vụ của doanh nghiệp, khuếch trương những thành tựu đã đạt được, tìm cách tạo dựng hình ảnh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước. 5. Một số hạn chế- Nguyên nhân trong việc tiến hành xuất khẩu. 5.1. Về quản lý Nhà nước. * Về nhận thức. Chưa thấy hết tầm quan trọng của việc phải nâng cao nhanh chóng mức sống của nhân dân nên có liên quan như thế nào đối với vận mệnh đất nước nên không toàn tâm toàn ý lo cho mục tiêu này. Chưa thấy hết ý nghĩa của đầu tư ( đi sâu hơn là xuất khẩu) có quan hệ thế nào với việc nâng cao nhanh chóng mức sống của nhân dân, vẫn ỷ lại vào tiềm năng lao động, đất đai. Điều mà giờ đây không còn là lợi thế tuyệt đối nữa bởi sự phát triển mạnh mẽ của khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức. Khi khoa học công nghệ, của nền kinh tế tri thức. Khi khoa học công nghiệp đã trở thành một yếu tố của lực lượng sản xuất thì chỉ có con người với hàm lượng khoa học cao mới là lợi thế lớn nhất của các quốc gia. * Về chính sách qui định của Nhà nước: Cơ chế chính sách của Nhà nước còn chưa đồng bộ, thiếu thống nhất.Hệ thống pháp luật của Việt nam vẫn còn nhiều bất cập.Các văn bản dưới luật còn chưa đồng bộ và ổn định, nhiều văn bản của các Bộ và các Ngành còn chưa chồng chéo, thiếu thống nhất, thiếu chặt chẽ. Việc thực thi pháp luật, chính sách chưa nghiêm túc, vẫn còn khá tuỳ tiện, còn tình trạng “ phép vua thua lệ làng” ở một số địa phương trong cả nước. Hệ thống pháp luật về đầu tư nước ngoài chưa hoàn thiện, liên tục được sửa đổi bổ xung.Sự hay thay đổi của pháp luật và thể chế quản lý đã tạo ra tâm lý trông chờ, hoang mang cho các nhà đầu tư. Từ đó dẫn đến hoạt động sản xuất kinh doanh ở khu vực đầu tư nước ngoài giảm và kéo theo hoạt động xuất khẩu cũng giảm theo. Bên cạnh đó, cơ chế điều hành xuất khẩu của Việt nam còn rất nhiều điểm chưa hợp lý làm cản trở hoạt động xuất khẩu của các DN FDI. Một mặt, các chính sách đề cao việc đẩy mạnh xuất khẩu nhưng những hàng rào thuế quan lại bảo hộ sản xuất trong nước, thay thế hàng nhập khẩu và có phần mâu thuẫn với chiến lược hướng về xuất khẩu. * Về quản lý ngoại hối: Như chúng ta đã biết, quản lý ngoại hối (quản lý về tỷ giá hối đoái, những quy định về chuyển đổi ngoại tệ và tiếp cận ngoại tệ) là một phần quan trọng trong cơ chế đầu tư nước ngoài ở tất cả các quốc gia. Một cơ chế hay việc trao đổi ngoại tệ hợp pháp của các nhà đầu tư có thể làm hạn chế đến các lợi thế khác và làm cho đất nước trở lên kém hấp dẫn đối với đầu tư nước ngoài. ở Việt nam sự không chắc chắn về khả năng chuyển đổi từ đồng nội tệ sang đồng ngoại tệ hiện nay đang là một trở ngại lớn trong quá trình thực hiện dự án đầu tư nước ngoài. Điều này tạo ra một sức ép lớn buộc các doanh nghiệp phải đẩy mạnh xuất khẩu để tự đảm bảo cân đối ngoại tệ, nhưng lại không khuyến khích đối với các nhà đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng hoặc sản xuất kinh doanh, dịch vụ không có điều kiện thu được ngoại tệ. Do khả năng chuyển đổi ngoại tệ ở Việt nam còn nhiều hạn chế nên nhiều DN FDI phải tự giải quyết bằng cách tích trữ các khoản thu nhập ngoại tệ từ xuất khẩu tại các ngân hàng Nhà nước để khỏi bị chuyển đổi. Điều này tất nhiên sẽ gây bất lợi cho các DN FDI trong việc quay vòng vốn cũng như mở rộng đầu tư và tái đầu tư. * Về thuế xuất nhập khẩu( cũng như thuế xuất khẩu): Trở ngại lớn nhất trong lĩnh vực này là các quy định về thuế và các mức thuế không nhất quán, điều này đã gây ít nhiều ảnh hưởng đến các dự án, không khuyến khích đầu tư mới so thiếu ổn định và chính sách thuế. Đáng lưu ý là có những vấn đề tưởng như rõ ràng theo quy định của luật về miễn thuế nhập khẩu đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận chuyển, vật tư, nguyên liệu dùng để xây dựng cơ bản hình thành doanh nghiệp, nhưng mỗi khi làm thủ tục nhập khẩu, doanh nghiệp phải giải trình khá vất vả với các cơ quan duyệt kế hoạch nhập khẩu và cơ quan Hải quan mới được giải quyết. Đặc biệt là phương pháp áp dụng thuế giá trị gia tăng( VAT) trực tiếp đã tạo ra 2 chế độ trả thuế VAT, trái ngược với tính hợp lý của hệ thống thuế VAT: ví dụ như các công ty sử dụng phương pháp khấu trừ thuế VAT đã đóng góp và được trả bởi các nhà sản xuất. Vì vậy sẽ làm tăng thêm gánh nặng về thuế VAT đối với các DN FDI. * Cơ sở hạ tầng thấp kém: Trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, chỉ có viễn thông là ở mức tương đối hoàn thiện. Các yếu tố khác như đường bộ, đường sắt, sân bay, cầu cảng, các phương tiện vận tải... hầu như chưa đáp ứng được các nhà đầu tư. Thiếu tiện nghi và đắt đỏ vẫn là thực trạng của cơ sở hạ tầng Việt nam. Những yếu tố này có ảnh hưởng rất lớn đến quyết định của nhà đầu tư cũng như ảnh hưởng đến giá thành sản phẩm làm ra. * Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế: Năng lực cạch tranh của nền kinh tế Việt nam còn rất thấp đã ảnh hưởng không ít đến chính sách lựa chọn sản phẩm xuất khẩu. Những điều này phần lớn là do cơ chế, chính sách của Việt nam chưa hợp lý. * Về thủ tục hải quan: Mặc dù ngành hải quan đã có nhiều cải cách nhằm đơn giản hoá thủ tục và tạo điều kiện thuận lợi cho các DN FDI như thành lập các kho báo thuế, thành lập công ty khai thuế hải quan cho tất cả các loại hình xuất nhập khẩu mậu dịch, đơn giản hoá việc khai báo... Tuy nhiên trong thực tế vẫn còn quá nhiều trở ngại cho các DN FDI như việc áp sai mã thuế, xử lý hàng giao thừa, giao khác chủng loại... còn cứng nhắc gây các thiệt hại cho các DN FDI. Thêm vào đó trình độ nghiệp vụ, ngoại ngữ của nhân viên hải quan còn hạn chế cộng với tinh thần thái độ cửa quyền, hách dịch, vòi vĩnh của họ đã tạo ra ảnh hưởng tiêu cực không đáng có cho việc thu hút vốn đầu tư nước ngoài ở Việt nam. Một vấn đề đáng lo ngại làm nản lòng không ít các nhà đầu tư nữa là các quy định rườm rà, phức tạp, trùng lặp về thủ tục xuất nhập cũng như các thủ tục giấy tờ không cần thiết tại các hải quan cửa khẩu đã trở thành các rào cản phi thuế quan đáng quan tâm. Việc phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước cũng không được thực hiện tốt gây ra nhiều trở ngại cho các DN FDI trong hoạt động xuất khẩu như sự phối hợp giữa Bộ Thương Mại với Tổng cục Hải quan hay giữa Bộ Thương Mại với Bộ Tài Chính. 5.2. Về phía các doanh nghiệp. * Mặc dù có nhiều lợi thế so sánh so với các doanh nghiệp nội địa nhưng những năm qua, xuất khẩu trong khu vực FDI vẫn chưa thực sự tương xứng với tiềm năng của nó. Điều này là do khó khăn cơ bản về cơ cấu thị trường. Cũng như cơ cấu thị trường xuất khẩu của các nước, cơ cấu thị trường của khu vực có FDI hiện nay cũng đang mất cân đối nghiêm trọng. Thị trường xuất khẩu của khu vực có FDI có xu hướng hướng mạnh các nước trong khu vực, các nước Châu á: ASEAN, Nhật, các nước NICS. Còn Châu Âu và Châu Mỹ chiếm tỷ trọng nhỏ. Chính vì vậy khi cuộc khủng hoảng tài chính Châu á xảy ra, xuất khẩu ở khu vực FDI cũng bị ảnh hưởng nghiêm trọng. * Các doanh nghiệp FDI tại Việt nam chưa phát huy được tiềm năng của doanh nghiệp mình, đó là tiềm năng về khoa học- công nghệ, về lợi thế cạnh tranh... * Một số bất cập về chính sách đối với các DN FDI trong lĩnh vực xuất nhập khẩu nói chung, cũng như trong lĩnh vực xuất khẩu nói riêng. Ngoài các trở ngại thường gặp như đối với bất kì dự án nào trong quá trình cấp giấy phép đầu tư và phê duyệt giấy phép như thủ tục thành lập công ty, các thủ tục về đất đai, giấy phép xây dựng, giấy phép xuất nhập khẩu... Các DN FDI còn phải đối mặt với một loạt các khó khăn khác được tạo ra bởi các chính sách không mấy hấp dẫn trong lĩnh vực xuất khẩu như: + Sự bảo hộ do các cơ chế thương mại đặt ra hàng năm còn rất cao và bao gồm một diện rộng các mặt hàng. Thương mại bị thu hẹp do các mức thuế quan cao và hay thay đổi do các biện pháp phi thuế quan (hạn ngạch, giấy phép...) còn khá phức tạp, cộng với tệ quan liêu hành chính giấy tờ diễn ra thường xuyên ở các cơ quan quản lý. + Vẫn còn sự phân biệt đối xử giữa các doanh nghiệp trong nước với các DN FDI như: chi phí vận chuyển, chi phí cho các tiện nghi sản xuất của các DN FDI cao hơn nhiều so với các doanh nghiệp trong nước... + Các giới hạn về kinh doanh hàng hoá ở Việt nam và các giới hạn cụ thể đối với nhà sản xuất trong việc nhập khẩu các sản phẩm của mình để tiếp thị hoặc thoả mãn nhu cầu mà sản xuất trong nước chưa đầu tư được, đã làm giảm tính cạnh tranh và không nhất quán với nền kinh tế thị trường. + Chính sách thay thế hàng nhập khẩu và cạnh tranh xuất khẩu không hiệu quả: điển hình như các ngành ôtô, sắt thép, đường, xi măng... đều đang gặp khó khăn về thị trường, do giá thành quá cao, khả năng cạnh tranh với hàng nhập khẩu tương tự rất thấp. Đây là vấn đề tương đối nan giải không chỉ đối với nhà đầu tư mà là tín hiệu báo động báo động đối với các nhà hoạch định chính sách, cần có sự thay đổi trong cơ cấu ngoại thương và công nghiệp hoá để đem lại hiệu quả đầu tư và để tránh những yêu cầu bảo hộ quá mức hoặc hỗ trợ khác của Chính phủ. Nhìn vào khả năng thực tế, chúng ta cũng phải thấy một điều rằng, cho dù chúng ta có thông minh chăm chỉ đến đâu, nhưng vẫn chưa thể sản xuất hàng thay thế nhập khẩu tự cung tự cấp được. Để làm được điều này, ở các nước có nền công nghiệp hoá cao hơn cũng phải có thời gian và đặc biệt có thể chịu tốn kém, rủi ro trong nền kinh tế toàn cầu hiện nay. Chương III: Một số kiến nghị nhằm thúc đẩy hoạt động xuất khẩu của các DN FDI tại Việt nam trong thời gian tới I. định hướng về xuất khẩu của Việt nam từ nay đến năm 2010. Bước vào thời kỳ 2001-2010, thế và lực của nước ta đã khác hẳn 10 năm trước đây. Đất nước đã ra khỏi khủng hoảng kinh tế- xã hội, cơ sở hạ tầng và năng lực sản xuất được cải thiện đáng kể, thị trường được mở rộng. Tuy nhiên, trình độ phát triển kinh tế của nước ta còn thấp, GDP bình quân đầu người năm 2000 mới đạt gần 400USD. Cơ cấu kinh tế và trình độ công nghệ nhìn chung còn lạc hậu. Khả năng cạnh tranh còn thấp ở cả cấp độ quốc gia, doanh nghiệp lẫn sản phẩm. Như trên đã nói, “ thế” và “ lực” của nước ta đã khác trước. Các nguồn lực như lao động, đất đai, tài nguyên... còn khá dồi dào. Cơ sở hạ tầng được cải thiện hơn, tạo thuận lợi cho phát triển kinh tế và đẩy mạnh xuất khẩu. Với bên ngoài, ta đã có quan hệ kinh tế- thương mại với nhiều nước và nhiều tổ chức kinh tế, tài chính quốc tế. Hàng hoá Việt nam đã có mặt tại tất cả các nước lớn và các trung tâm kinh tế lớn. Qúa trình hội nhập sẽ tạo cơ hội cho ta mở rộng thị trường để phát triển kinh tế và tăng cường quan hệ thương mại. Bên cạnh đó chúng ta còn gặp phải những khó khăn, thách thức: + Nước ta vẫn là một nước nghèo và kém phát triển. Dự kiến 10 năm tới chỉ có thể đưa GDP lên gấp đôi. Cơ cấu sản xuất sẽ tiếp tục chuyển dịch theo hướng tiến bộ hơn song nhìn chung còn lạc hậu so với chiều hướng phát triển của thế giới. Thực trạng đó ảnh hưởng tiêu cực tới quy mô, cơ cấu và hiệu quả của hoạt động xuất- nhập khẩu. + Năng lực cạnh tranh của quốc gia, doanh nghiệp và sản phẩm còn thấp trong khi nước ta lại phải nhập cuộc đua tranh ngày càng gay gắt trên thị trường khu vực và thế giới. Trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác xuất- nhập khẩu và công tác tham mưu về chiến lược, chính sách còn bất cập. + Kinh tế thế giới và khu vực, đặc biệt là tình hình tài chính- tiền tệ- tỷ giá, giá sản phẩm, nhất là giá nông sản, nhiên liệu còn chứa đựng nhiều nhân tố không ổn định, khó dự báo, có thể tác động tiêu cực tới nền kinh tế và kinh doanh xuất nhập khẩu của nước ta. Nhìn toàn cục, nước ta đứng trước nhiều thuận lợi hơn so với khi bước vào thập kỷ 90. Tuy nhiên, không thể xem thường các thách thức, khó khăn như đã trình bày trên. Trong thời kỳ 2001-2010, trước những thách thức của toàn cầu hoá và nguy cơ tụt hậu, xuất khẩu cần phải có được sự thay đổi về chất, thể hiện trên các phương diện: - Mục tiêu nỗ lực gia tăng tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, góp phần đẩy mạnh công nghiệp hoá- hiện đại hoá, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ. - Chuyển dịch cơ cấu xuất khẩu theo hướng nâng cao giá trị gia tăng, gia tăng sản phẩm chế biến và chế tạo, các loại sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao, thúc đẩy xuất khẩu dịch vụ. - Mở rộng và đa dạng hoá thị trường và phương thức kinh doanh. - Hội nhập thắng lợi vào kinh tế khu vực và thế giới. 1. Các quan điểm chỉ đạo. Để đạt được các mục tiêu trên, cần nắm vững các quan điểm chỉ đạo sau: Một là: Tiếp tục duy trì chủ trương dành ưu tiên cao cho xuất khẩu để thúc đẩy tăng trưởng GDP, phát triển sản xuất, thu hút lao động, có thêm ngoại tệ; Hai là: Chủ động hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới trên cơ sở giữ vững độc lập tự chủ và định hướng XHCN, với kế hoạch tổng thể và lộ trình cũng như các bước đi hợp lý, phù hợp với trình độ phát triển của đất nước và quy định của các tổ chức mà ta tham gia. Ba là: Lấy việc phát huy nội lực, đẩy mạnh sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đổi mới cơ chế quản lý; hoàn chỉnh hệ thống luật pháp; nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của các doanh nghiệp cũng như toàn bộ nền kinh tế làm khâu then chốt, có ý nghĩa quyết định đối với việc mở rộng kinh doanh xuất nhập- khẩu, hội nhập quốc tế. Bốn là: Gắn kết thị trường trong nước với thị trường nước ngoài; vừa chú trọng thị trường trong nước, vừa ra sức mở rộng và đa dạng hoá thị trường nước ngoài. Năm là: Kiên trì chủ trương đa dạng hoá các thành phần kinh tế tham gia hoạt động xuất- nhập khẩu, trong đó kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo. 2. Các định hướng. Trên cơ sở những nguyên tắc và quan điểm chỉ đạo trên có một số chỉ tiêu định hướng cho hoạt động xuất khẩu trong thời kỳ 2001-2010 như sau: 2.1. Về quy mô và tốc độ tăng trưởng: Các chỉ tiêu xuất- nhập khẩu một phần quan trọng tuỳ thuộc vào chỉ tiêu chung của nền kinh tế. Theo dự thảo Chiến lược phát triển kinh tế- xã hội thời kỳ 2001-2010 thì trong vòng 10 năm tới GDP sẽ tăng gấp đôi (bình quân hàng năm phải tăng khoảng 7,2%); giá trị sản lượng nông nghiệp tăng khoảng 4% năm, vào năm 2010 sản lượng lương thực đạt 40 triệu tấn, nông nghiệp chiếm tỷ trọng khoảng 16-17% GDP trong đó tỷ trọng sản phẩm chăn nuôi tăng từ 18,6% lên 20-25%, thuỷ sản đạt sản lượng 2,5-3 triệu tấn; giá trị gia tăng của công nghiệp tăng bình quân hàng năm 8-9%, đến năm 2010 công nghiệp chiếm tỷ trọng 40-41% GDP, tỷ trọng công nghiệp chế tác chiếm 80% giá trị sản phẩm xuất khẩu công nghiệp. Dự thảo Chiến lược còn dự kiến nhịp độ tăng trưởng xuất khẩu nhanh gấp đôi nhịp độ tăng trưởng GDP, tức là khoảng 14,4%/năm, trong đó nông sản xuất khẩu qua chế biến đạt kim ngạch 6-7 tỷ USD vào năm 2010, lương thực bình quân 4-5 triệu tấn/năm, khoáng sản đạt kim ngạch khoảng 3 tỷ USD, sản phẩm công nghiệp chiếm 70-80% tổng kim ngạch xuất khẩu ( các chỉ tiêu này sẽ còn được điều chỉnh). Việc gia tăng xuất khẩu 14,4%/năm là nhiệm vụ không đơn giản vì: - Xuất phát điểm của thời kỳ 2001-2010 cao hơn nhiều so với thời kỳ 1991-2000 (13,5 tỷ USD so với 2,4 tỷ USD). Với những hạn chế còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những hạn chế mang tính cơ cấu, thì việc gia tăng giá trị tuyệt đối ở mức trên 2 tỷ USD/năm đòi hỏi sự nỗ lực cao độ trong công tác xuất nhập khẩu. Trong 10 năm qua, khối doanh nghiệp có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần khá lớn cho tăng trưởng xuất khẩu,mở ra những mặt hàng mới và khai phá các thị trường mới. Kể từ năm 1998, đầu tư nước ngoài vào nước ta có chiều hướng chững lại và giảm dần. Hiện nay chưa rõ khả năng có chặn đứng được chiều hường này hay không. Nếu chiều hướng đó còn tiếp diễn thì có thể ảnh hưởng đáng kể tới tốc độ tăng trưởng xuất khẩu, chí ít là trong những năm đầu của thời kỳ 2001-2010. Tuy nhiên, yêu cầu tăng nhanh quy mô và tốc độ xuất khẩu là một nhiệm vụ cấp thiết đối với nền kinh tế nước ta. Một mặt nó khắc phục nguy cơ tụt hậu không chỉ đối với các nước phát triển trên thế giới mà ngay cả với các nước trong khu vực. Hiện nay kim ngạch xuất khẩu cuả malaysia cao hơn ta khoảng 6 lần, Thái Lan hơn ta khoảng 4,5 lần. Nếu ta phấn đấu đến năm 2010 đạt kim ngạch xuất khẩu khoảng 60 tỷ USD và với mức tăng trưởng như hiện nay của hai nước thì khoảng cách đó có thể rút ngắn xuống bằng 1/3 Malaysia và 1/2 Thái Lan. Mặt khác, nó còn tạo ra nguồn ngoại tệ cân đối nhập khẩu, tăng tích luỹ ngoại tệ, tiếp cận nền khoa học công nghệ cao của thế giới phục vụ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Dựa trên kinh nghiệm 10 năm qua kết hợp với những dự báo về sản xuất và thị trường trong 10 năm tới và trên cơ sở phát huy nội lực, có tính đến sự thay đổi có tính đột biến, bộ Thương mại đề xuất phương án phấn đấu tăng trưởng xuất khẩu thời kỳ 2001-2010 như sau: 2.1.1. Về xuất khẩu hàng hoá: -Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15% /năm, trong đó thời kỳ 2001-2005 tăng 16%/năm, thời kỳ 2006-2010 tăng 14%/năm. - Giá trị tăng từ khoảng 13,5 tỷ USD năm 2000 lên 28,4 tỷ USD vào năm 2005 và 54,6 tỷ USD vào năm 2010, gấp hơn 4 lần năm 2000. 2.1.2. Về xuất khẩu dịch vụ. - Tốc độ tăng trưởng bình quân trong thời kỳ 2001-2010 là 15%/năm. - Giá trị tăng từ khoảng 2 tỷ USD năm 2000 lên 4 tỷ USD vào năm 2005 và 8,1 tỷ USD vào năm 2010, tức gấp hơn 4 lần. 2.1.3. Tổng kim ngạch xuất khẩu hàng hoá và dịch vụ tăng từ khoảng 15,5 tỷ USD vào năm 2000 lên 32,4 tỷ USD vào năm 2005 và 62,7 tỷ USD vào năm 2010 ( hơn 4 lần). 2.2. Về cơ cấu hàng hoá và dich vụ xuất khẩu. 2.2.1. Cơ cấu hàng hoá xuất khẩu. Cơ cấu xuất khẩu hàng hoá trong 10 năm tới cần được chuyển dịch theo hướng chủ yếu sau: - Trước mắt huy động mọi nguồn lực hiện có thể có để đẩy mạnh xuất khẩu, tạo công ăn việc làm, thu ngoại tệ; Đồng thời cần chủ động gia tăng xuất khẩu sản phẩm chế biến và chế tạo với giá trị gia tăng ngày càng cao, chú trọng các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô; - Mặt hàng, chất lượng, mẫu mã cần đáp ứng nhu cầu của từng thị trường; - Rất chú trọng việc gia tăng các hoạt động dịch vụ. Tiếc rằng các mặt hàng xuất khẩu mới được đề cập chủ yếu ở trạng thái " tĩnh", chưa thể dự báo được những mặt hàng sẽ xuất hiện trong tương lai do thị trường mách bảo và năng lực sản xuất của ta. Theo các hướng nói trên, chính sách các nhóm hàng có thể hình dung như sau: 2.2.1.1. Nhóm nguyên nhiên liệu: Hiện nay nhóm này, với hai mặt hàng chính là dầu thô và than đá, đang chiếm khoảng trên 20% kim ngạch xuất khẩu của nước ta. Sau khi nhà máy lọc dầu Dung quất đi vào hoạt động, lượng dầu thô xuất khẩu sẽ giảm dần. Dự kiến vào năm 2005 lượng dầu thô xuất khẩu chỉ còn khoảng gần 12 triệu tấn (hiện nay là 16 triệu tấn). Tới năm 2010 có hai phương án, tuỳ thuộc vào lượng khai thác: - Nếu khai thác 14-16 triệu tấn thì sẽ sử dụng trong nước khoảng 12 triệu tấn, xuất khẩu 2-4 triệu tấn; -Nếu khai thác 20 triệu tấn thì có khả năng xuất khẩu khoảng 8 triệu tấn. Dù theo phương án nào thì kim ngạch dầu thô cũng sẽ giảm đáng kể vào năm 2010 (theo phương án một thì tỷ trọng dầu thô trong giá trị xuất khẩu dự kiến sẽ chỉ còn dưới 1% so với 22% hiện nay; theo phương án hai thì tỷ lệ đó sẽ còn khoảng 3%). Thị trường xuất khẩu chính vẫn là Ô-xtrây-lia, Singgapo, Nhật Bản và Trung Quốc, có thể thêm Hoa kỳ. Việc giảm xuất khẩu dầu thô sẽ đi đôi với việc giảm nhập khẩu sản phẩm xăng dầu tư nước ngoài. Dự kiến đến năm 2010 sản xuất trong nước sẽ đáp ứng dược gần 30% nhu cầu về sản phẩm dầu và khí, tức là khoảng 13 triệu tấn sản phẩm / năm, trị gía trên 3 tỷ USD. Về than đá, dự kiến nhu cầu nội địa sẽ tăng đáng kể do xây các nhà máy nhiệt điện mới nên dù sản lượng có thể lên tới 15 triệu tấn/năm (hiện nay là 10-12 triệu tấn/năm) xuất khẩu cũng sẽ chỉ dao động ở mức 4 triệu tấn/năm trong 10 năm tới, mang lại kim ngạch mỗi năm khoảng 120-150 triệu USD. Nhìn chung, giá xuất khẩu than khó có khả năng tăng đột biến do nguồn cung trên thị trường thể giới tương đối dồi dào, vả lại vì lý do môi trường nên cầu có xu hướng giảm. nhiệm vụ chủ yếu trong những năm tới là cố gắng duy trì những thị trường đã có như Nhật Bản, Trung Quốc, Tây Âu... và tăng cường thâm nhập vào thị trường Thái Lan, Hàn Quốc... Khả năng tăng xuất khẩu các loại khoáng sản khác để bù vào thiếu hụt của dầu thô là rất hạn chế. Cho đến năm 2010, quặng Apatít khai thác ra chỉ có thể đáp ứng một phần cho nhu cầu sản xuất phân bón, chưa có khả năng tham gia xuất khẩu. Khả năng sản xuất và xuất khẩu alumin sẽ tuỳ thuộc vào việc triển khai dự án (nếu có thì chỉ sau 2005). Quặng sắt khó có khả năng xuất khẩu với số lượng lớn bởi nhu cầu trong nước sẽ tăng mạnh, khả năng khai thác quặng Thạch Khê còn chưa rõ nét. Đất hiếm tuy có nhưng trữ lượng thương mại không nhiều, việc xuất khẩu lại rất khó khăn do công nghệ chế biến phức tạp, cung cầu thế giới đã ổn định. Các loại quặng khác trữ lượng đều không đáng kể. Như vậy, tới năm 2005, nhóm nguyên nhiên liệu có khả năng chỉ còn đóng góp được khoảng 9% kim ngạch xuất khẩu (2,5 tỷ USD) so với trên 20% hiện nay; đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm này sẽ giảm xuống còn chưa đầy 1%(dưới 500 triệu USD) hoặc 3,5%( khoảng 1,75 tỷ USD), tuỳ theo phương án khai thác dầu thô.Vì vậy, việc tìm ra các mặt hàng mới để thay thế là một thách thức lớn đối với việc gia tăng xuất khẩu. 2.2.1.2. Nhóm hàng nông, lâm, thuỷ sản: Hiện nay nhóm này đang chiếm gần 2,5% kim ngạch xuất khẩu với những mặt hàng chủ yếu là gạo, cao su, cà phê, rau quả, thuỷ sản, hạt tiêu và nhân điều( trừ mặt hàng chè, tất cả các mặt hàng khác đều đạt kim ngạch trên 100 triệu USD/ năm). Do sản xuất nông nghiệp phải chịu những hạn chế mang tính có cấu( như diện tích có hạn, khả năng khai thác và đánh bắt có hạn...) và thời tiết nên theo dự thảo Chiến lược chung, tốc độ tăng trưởng của nhóm này sẽ chỉ ở mức 4%/năm trong toàn kỳ 2001-1010. Bên cạnh đó, nhu cầu của thị trường thế giới cũng có hạn, giá cả lại không ổn định. Vì vậy, dù kim ngạch tuyệt đối vẫn tăng nhưng tỷ trọng của nhom sẽ giảm dần xuống còn 22% (tương đương 5,85 tỷ USD) vào năm 2005 và 17,2%( tương đương 8-8,6 tỷ USD) vào năm 2010. Hướng phát triển chủ đạo của nhóm hàng này trong 10 năm tới là chuyển dịch cơ cấu toàn lĩnh vực, trong mỗi ngành, thậm chí trong từng loại sản phẩm , nâng cao năng suất, chất lượng và giá trị gia tăng. Để đạt mục tiêu này, cần có sự đầu tư thích đáng vào khâu giống và công nghệ sau thu hoạch, kể cả đóng gói, bảo quản, vận chuyển... để tạo ra những đột phá về năng suất và chất lượng sản phẩm. Hạt nhân tăng trưởng của nhóm sẽ là thuỷ sản bởi tiềm năng khai thác và nuôi trồng còn nhiều, nhu cầu thị trường thế giới tăng khá ổn định, thuế suất thấp. Năm 1985 xuất khẩu thuỷ sản thế giới mới đạt 17,2 tỷ USD, tới năm 1995 đã đạt 52 tỷ USD, tức là tăng bình quân mỗi năm trên 13%. Điều này liên quan tới xu thế tiêu dùng của thế giới là giảm tiêu thụ thịt, tăng tiêu thụ thuỷ sản. Với sản lượng dự kiến đạt 3,7 triệu tấn thì kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của ta sẽ đạt 2,5 tỷ USD vào năm 2005 và 3,2-3,5 tỷ USD vào năm 2010, chiếm 40% tổng kim ngạch của nhóm nông lâm hải sản. Thị trường chính sẽ là Nhật Bản, EU, Hoa Kỳ, Trung Quốc... để đảm bảo tốc độ tăng trưởng ổn định cho mặt hàng này, cần tiếp tục chú trọng đầu tư để phát triển đánh bắt xa bờ và nuôi trồng , chuyển từ quảng canh sang thâm canh, phát triển những mặt hàng có kim ngạch cao như tôm, nhuyễn thể. Công nghệ sau thu hoạch cũng cần có sự quan tâm thoả đáng để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và vệ sinh thực phẩm của sản phẩm xuất khẩu. Về gạo, do nhu cầu thế giới tương đối ổn định, khoảng trên 20 triệu tấn/năm, nhiều nhập khẩu nay chú trọng an ninh lương thực, thâm canh tăng năng suất cây trồng, gia tăng bảo hộ, giảm nhập khẩu. Trong hoàn cảnh đó, dự kiến trong suốt thời kỳ 20

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0450.doc
Tài liệu liên quan