Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ

MỤC LỤC

PHẦN 1: CƠ SỞ LÍ LUẬN 3

1.1 Xuất khẩu là gì? 3

1.2 Vai trò của xuất khẩu đối với quá trình phát triển kinh tế. 4

1.2.1 Xuất khẩu tạo nguồn vốn chủ yếu cho nhập khẩu phục vụ công nghiệp hóa đất nước. 4

1.2.2 Xuất khẩu đóng góp vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế, thúc đẩy sản xuất phát triển 5

1.2.3 Xuất khẩu có tác động đến tích cực đến việc giải quyết công ăn việc làm và cải thiện đời sống của nhân dân. 6

1.2.4 Xuất khẩu là cơ sở để mở rộng và thúc đẩy các quan hệ kinh tế đối ngoại của nước ta. 7

1.3 Khái quát về nghành dệt may 7

1.3.1 Đặc điểm cơ bản của ngành và vai trò trong nền kinh tế quốc dân. 7

1.3.2 Ảnh hưởng của ngành trong quá trình tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. 8

PHẦN 2:TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 13

2.1.1 Đặc điểm thị trường hàng dệt may Hoa Kỳ 13

2.1.2 Đặc điêm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Hoa Kỳ. 14

2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. 19

2.2.3 Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 22

PHẦN 3:CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 26

3.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp. 26

3.1.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh. 26

3.1.2 Tập trung sản xuất hướng về xuất khẩu. 29

3.1.3 Tích cực nghiên cứu thị trường. 29

3.2 Các giải pháp tầm vĩ mô. 31

3.2.1 Hỗ trợ các doanh nghiệp dệ may xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 31

3.2.2 Tăng cường đầu tư để nâng cao chất lượng vải, đảm bảo nguyên vật liệu thay thế và hỗ trợ thành lập các doanh nghiệp cung cấp nguyên phụ liệu, nguyên liệu may mặc trong nước. 32

3.2.3. Phát huy hơn nữa vai trò của Hiệp hội dệt may Việt Nam. 33

KẾT LUẬN 35

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 36

MỤC LỤC 37

 

 

doc38 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2289 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm đẩy mạnh xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ới. Việt Nam sẽ phát triển sản phẩm dệt may của mình trong quá trình tự do hóa mậu dịch và thích ứng được với xu thế chuyển dịch hàng dệt may của thế giới. PHẦN 2 TÌNH HÌNH XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY SANG THỊ TRƯỜNG HOA KỲ 2.1. Thị trường dệt may Hoa Kỳ. Hoa Kỳ là một trong những nước có sức tiêu thụ hàng may mặc lớn nhất thế giới. do những tác động của xu hướng toàn cầu hóa nền kinh tế thế giới và sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế Hoa Kỳ, nghành may mặc của nước này đang mất dần lợi thế so sánh. Đây là nghành sử dụng nhiều lao động, tuy nhiên từ năm 1970 tới nay lực lượng lao động trong nghành này ở Mỹ giảm 40%. Các nhà kinh tế dự đoán nghành may gia công Mỹ sẽ không còn tồn tại trong vòng mười năm tới. Nghành may gia công sẽ nhường chỗ cho nghành may hàng cao cấp với các nhãn hiệu nổi tiếng và nhân công có tay nghề cao. Vì thế có thể đánh giá Hoa Kỳ là mảnh đất tương đối lý tưởng và là thị trường đầy tiềm năng đối với các nước sản xuất và xuất khẩu hàng dệt may công nghiệp trong đó có Việt Nam. 2.1.1 Đặc điểm thị trường hàng dệt may Hoa Kỳ Các nền kinh tế trên thế giới đều lấy Hoa Kỳ làm thị trường chủ lực bởi vì thị trường Hoa Kỳ có tổng giá trị buôn bán lớn nhất toàn cầu, hàng nhập khẩu đa dạng. Các doanh nghiệp có thể biết được năng lực cạnh tranh của mình thông qua việc nhập khẩu hàng hóa sang thị trường Mỹ. Qua đó tạo điều kiện thuận lợi thâm nhập và các thị trường khác. Mặt khác với diện tích khoảng 9,4 triệu kilômet vuông và dân số khoảng 280 triệu người đã làm cho Mỹ trở thành cường quốc kinh tế số một với sức mua lớn nhất thế giới. Hoa Kỳ cũng là nước nhập khẩu dệt may lớn nhất thế giới, hàng năm Hoa Kỳ có nhu cầu nhập khẩu trên 60 tỷ USD dệ may. Hơn nữa Hoa Kỳ lại là một quốc gia đa sắc tộc, đa văn hóa với nhu cầu may mặc rất đa dạng, ta có thể khai thác đặc diểm này từ thị trường Hoa Kỳ. Như vậy Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng lớn cho mọi nhà sản xuất và xuất khẩu dệt may thế giới cũng như đối với các doanh nghiệp dệt may nước ta. 2.1.2 Đặc điêm nhập khẩu hàng dệt may của thị trường Hoa Kỳ. 2.1.2.1 Quy mô nhập khẩu hàng năm Hoa Kỳ là thị trường xuất khẩu chính của các nước xuất khẩu sản phẩm dệt may ở Đông Á và là nước đứng đầu thế giới về nhập khẩu hàng may mặc. HÀng năm Mỹ nhập khoảng 60 tỷ USD hàng may mặc và hàng dệt. Quy mô nhập khẩu hàng dệt may của Mỹ ngày càng tăng. 2.1.2.2 Các quy định cho hàng dệt may. Hoa Kỳ là thành viên của tổ chức thương mại thế giới (WTO), có tham gia hiệp định đa sợi MFA nên hàng dệt may vào Hoa Kỳ phải tuân thủ theo những nguyên tắc chung của MFA. Vì thế khi đưa hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ cần nắm được hai quy định quan trọng của hiệp định đa sợi MFA và quy định hệ thống hạn nghạch hàng dệt may Hoa Kỳ. + Quy định chung của Hiệp định đa sợi MFA : Hiệp định cho phép mỗi thành viên của MFA được xây dựng những thõa thuận song phương giữa nước xuất khẩu và nước nhập khẩu hàng dệt. Các nước được đơn phương định đoạt các biện pháp khi thấy rằng thị trường dệt của mình bị phương hại. Hiệp định còn cho phép áp dụng hạn nghạch để hạn chế số lượng hàng dệt may nhập khẩu vào quốc gia mình, + Quy chế hệ thống hạn nghạch dệt may Hoa Kỳ: Tính đén năm 1998, Hoa Kỳ đã ký Hiệp định song phương và đa phương với 45 nước trong đó có 37 nước là thành viên của WTO và hiệp định này được xây dựng trên cơ sở thương lượng với thời hạn có hiệu lực từ 3-6 năm. Về cơ bản, mức Quota nhập khẩu hàng dệt may vào thị trường Mỹ sẽ được áp dụng dựa trên cơ sở hay khối lượng hàng dệt đã được đưa vào thị trường Hoa Kỳ vào thời điểm đàm phấn. Nếu khối lượng hàng dệt may đưa vào thị trường Hoa Kỳ đạt 100000 tá sản phẩm thì hải quan của Hoa Kỳ bắt đàu theo dõi và khi khối lượng này đã tăng lên gấp đôi thì phía Hoa Kỳ sẽ chính thứcđề nghị đàm phấn để xác định hạn nghạch nhập khẩu. Như vậy để Việt Nam có thể nhận được hạn nghạch nhập khẩu lớn thì trong từ 1 đến 2 năm đầu kể từ khi Hiệp định có hiệu lực các doanh nghiệp xuất khẩu sản phẩm dệt may Việt Nam phải nỗ lực tối đa để đưa khối lượng hàng hóa lớn sang thị trường này. 2.1.2.3 Chính sách thương mại của Hoa Kỳ đối với hàng dệt may nói chung và hàng dệt may Việt Nam nói riêng. Xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ đang là vấn đề quan tâm hàng đầu của các doanh nghiệp làm hàng xuất khẩu của Việt Nam. Hoa Kỳ là một thị trường lớn rất “tự do” nhưng cũng được đánh giá là nhiều bất trắc nếu không nắm vững “ luật chơi”. Do đó trước khi xuất khẩu hàng sang Mỹ các doanh nghiệp phải nghiên cứu kỹ pháp luật của Hoa Kỳ. Về quy chế tối huệ quốc (MFN): gần như tất cả các bạn hàng buôn bán luôn của Mỹ đều được hưởng quy chế này. Hàng hóa đi từ tất cả các nước được hưởng quy chế này đều chịu cùng một mức thuế, khi Hoa Kỳ giảm thuế, loiạ bỏ hay có những thay đổi trong hệ thống thuế thì những sự thay đổi đó được áp dụng đối với tất cả các nước thành viên được hưởng MFN. Các mặt hàng nhập khẩu từ các nước chưa được hưởng MFN phải chịu mức thuế cao hơn. Với quy định này, khi xuất khẩu hàng hóa sang Hoa Kỳ, doanh nghiệp Việt Nam ( Khi được hưởng MFN) có thể dễ dàng thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ nhưng phải đối mặt với hàng hóa được xuất khẩu từ các nước khác sang thị trường Hoa Kỳ cũng như được hưởng những ưu đãi tương tự. Về trị giá hải quan, Hoa Kỳ áp dụng cách thức tính giá hải quan của tổ chức Thương mại thế giới (WTO). Để bảo vệ các công ty Hoa Kỳ trước các hoạt động nhập khẩu không bình đẳng, Hoa Kỳ áp dụng hai luật thuế là luật thuế đối kháng và luật thuế chống phá giá. Hai loại luật thuế này đòi hỏi phải áp dụng các mức thuế bổ sung khi có tình trạng buôn bán không lành mạnh. Luật thuế đối kháng thực thi bằng cách tăng thuế nhập khẩu để bù vào hay để đổi lại với khoản trợ cấp của hàng hóa nước ngoài gây thiệt hại vật chất cho các nhà sản xuất hàng hóa tương tự ở Hoa Kỳ. Các khoản trợ cấp chịu thuế đối kháng chủ yếu được các chính phủ nước ngoài cung cấp trực tiếp hay gián tiếp. Với luật thuế này, các doanh nghiệp Việt Nam khi được hưởng những ưu đãi của chính phủ cần thận trọng khi xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ vì có thể vi phạm các quy định của đạo luật này Luật thuế chống bán phá giá được sử dụng ở Mỹ rộng rãi hơn so với luật thuế đối kháng. Thuế chống phá giá là thuế được áp dụng đối với các sản phẩm nhập khẩu khi hàng hóa nước ngoài được xác định là bán phá giá hàng đã bán hoặc chắc chắn sẽ bán ở Hoa Kỳ với mức giá thấp hơn giá trị thị trường của nó. Về hệ thống hạn nghạch, Hoa Kỳ áp dụng hệ thống hạn nghạch để kiểm soát về khối lượng hàng háo nhập khẩu trong một thời gian dài nhất định. Luật thương mại Hoa Kỳ cho phép sản phẩm Hoa Kỳ đơn phương áp đặt các hạn nghạch mang tính hành chính đối với các loại hàng dệt may. có 2 loại hạn nghạch: Hạn nghạch tuyệt đối và hạn nghạch theo thuế suất. Hạn nghạch tuyệt đối là hạn nghạch hạn chế về số lượng. vì vậy trong suốt thời gian áp dụng hạn nghạch, chỉ một số lượng hàng hóa đã được ấn định mới được phép nhập khẩu. Một số hạn nghạch tuyệt đối được áp dụng trên toàn thế giới, còn một số chỉ áp dụng với một vài quốc gia nào đó. Số lượng hàng nhập khẩu dư lại so với hạn nghạch sẽ bị giữ lai tại một “ khu ngoại thương” để bổ sung cho kỳ hạn nghạch sao đó hay được đưa vào kho ngoại quan, cũng có thể bị trả về hoặc tiêu hủy dưới sự giám sát của nhân viên hải quan. Các hiệp định về hàng dệt may có quy định gia tăng các hạn nghạch theo từng thời điểm. Hạn nghạch tính theo mức thuế suất áp dụng cho một số lượng hàng nhập khẩu được quy định với một mức thuế thấp trong một thời hạn nào đó. Không có gới hạn về số lượng hàng nhập khẩu trong suốt thời hạn này, nhưng nếu hàng nhập khẩu vượt quá số lượng cho phép hưởng mức thuế thấp thì số hàng dư đó sẽ phải chịu mức thuế cao hơn. Về chế độ visa xuất khẩu, hàng dệt may cần có visa mới được vào Hoa Kỳ. Visa này được dùng để kiểm soát hàng dệt may và sản phẩm từ hàng dệt từ nước ngoài vào Hoa Kỳ. Một visa hàng dệt may có thể bao gồm hàng có hạn ngahchj hoặc không có hạn ngạch. Hàng dệt có hạn nghạch có thể cần hoặc không cần visa tùy thuộc vào nước xuất xứ. Nếu thời gian hạn nghạch chấm dứt mà visa cho hàng dệt cho hàng dệt may được cấp sau đó bởi chính phủ nước ngoài và hàng đã nhập vào Hoa Kỳ, lô hàng nhập này sẽ không được giải phóng cho nhà nhập khẩu cho đến khi hết hạn nghạch mới được cấp phép. Về nguyên tắc xuất xứ và ghi nhãn hiệu sản phẩm dệt may. Quy định về xuất xứ hàng nhập khẩu vào Hoa Kỳ: Khi xuất khẩu vào thị trường Hoa KỲ, muốn được hưởng thuế suất ưu đãi theo nước xuất xứ, luật Hoa KỲ quy định trên sản phẩm phải ghi rõ nhãn của nước xuất xứ. Quy định này chỉ bắt buộc đối với sản phẩm hoàn chỉnh, khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ có thể bán thẳng cho người tiêu dùng. có một quy định đặc biệt là hàng hóa gốc từ Hoa Kỳ đưa sang nước khác để sắp xếp lại, gia công thêm vào khi nhập khẩu vào Hoa Kỳ sẽ không phải đóng thuế nhập khẩu. dựa vào quy định này một số nước nhận vải cắt sẵn từ các công ty Hoa Kỳ may thành quần áo rồi xuất khẩu trở lại cho Hoa Kỳ chỉ phải chịu thuế nhập khẩu đối với phần phí gia công. Quy định về nhãn mác hàng: Ở Mỹ có hai bộ luật quy định về nhãn mác hàng là TFPIA và ƯPLA. Hai bộ luật này được áp dungk cho hầu hết các sản phẩm dệt may nhập khẩu vào Hoa Kỳ với quy định: 1. Phân biệt tỷ trọng các loiạ sợi trong sản phẩm. Những loại sợi nào có tỷ trọng >5% thì phải dược ghi rõ tỷ trọng từng loại và đề là “otherfiber” ở cuối, các loại sợi có tỷ trọng <=5% sẽ được đề là “other fibers” 2. Tên của nhà sản xuất hoặc số liệu đăng ký tại FTC cho những thành viên tham gia phân phối và buôn bán sản phẩm. Thương hiệu phải được đăng ký tại cơ quan sáng chế Mỹ. 3. Quy định ghi tên quốc gia sản xuất hay gia công sản phẩm được quy định trong điều luật về chống thực sản phẩm dệt TPIA. Đối với những lô hàng nhập vào Hoa Kỳ có gias trị từ 500USD trở lên phải tuân thủ những điều kiện sau: Liệt kê tên các loại sợi cấu thành sản phẩm; tỷ trọng các loại sợi cấu thành; tên quốc gia dăng ký theo FTC hoặc theo mục 3 của TFPIA; tên của quốc gia sản xuất hoặc gia công sản phẩm đó. Như vậy để nhanh chóng tiếp cận thị trường Hoa Kỳ, các doanh nghiệp Việt Nam không những phải nắm vững nhu cầu thị trường, đảm bảo sản phẩm có sức cạnh tranh về chất lượng cũng như giá cả mà còn phải có sự hiểu biết về pháp luật Hoa Kỳ, các chính sách thương mại cũng như hiểu biết về phong cách làm ăn Hoa Kỳ. 2.1.2.4 Hiệp định thương mại Việt-Mỹ Ngày 13/7/2000, Hiệp định thương mại song phương Việt-Mỹ đã được ký kết, đánh đấ bước phát triển mới trong quan hệ kinh tế- thương mại giữa hai nước, kết thúc một quá trình đàm phán lâu dài và kiên trì của cả 2 bên qua 4 năm thương lượng với 9 vòng đàm phán. Hiệp định thương mại Việt- Mỹ bắt đàu có hiệu lực từ ngày 10-12-2001 đã đem lại cho hoạt đọng xuất khẩu của Việt Nam những thời cơ và thách thức mới. diều đó đòi hỏi chính phủ, đặc biệt là các nhà kinh doanh Việt Nam phải tính tới và xây dựng cho mình được lộ trình và bước đi thích hợp để dưa hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế gay gắt để đưa hàng hóa Việt Nam có chỗ đứng xứng đáng trên thị trường đầy tiềm năng này. 2.1.2.5 Đàm phán Hiệp định dệt may Việt- Mỹ. Khi hiệp định thương mại có hiệu lực, hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ sẽ được hưởng quy chế thương mại bình thường, tuy nhiên trong hiệp định cũng quy định rằng hàng dệt may sẽ bị hạn chế bằng kim nghạch. Khi hiệp định về hàng dệt may được ký kết thì những vấn đề cơ bản cho việc nhập khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ cần tuân theo là: Tuân thủ các quy định về hạn nghạch và visa, nộp các bản kê khai về xuất xứ hàng hóa, các quy định về nhãn hàng hóa... Các sản phẩm nhập khẩu không đáp ứng được các quy định của chính phủ sẽ bị giữ lại và có thể bị phạt hoặc bị tịch thu. Ngoài việc phải tuân thủ theo các quy định trên nhà xuất khẩu hàng dệt may vào Hoa Kỳ còn phải tìm hiểu và tuân thủ theo các hạn chế cuả Hoa Kỳ về nhập khẩu hàng dệt may. 2.2.2. Đánh giá chung tình hình thực hiện hoạt động xuất hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. 2.2.2.1. Thuận lợi. Hoa Kỳ thị trường đầy tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản phẩm dệt may. Châu Á là khu vực xuất khẩu hàng may mặc lớn nhất sang thị trường Hoa Kỳ với tổng giá trị xuất khẩu ngày càng gia tăng. Có thể nói yếu tos quan trọng nhất giúp cho hàng may mặc của các nước đang phát triển thiết lập và củng cố vị trí vững chắc của họ trên thị trường Hoa Kỳ là nhờ lợi thế chi phí nhân công thấp. Nước ta cũng không nằm ngoài thuận lợi này. Nghành công nghiệp dệt may Việt Nam có lợi thế tương đối về nguồn nhân công dồi dào và mức lương tương đối thấp so với các nước trong khu vực. Tính đến nay dân số Việt Nam khoảng 85 triệu người trong đó số người trong độ tuổi lao động lớn. Hàng năm tốc độ tăng dân số bình quân từ 1,85-2%, với tốc độ này theo các chuyên gia thì đến năm 2010 dân số Việt Nam khoảng 90 triệu người. Như vậy nguồn lao động của Việt Nam ngày càng tăng. Mặt khác bên cạnh lực lượng lao động dồi dào thì chi phí lao động cảu Việt Nam thấp so với các nước trong khu vực và trên thế giưois. Do vậy, giá sản phẩm các mặt hàng dệt may của Việt Nam tương đối thấp so với các nước. Ví dụ: Nếu so với các nước Đông Nam Á thì giá công may của Việt Nam thấp từ 2 đến 48 lần và nếu so với Đức là 25,86 USD/1h, Nhật Bản là 19,2 USD/1h, Hoa Kỳ là 16,73 USD/1h thì giá công may của Việt Nam là từ 0,16-0,19 USD/1h, thấp từ 100-150 lần. Để giảm tối đa chi phí cho dệt may xuất khẩu, tạo mọi điều kiện cho sản phẩm dệt may cạnh tranh trên thị trường thế giới, chính sách thuế xuất nhập khẩu nước ta đã có nhiều ưu đãi cho nghành dệt may như: áp dụng mức thuế suất 0% đối với các sản phẩm dệt may xuất khẩu. Thuế giá trị gia tăng cũng áp dụng thuế suất 0%. Miễn thuế đối với vật tư nguyên liệu nhập khẩu để gia công hàng cho nước ngoài. Không áp đặt giá tính thuế tối thiểu để xác định giá tính thuế nhập khẩu đối với vật tư nguyên liệu sản xuất hàng dệt may, thuế suất đối với nhập klhẩu máy móc thiết bị phục vụ nghành dệt may hầu hết là 0%, vật tư nguyên liệu của hàng dệt may có thuế suất thấp từ 0%- 10%. 2.2.2.2 Khó khăn. Trong những năm gần đây, công nghiệp dệt may Việt Nam đã có bước tăng trưởng đáng kể. Ngành sử dụng nhiều lao động, giải quyết việc làm, có đngs góp lớn vào xuất khẩu, tạo điều kiện ổn định cán cân thu chi ngoại tệ theo hướng có tích lũy. Thành công đó đạt được là nhờ những thuận lợi mà nghành có, nếu phát huy cao độ tiềm năng và lợi thế so sánh về xuất khẩu nghành công nghiệp dệt may Việt NAm có thể tăng trưởng nhanh hơn nhiều. Bên cạnh những thuận lợi trên các doanh nghiệp dệt may còn gặp rất nhiều khó khăn khi xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ. Thứ nhất: Dệt và sản xuất phụ liệu chưa đủ sức đáp ứng nhu cầu của nghành may xuất khẩu. Theo hiệp hội dệt may Việt Nam( Vitas) nguồn vốn đầu tư trong và ngoài nước đổ vào ngành sợi, dệt đã đưa năng lực sản xuất của nghành này tăng vọt. Tuy nhiên quy mô của nghành sợi, dệt trong mấy năm qua tuy tăng nhanh nhưng vẫn chưa theo kịp nhu cầu của nghành may. Ông Lê Quốc Ân, chủ tịch hiệp hội cho biết các nhà máy dệt, sợi trong nước hiện đã chạy hêt công suất nhưng mới chỉ đáp ứng được khoảng một nửa nhu cầu vải của thị trường. Riêng lĩnh vực may xuất khẩu, tỷ lệ sử dụng nguyên phụ liệu trong nước chỉ khoảng 25-30%. Hiện nghành trồng bông vải trong nước chỉ đáp ứng khoảng 11% nhu cầu bông thiên nhiên của ngành kéo sợi, còn xơ tổng hợp phải nhập khẩu toàn bộ. Thứ hai: Chưa có đội ngũ thiết kế mẫu mã hợp với thị hiếu tiêu dùng trên thế giới. Công tác thiết kế mẫu mốt còn yếu, chưa chú trọng mặc dù nước ta có một đội ngũ các nhà thiết kế giàu năng lực thế nhưng mẫu mã thiế kế chưa thực sự đi vào cuộc sống. còn thời trang hàng nagỳ phần lớn lại được sưu tầm từ các catalogue nước ngoài, khâu thiết kế còn nhiều hạn chế, chưa xây dựng được thương hiệu mang nét đặc trưng và đạt tầm cỡ quốc tế. Mặt khác, một sản phẩm sau khi đưa ra thị trường lại được duy trì trên thị trường khá lâu. Chỉ khi nào thấy người tiêu dùng đã chán sản phẩm đó, doanh nghiệp mới thôi không sản xuất nữa. Điều này lớn là, mặc dù khi doanh nghiệp phát hiện ra sự đi xuống trong chu kỳ sống của sản phẩm thì dừng lại không sản xuất nữa nhưng thực ra thị trường vẫn yồn đọng một số lượng sản phẩm chưa tiêu thụ được. Khác với chúng ta, các doanh nghiệp nước ngoài biết kết thúc sản xuất ngay từ khi sản phẩm đang ở đỉnh cao của chu kỳ sống và đưa ngay ra sản phẩm mới khác. Thứ ba: Khả năng cạnh tranh. Để tăng cường xuất khẩu sang thị trường Hoa Kỳ hàng dệt may Việt Nam phải đủ sức cạnh tranh với các sản phẩm của các hãng sản xuất Hoa Kỳ và các nước xuất khẩu truyền thống vào thị trường này như Trung Quốc, Ấn Độ và các nước Nam Mỹ. Mặt khác chúng ta mất sần lợi thế cào thị phần do giá hàng dệt may thường cao hơn các nước trong khu vực khoảng 10-15%, cao hơn giá hàng Trung Quốc khoảng 20%. Năng suất lao động trong nghành may khoảng 50-70% so với các nước trong khu vực. Thứ tư: Về hệ thống pháp luật và thông tin của thụ trường Hoa Kỳ: Hệ thống luật pháp của Hoa Kỳ hết sức, mỗi bang lại có thể lệ riêng không thể áp dụng từ bang này sang bang khác. Trong khi đó các doanh nghiệp lại thiếu kinh nghiêm về thị trường Hoa Kỳ, thiếu hiểu biết về môi trường kinh doanh ở Hoa Kỳ và thiếu kinh nghiệm kinh doanh quốc tế nên thường bị ép giá, giao hàng không đúng thời hạn, chậm đổi mới... đã làm cho sức cạnh tranh vốn đã yếu của hàng Việt Nam càng khó có thể thâm nhập nhanh và hiệu qur vào thị trường này. Sự yếu kém trên nhiều phương diện của các doanh nghiệp Việt Nam so với các đối thủ cạnh tranh trên thị trường Hoa kỳ đã trở thành hàng rào cản trở việc thâm nhập vào thị trường Hoa Kỳ của các doanh nghiệp Việt Nam trong những năm qua. Vấn đề đặt ra là bất cứ lúc nào các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải nhận thức được các cơ hội và thách thức trong việc thâm nhập vào thị trường Hoa K, trên cơ sở đó mà áp dụng các giải pháp mà đưa được nhiều hàng hóa vủa Việt Nam sang thị trường Hoa Kỳ. 2.2.3 Những thời cơ và thách thức đặt ra đối với hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ 2.2.3.1 Thời cơ: * Hiệp định thương mai Việt- Mỹ (BTA) kí kết ngày 13/7/2000 được quốc hội hai nước phê chuẩn và có hiệu lực từ ngày 10/12/2001 là cơ hội bằng vàng cho nghành dệt may Việt Nam. Hiệp định BTA có hiệu lực và thị trường được mở rộng sẽ cho phép dệt may Việt Nam xuất khẩu sang Hoa Kỳ được hưởng quy chế tối huệ quốc (MFN hay NTR) và ưu đãi phổ cập – GSP với thuế suất 0%. Đây là cơ hội tiên quyết để dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường Hoa Kỳ mà không bị hạn chế bởi hạn ngạch hay giấy phép nhập khẩu cảu chính nước chủ phủ Mỹ đang áp dụng với các nước khác. * An ninh kinh tế và chính trị của Việt Nam được các tổ chức có uy tín trên thế giới xếp loại nhất trong khu vực châu Á. Vì vậy sự kiện ngày 11-9 lại là cơ hội vàng cho nghành dệt may Việt Nam, vì các doanh nghiệp Hoa Kỳ không muốn ký kết hợp đồng làm ăn với những nơi không ổn định về chính trị. Nhiều đơn đặt hàng dệt may Hoa Kỳ từ những nước có kim nghạch xuất khẩu lớn được chuyển sang những nước có nền kinh tế ổn định như Trung Quốc, Việt Nam... Các tập đoàn lớn của Hoa Kỳ như JC PENNY, NIKE... đã chính thức đặt quan hệ với các doanh nghiệp Việt Nam; đồng thời các nhà daduf tư nước ngoài sẽ tập trung triển khai các dự án dệt may tại Việt Nam. Vì Việt Nam là nước được cộng đồng quốc tế đánh giá là một thị trường tiềm năng ổn định và có mức đầu tư tăng. * Mỹ bảo hộ hàng dệt là chính. do đó lợi thế thứ ba là Việt Nam xuất khẩu hàng may mặc là chủ yếu, còn hàng dệt hiện nay đang tụt hậu nên không đặt mục tiêu cai cho mặt hàng này vào thị trường Hoa Kỳ, bởi vậy không cần thiết phải áp dụng Quota. * Một lợi thế nữa là: Sự phát triển của khoa học kỹ thuật giúp cho các tổng công ty xuất khẩu Việt Nam giới thiệu và bán trực tiếp hàng may mặc cho người tiêu thụ thay vì qua các trung gian. Giá bán qua trung gian là giá đã bị ép rất nhiều, qua thương mại điện tử nếu bán trực tiếp được cho các bạn hàng lẻ thì gái có khả năng nâng lên tư 30% đến 50% thậm chí từ 80% đến 100% so với giá bán cho các nahf nhập khẩu nước ngoài. Phương án thương mại điện tử và bán trực tiếp cho những người buôn bán lẻ và những người tiêu thụ vừa tăng giá hàng vừa nhân gấp bội lần số hàng xuất khẩu và giải quyết cơ bản việc các doanh nghiệp Việt Nam xé rào nhận gia công với giá thấp. 2.2.3.2 Bên cạnh những thời cơ, nghành dệt may Việt Nam đang phải đối mặt với những thách thức lớn. Hàng dệt may là lĩnh vực các nước đang phát triển có lợi thế và tiềm năng phát triển cao bởi đặc thù của nghành này là sử dụng nhiều lao động, công nghệ tương đối dễ tiếp cận, quy mô thị trường tiêu thụ lớn... Do vậy trong định hướng phát triển kinh tế đất nước, Đảng và Nhà nước ta đã quan tâm, tạo mọi điều kiện thuận lợi để đưa dệt may trở thành một trong những ngành kinh tế mũi nhọn hướng ra thị trường khu vực và quốc tế. Tuy vậy trong xu hướng hội nhập kinh tế khu vực và thế giới, trước những khó khăn chủ quan cũng như khách quan của nền kinh tế nước nhà thì bên cạnh những cơ hội là không ít thách thức chờ đón. Thuế suất: Hoa Kỳ là thị trường tiềm năng với sức mua lớn và đa dạng về các sản phẩm dệt may. Thực tế cho thấy mặc dù sản phẩm dệt may Việt Nam đã bắt đầu tìm thấy hy vọng trên thị trường Hoa Kỳ nhưng qua những khó khăn mà ta gặp phải cho thấy nó chưa có được vị trí vững chắc trên thị trường đầy hấp dẫn này. Những yếu tố pháp lý là những rào cản lớn cho hàng dệt may Việt Nam. Sự cạnh tranh gay gắt các sản phẩm của Hoa Kỳ và các nước xuất khẩu truyền thống vào Hoa Kỳ như Bănglađat, Ấn Độ... nhất là Trung Quốc. Theo kết quả nghiên cứu của một nhóm chuyên gia, khả năng tiếp cận thị trường nước ngoài hiện nay của nghành dệt may Việt Nam bị nhiều cản trở. Số lượng hạn nghạch được hưởng chỉ bằng 5% của Trung Quốc và bằng 10%-20% của các nước ASEAN, số mặt hàng bị hạn chế nhiều. Trung Quốc giữ vị trí hàng đầu trong nghành dệt may thế giới về sản lượng sợi bông và đứng thú 2 về sợi hóa học (2,9 triệu tấn). Kể từ đầu những năm 90, Trung Quốc luôn là một trong những nước đứng đầu thế giới về xuất khẩu hàng dệt và may mặc, kim nghạch xuất khẩu chiếm tỷ trọng ngày càng cao trong tổng kim nghạch buôn bán dệt may toàn cầu. Nghành dệt may Trung Quốc là một nghành có sức cạnh tranh mạnh nhất trên thị trường thế giới vì nghành này có nhiều lợi thế rất lớn từ nguyên liệu bông, xơ hóa chất, thuốc nhuộm đến máy móc thiết bị sợi, dệt, hoàn tất đều do các nghành sản xuất trong nước cung cấp cùng với giá nhân công thấp và các chính sách hỗ trợ xuất khẩu của chính phủ Trung Quốc đã làm cho ngành này phát triển nhanh chóng. Trung Quốc lại là thành viên của WTO trước đó nên đã được hưởng quy chế tối huệ quốc của Hoa Kỳ từ nhiều năm nay đã chiếm lĩnh được thị trường quan trọng này. Mặt khác các doanh nghiệp Trung Quốc đã xây dựng được hệ thống cập nhật thông tin chính xác cũng như có khả năng thích ứng kịp thời trước những yêu cầu mới của thị trường để luôn tung ra những sản phẩm mới. Về điểm này, các doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa theo kịp. Ngoài ra theo các chuyên gia nghiên cứu cho thấy nhiều doanh nghiệp Việt Nam chỉ nghĩ tới việc thay gia nghiên cứu đổi mẫu mã sản phẩm khi chu kỳ sống của sản phẩm đó đã bước sang giai đoạn thoái trào, hàng không bán được nữa . Điều này khiến cho dù đã chấm dứt sản xuất nhưng hàng vẫn còn lưu thông rất nhiều trên thị trường. Trong khi đó các doanh nghiệp Trung Quốc luôn thay đổi mẫu tư khi sản phẩm vẫn còn đang ăn khách nên mẫu mã hàng hóa của các doanh nghiệp Trung Quốc luôn mới . Như vậy ta thấy sản phẩm dệt may của Trung Quốc có sự cạnh tranh với sản phẩm dệt may cảu nước ta gay gắt nhất, không những sự cạnh tranh đó ở những thị trường trọng điểm như Hoa Kỳ, Nhật Bản... mà còn tại trong thị trường nội địa của Việt Nam. PHẦN 3 CÁC GIẢI PHÁP NHẰM THÚC ĐẨY XUẤT KHẨU HÀNG DỆT MAY VIỆT NAM VÀO THỊ TRƯỜNG HOA KỲ Để xây dựng dình ảnh sản phẩm dệt may Việt nam có “ chất lượng – uy tín trách nhiệm xã hội” và trước tình trạng hạn ngạch bị áp đặt quá khắt khe, chúng ra cần phải đưa ra các giải pháp hữu hiệu nhằm thúc đảy xuất khẩu hàng dệt may vào thị trường Hoa Kỳ. 3.1 Giải pháp đối với doanh nghiệp. 3.1.1 Nâng cao khả năng cạnh tranh. Cạnh tranh là một trong những quy luật kinh tế cơ bảncủa kinh tế thị trường. Doanh nghiệp muốn tồn tại và phát triển phải có khả năng cạnh tranh cao. Đặc biệt đối với ngành sản xuất dệt may, do có đặc điểm là không đòi hỏi vốn lớn, lại thu hồi nhanh và sử dụng nhiều lao động, là ngành được hầu hết các nước đang phát triển tham gia, nên mức độ cạnh tranh càng cao. Nâng cao chất lượng sản phẩm và hạ giá thành: Trong điều kiện kinh tế thị trường với xu thế toàn cầu hóa đang diễn ra mạnh mẽ, đòi hỏi các doanh nghiệp phải xây dựng cơ cấu kinh doanh phù hợp để đảm bảo sản phẩm sản xuất ra có sức cạnh tranh quốc tế. Trong đó phải kể đến chất lượng và giá cả của sản phẩm. Bởi vì chất lượng và giá cả của sản phẩm là yếu tố quyết định sự tồn tại, phát triển và sức cạnh tranh của từng doanh nghiệp cũng như của nền kinh tế. Nâng cao tay nghề đội nhũ công nhân lành nghề và đào tạo đội ngũ cán bộ quản lý. Như ta đã biết lợi thế so sánh của nước ta so với nước khác là lao động rẻ nhưng không mãi mãi. D

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc61825.DOC
Tài liệu liên quan