CHƯƠNG I LÝ LUẬN CHUNG VỀ TÍN DỤNG VÀ RỦI RO TÍN DỤNG 3
I. NHỮNG VẤN ĐỀ CƠ BẢN VỀ TÍN DỤNG NGÂN HÀNG 3
1.Khái niệm tín dụng Ngân hàng và phân loại tín dụng Ngân hàng .3
1.1 Khái niệm tín dụng Ngân hàng 3
1.2Phân loại tín dụng Ngân hàng 4
2. Vai trò của tín dụng Ngân hàng 5
2.1 Vai trò của tín dụng Ngân hàng đối với nền kinh tế 6
2.2 Vai trò của nghiệp vụ tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại 8
II. RỦI RO TRONG HOẠT ĐỘNG TÍN DỤNG CỦA CÁC NGÂN HÀNG
THƯƠNG MẠI 9
1.Quan điểm chung về rủi ro tín dụng 9
2.Một số chỉ tiêu đo lường rủi ro tín dụng 11
2.1 Nợ quá hạn 11
2.2 Tổn thất tín dụng 14
2.3 Rủi ro tín dụng tiềm năng 14
3. Nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng tại các Ngân hàng thương mại
Việt Nam 15
3.1. Nhãm nguyªn nh©n kh¸ch quan 15
3.2. Nhãm nguyªn nh©n chñ quan 17
4.T¸c ®éng cña rñi ro tÝn dông 23
4.1.T¸c ®éng cña rñi ro tÝn dông ®Õn Ng©n hµng 23
4.2. T¸c ®éng cña rñi ro tÝn dông ®èi víi nÒn kinh tÕ 24
Chương II: Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tai
NHĐT & PT Cầu Giấy 25
I. Khái quát về tình hình KT-XH trên địa bàn quận
Cầu Giấy-TP Hà Nội 25
II. Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng 26
1.Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng 27
1.1Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi cho vay: 27
1.2 Tăng cường công tác thu thập thông tin: 32
1.3 Tăng cường công tác kiểm tra giám sát các khoản vay: 32
1.4 Trích lập quỹ dự phòng rủi ro tín dụng: 33
1.5 Đa dạng hoá đầu tư: 34
1.6 Có chế độ thưởng phạt hợp lý đồng thời đẩy mạnh công tác đào tạo nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ tín dụng: 35
2. Nhóm giải pháp xử lý rủi ro tín dụng 36
2.1 Đôn đốc giám sát các khoản nợ quá hạn: 37
2.2 Đối với công tác thu nợ: 38
2.3 Yêu cầu cổ phần hoá, cho thuê, bán, khoán doanh nghiệp: 38
2.4 Yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp: 39
III.Các kiến nghị:
1. Đối với Nhà nước: 40
1.1Tạo môi trường kinh tế ổn định 40
1.2 Tạo môi trường pháp lý đầy đủ hơn cho hoạt động TDNH. 41
1.3 Tạo môi trường thuận lợi cho doanh nghiệp hoạt động và vay vốn ngân hàng. 42
1.4 Thành lập cơ quan chuyên trách về xếp hạng tín nhiệm. 42
2. Đối với ngân hàng nhà nước. 43
2.1 Bảo đảm thông tin chính xác, kịp thời, đầy đủ cho các NHTM. 43
2.2 Ngân hàng Nhà nước cần tăng thêm quyền tự chủ cho các Ngân hàng thương mại , chi nhánh Ngân hàng thương mại: 45
KÕt luËn
Tµi liÖu tham kh¶o
51 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1142 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhỏnh Cầu Giấy, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho khách hàng. Nguyên nhân từ phía khách hàng được xem xét trên các mặt sau:
Khả năng của doanh nghiệp trong việc quản lý và sử dụng khoản vay còn hạn chế. Khi cho vay thì ngân hàng trông đợi khoản trả nợ sẽ được lấy từ chính kết quả hoạt động của dự án chứ không phải bằng cách phát mại tài sản thế chấp, cầm cố. Điều này lại phụ thuộc vào hiệu quả quản lý và sử dụng vốn vay của doanh nghiệp. Khi lập các phương án kinh doanh, dự án đầu tư nếu doanh nghiệp không tính hết những biến động thụ trường sẽ có thể dẫn đến thua lỗ, không trả được nợ cho ngân hàng. Mặt khác, việc sử dụng vốn vay của doanh nghiệp cũng phải đúng mục đích, phân phối có hiệu quả nếu không đồng vốn mà doanh nghiệp sử dụng sẽ không đạt hiệu quả cao, thậm chí thua lỗ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng.
Năng lực tài chính của các doanh nghiệp yếu kém. Năng lực tài chính là chỉ tiêu cơ bản thể hiện tình trạng sức khoẻ của một doanh nghiệp, từ đó mà xác định được khả năng trả nợ cho ngân hàng. Kế hoạch trả nợ của doanh nghiệp cũng sẽ bị ảnh hưởng nếu doanh nghiệp phải thanh toán những khoản chi nhất thời quá lớn như thanh toán thuế, tiền lương... hoặc cơ cấu vốn đầu tư của doanh nghiệp không hợp lý đều có thể gây nên khó khăn trong việc trả nợ ngân hàng đúng hạn dẫn đến rủi ro tín dụng.
Đạo đức, thiện chí của khách hàng: Vấn đề nổi lên ở đây là chọn lựa đối nghịch và động cơ không trong sạch của người vay. Trong những giao dịch diễn ra trên các thị trường tài chính, một bên thường không biết tất cả những gì mà họ cần phải biết về bên kia để có những quyết định đúng đắn. Sự không cân bằng về thông tin mà mỗi bên có được được gọi là thông tin không cân xứng.
Chọn lựa đối nghịch là vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra trước khi diễn ra cuộc giao dịch. Chọn lựa đối nghịch xảy ra trên các thị trường tài chính khi những người đi vay có nhiều khả năng tạo ra một kết cục không mong muốn (đối nghịch) - tức là rủi ro không trả được nợ - là những người tích cực tìm vay nhất và do vậy là có nhiều khả năng được lựa chọn nhất. Do viêc chọn lựa đối nghịch khiến dễ có thể là các món cho vay được thực hiện cho những trường hợp rủi ro không trả được nợ, những người cho vay có thể quyết định không cho vay mặc dù có những trường hợp có thể trả được nợ.
Rủi ro đạo đức là một vấn đề do thông tin không cân xứng tạo ra sau khi cuộc giao dịch diễn ra. Rủi ro đạo đức xảy ra khi người cho vay phải chịu một rủi ro là người vay có ý muốn thực hiện những hoạt động không tốt (thiếu đạo đức) xét theo quan điểm của người cho vay, bởi vì những hoạt động này ít có khả năng để món vay này hoàn trả.
Do rủi ro đạo đức giảm bớt xác suất hoàn trả được vốn nên người cho vay có thể quyết định thôi không cho vay nữa. Rủi ro đạo đức nảy sinh trong thị trường vay nợ bởi vì những người vay tiền có ý muốn thực hiện những hoạt động không mong muốn theo quan điểm của người cho vay, trong tình trạng như vậy, dễ có thể là người cho vay này sẽ vị đặt vào sự rủi ro về vỡ nợ. Khi những người vay đã có món tiền vay, vì mục đích lợi nhuận, họ dễ có thể đầu tư sai mục đích vào những dự án có mức độ rủi ro cao. Tuy nhiên, sự rủi ro này khiến cho họ khó có khả năng hoàn trả lại món tiền vay.
Trong quan hệ tín dụng, muốn có hiệu quả cao đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía người cho vay và người đi vay. Nếu như khách hàng không có thiện chí thì sẽ rất khó khăn cho ngân hàng trong việc thu hồi nợ. Sự thiếu thiện chí của khánh hàng có thể biểu hiện trực tiếp trong quan hệ tín dụng với ngân hàng như cố tình sử dụng vốn sai mục đích, tìm cách lừa đảo ngân hàng, hoặc cũng có thể là các hành vi gián tiếp ảnh hưởng tới chất lượng TDNH như kinh doanh trái pháp luật, lừa đảo chiếm dụng vốn lẫn nhau. Tất cả các hành vi đó đều có thể mang lại sự rủi ro cho ngân hàng.
3.2.2 Về phía ngân hàng:
Các nguyên nhân gây ra rủi ro tín dụng xuất phát từ phía ngân hàng thường chiếm tỷ trọng nhỏ. Các nguyên nhân này thường xảy ra trong quá trình thực hiện cho vay, thể hiện qua các mặt sau:
Trong giai đoạn xét duyệt:
Trong giai đoạn này, cán bộ tín dụng cần phải phân tích đánh giá khách hàng trước khi cho vay. Việc phân tích đánh giá được dựa trên một số chỉ tiêu như uy tín của khách hàng, năng lực quản lý kinh doanh, năng lực tài chính... Giai đoạn này có thể tiềm ẩn sự rủi ro do các nguyên nhân sau:
Thứ nhất là sự hạn chế về khả năng phân tích của cán bộ tín dụng. Nếu yếu về chuyên môn, các cán bộ Ngân hàng không thể đánh giá chính xác về khách hàng và dự án vay vốn, từ đó sẽ làm phát sinh những hợp đồng tín dụng kém an toàn. Mức độ rủi ro trong trường hợp này sẽ ngày càng tăng dần trong suốt quá trình kể từ khi xét duyệt đến khi giám sát và cuối cùng là thu nợ.
Thứ hai, gắn liền với sự hạn chế về khả năng phân tích là vấn đề phẩm chất đạo đức của cán bộ. Đánh giá rủi ro tín dụng là một công việc hết sức phức tạp. Đặc thù nghề nghiệp buộc một cán bộ tín dụng vừa phải có trình độ và phẩm chất đạo đức tốt. Trước sự cám dỗ của vật chất, nhiều cán bộ tín dụng đã sa ngã. Họ có thể hành động vô nguyên tắc, vô tổ chức, làm trái quy định, gây những tổn thất to lớn cho Ngân hàng. Do thực tế thu nhập của cán bộ tín dụng hiện nay ở các Ngân hàng thương mại Việt Nam còn thấp, càng dẫn đến tình trạng họ không thật sự gắn bó với lợi ích của Ngân hàng.
Thứ ba, vấn đề tài sản thế chấp cũng là một nguyên nhân gây rủi ro quan trọng cho các Ngân hàng thương mại ở Việt Nam. Phổ biến ở Việt Nam hiện nay, luôn có tư tưởng cho rằng cho vay có tài sản thế chấp là an toàn nhất. Bởi khi món vay không được hoàn trả, Ngân hàng chỉ việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn. Nhưng trên thực tế chính việc quá tin tưởng vào tài sản thế chấp đã gây ra những hạn chế lớn trong hoạt động cho vay của các Ngân hàng. Có thể thấy điều này qua một số nét chính như sau:
Hiện nay các tài sản thế chấp để vay vốn Ngân hàng còn thiếu các yếu tố pháp lý, gây nhiều khó khăn cho Ngân hàng. ở Việt Nam hiện nay, môi trường pháp lý về thế chấp, cầm cố tài sản chưa đầy đủ, Luật sở hữu chưa rõ ràng, chưa có cơ quan nào cấp chứng thư sở hữu tài sản và quản lý quá trình chuyển dịch sở hữu tài sản nên tất cả tài sản của doanh nghiệp Nhà nước và của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh không có chứng nhận sở hữu. Vì vậy, rất khó khăn cho Ngân hàng khi đem những tài sản thế chấp như vậy ra xử lý. Hơn nữa, cũng chính tình trạng lỏng lẻo trong công chứng hồ sơ tài sản mà đã xảy ra tình trạng lừa đảo, một tài sản được đem ra thế chấp tại nhiều Ngân hàng.
Ngay cả khi tài sản thế chấp là hợp pháp thì rủi ro tín dụng đối với những dự án được xét duyệt vẫn xảy ra khi giá trị của tài sản thế chấp được định giá quá cao hay có những biến động đột ngột về giá. Hơn nữa, một khi rủi ro xảy ra, chi phí cho việc phát mại tài sản là không nhỏ. Những tài sản thế chấp của các doanh nghiệp là máy móc, thiết bị... phần lớn đều cũ kỹ lạc hậu, đem phát mại để thu hồi vốn cũng phải mất tới hàng năm. Đối với các tài sản thế chấp là bất động sản thì lại phụ thuộc vào biến động giá của thị trường bất động sản và quy hoạch của Nhà nước. Một thực tế nữa là nhiều trường hợp tài sản thế chấp mang tính đặc thù của doanh nghiệp. Ví dụ như liên hiệp đường sắt mang toa tầu ra để thế chấp. Trường hợp như vậy nếu có phải phát mại thì Ngân hàng cũng đành bó tay.
Những hạn chế nêu trên khiến vấn đề thế chấp tài sản trở thành một nguyên nhân quan trọng dẫn đến rủi ro cho các Ngân hàng thương mại Việt Nam thời gian qua. Điều này có vẻ như một nghịch lý bởi thế chấp được áp dụng với mục tiêu hạn chế rủi ro. Tuy nhiên, thực chất luôn phải hiểu rằng thế chấp không phải là tiêu chuẩn hàng đầu để bảo đảm an toàn tín dụng.
Trong giai đoạn giám sát tiền vay:
Giám sát là một biện pháp hữu hiệu để phòng ngừa rủi ro đạo đức. Việc giám sát sẽ giúp Ngân hàng kiểm soát được hành vi của người vay vốn, đảm bảo đồng vốn được sử dụng hiệu quả, đúng mục đích. Nếu việc giám sát không được thực hiện thường xuyên và chặt chẽ, nhiều khả năng khách hàng sẽ sử dụng vốn vào những mục đích phiêu lưu làm phát sinh rủi ro tín dụng. Tuy nhiên, thực tế ở Việt Nam cho thấy, hệ thống kiểm soát của các Ngân hàng yếu kém và lỏng lẻo khiến cho nhiều khoản tín dụng được tập trung quá lớn vào một vài đối tượng vay, làm nguy cơ tổn thất tín dụng của Ngân hàng tăng cao, phụ thuộc vào hoạt động sản xuất kinh doanh của chính những khách hàng này.
Mặt khác, sự hợp tác giữa Ngân hàng thương mại và trung tâm thông tin tín dụng không đồng bộ và chưa đạt hiệu quả cao. Thậm chí, một số Ngân hàng thương mại vì sợ cạnh tranh nên đã không thông tin cho trung tâm thông tin tín dụng, và điều đó dẫn tới việc tìm hiểu khách hàng có quan hệ vay nợ tại nhiều tổ chức tín dụng rất khó khăn. Vì thế, Ngân hàng rất khó giám sát khách hàng về việc sử dụng tiền vay.
Bên cạnh đó, các Ngân hàng thương mại còn chưa có được một phương pháp giám sát khách hàng khoa học và có hiệu quả. Nỗ lực của các Ngân hàng thương mại là cần phải xây dựng một phương pháp giám sát khoa học để luôn đảm bảo được sự an toàn cho mình và cho khách hàng.
Trong giai đoạn thu nợ:
Xử lý nợ quá hạn cứng nhắc, không hiệu quả và chưa thực sự hợp tác với người vay là những nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự gia tăng của số nợ quá hạn, số nợ khó đòi trong giai đoạn này. Điều này gây ảnh hưởng đến lợi ích trước mắt và lâu dài của Ngân hàng. Việc xử lý thu nợ cứng nhắc theo hợp đồng mà không chú ý đến điều kiện của người vay có thể đẩy khách hàng đến một hoàn cảnh khó khăn hơn và hoàn toàn mất khả năng trả nợ.
Ngoài ra, việc Ngân hàng xử lý cứng nhắc theo hợp đồng, không thực sự hợp tác với khách hàng sẽ làm Ngân hàng mất đi nhiều đối tác kinh doanh lâu dài. Và vì thế, Ngân hàng sẽ dần thu hẹp thị phần của chính mình. Trong nhiều trường hợp, nếu Ngân hàng có sự hợp tác chặt chẽ cùng xử lý với các khách hàng căn cứ vào điều kiện của họ thì có thể khả năng trả nợ của khách hàng sẽ sáng sủa hơn, Ngân hàng sẽ có nhiều khả năng thu hồi được vốn.
4. Tác động của rủi ro tín dụng:
Rủi ro tín dụng của Ngân hàng thương mại xảy ra do nhiều nguyên nhân, khiến cho Ngân hàng không thể thu hồi được nợ khi đến hạn. Nhưng dù là do nguyên nhân nào thì rủi ro tín dụng cũng gây ra những tác động xấu tới bản thân Ngân hàng và đối với cả nền kinh tế. Việc ảnh hưởng nhiều hay ít còn tuỳ thuộc vào mức độ rủi ro tín dụng.
4.1 Tác động của rủi ro tín dụng đến Ngân hàng:
Trước hết, rủi ro tín dụng khi xảy ra sẽ có tác động xấu tới tình hình tài chính của Ngân hàng. Như đã biết, hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản và thường xuyên nhất của Ngân hàng thương mại, phần lớn thu nhập của Ngân hàng có được là từ hoạt động tín dụng. Vì vậy, khi xảy ra rủi ro tín dụng sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới lợi nhuận của Ngân hàng. Khi phát sinh các khoản nợ quá hạn, Ngân hàng sẽ phải có các khoản chi phí để quản lý, giám sát, thu nợ, chi phí thanh lý phát mại tài sản trong tương lai nếu không thu được nợ. Đồng thời, khoản nợ này đóng băng, không còn đem lại thu nhập cho Ngân hàng hoặc rất ít, không đáng kể, trong khi Ngân hàng vẫn phải trả lãi cho các khoản tiền huy động được, điều này làm giảm lợi nhuận của Ngân hàng. Mặt khác, khi xảy ra rủi ro tín dụng thì không chỉ làm giảm thu nhập từ hoạt động tín dụng mà còn có tác động lớn làm giảm thu nhập từ các hoạt động kinh doanh khác của Ngân hàng, bởi lẽ hoạt động tín dụng có tác động rất lớn tới các hoạt động khác của Ngân hàng. Nếu hoạt động tín dụng được mở rộng, chất lượng tín dụng được nâng cao thì sẽ thúc đẩy các hoạt động khác phát triển, ngược lại, sẽ kìm hãm các hoạt động khác làm giảm lợi nhuận, gây ảnh hưởng xấu tới tình hình tài chính của Ngân hàng.
Rủi ro tín dụng xảy ra thường tạo cho Ngân hàng những tổn thất về tài chính. Nhưng những thiệt hại về uy tín của Ngân hàng, về mất lòng tin của xã hội là những tổn thất còn lớn hơn rất nhiều lần. Một Ngân hàng nếu gặp nhiều rủi ro trong hoạt động tín dụng mà không khắc phục được sẽ gây mất lòng tin của các đối tác trong kinh doanh cũng như của những người gửi tiền tại Ngân hàng. Khi đã mất lòng tin của đối tác kinh doanh cũng như của những người gửi tiền thì tất nhiên thị phần của Ngân hàng đó sẽ bị giảm, nguồn huy động cũng giảm và do đó Ngân hàng sẽ lâm vào tình trạng khó khăn. Đặc biệt nguy hiểm hơn khi những người gửi tiền tại Ngân hàng có xu hướng rút tiền ra, nếu trong trường hợp đó Ngân hàng không có những biện pháp để xử lý tốt thì rất có thể Ngân hàng sẽ bị phá sản và sẽ gây ảnh hưởng xấu lan ra trong toàn hệ thống Ngân hàng và nền kinh tế.
4.2 Tác động của rủi ro tín dụng đối với nền kinh tế:
Tín dụng Ngân hàng có vai trò rất quan trọng trong việc điều hoà vốn trong nền kinh tế và trong sự thành công của chính sách tiền tệ quốc gia. Rủi ro tín dụng xảy ra làm Ngân hàng chậm hoặc không có khả năng thu hồi được vốn để tiếp tục cho vay, do đó rủi ro tín dụng làm giảm vòng quay sử dụng vốn của Ngân hàng, giảm khả năng cung cấp vốn cho nền kinh tế.
Mặt khác, hoạt động Ngân hàng có tính chất xã hội hoá cao, hoạt động của một Ngân hàng có ảnh hưởng đến các Ngân hàng khác. Khi một Ngân hàng đối mặt với tình trạng rủi ro tín dụng cao, sẽ ảnh hưởng đến tình hình tài chính của Ngân hàng, dẫn đến mất lòng tin của đối tác kinh doanh và của công chúng. Lúc đó rất có thể Ngân hàng sẽ mất khả năng thanh toán và điều này sẽ gây ra phản ứng lan truyền trong toàn hệ thống Ngân hàng, tác động xấu tới nền kinh tế trong nước
Chương II
MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HẠN CHẾ RỦI RO TÍN DỤNG TẠI NGÂN HÀNG ĐẦU TƯ VÀ PHÁT TRIỂN CẦU GIẤY.
I.Khái quát về tình hình kinh tế xã hội trên địa bàn Quận Cầu Giấy- TP Hà Nội .
Là một quận mới thành lập nằm ở phía tây của TP Hà Nội với đặc thù kinh tế chưa phát triển chủ yếu là các trường ĐH, khối hành chính, nông nghiệp,nhưng đặc biệt trên địa bàn lại có rất nhiều công ty xây dựng mà NHĐT&PT lại rất phù hợp cho việc phục vụ loại hình khách hàng này.
1 .Khái quát về hoạt động kinh doanh tại NHĐT&PTCầu Giấy.
1.1. Cơ cấu tổ chức bộ máy của NHĐT&PT Cầu Giấy.
Bộ máy tổ chức: kể từ tháng 10/2003 NHĐT&PT Cầu Giấy đã tiến hành thực hiên dự án hiện đại hoá và mô hình bộ máy tổ chức cũng theo mô hình của hiện đại hoá bao gồm: Ban lãnh đạo (Gerneral), Phòng Kế toán Tổng hợp(G/L) – Ngân quỹ ( Vol ) , Phòng Tín dụng ( Ln ) , Phòng dịch vụ khách hàng (DD&FD ) , Phòng điện toán ( IT ) , các phòng giao dịch và cuối cùng phòng hậu cần.
Lãnh đạo của NHĐT&PT Cầu Giấy gồm : 1 Giám đốc , 3 phó giám đốc lãnh đạo theo từng khối nghiệp vụ. Có 6 phòng ban nghiệp vụ và 2 phòng giao dịch . Mỗi phòng đều có trưởng phòng ,phó phòng , kiểm soát viên , và các thanh toán viên được bố chí theo từng nghiệp vụ . Sơ đồ mô hình tổ chức của NHĐT&PT Cầu Giấy thể hiện như sau :
SƠ ĐỒ TỔ CHỨC BỘ MÁY :
Phòng giao dịch số 9 và15
Phòng Kế toán tổng hợp
(G/L )
NHĐT&PT VIỆT NAM
NHĐT&PT Cầu Giấy
Ban giám đốc
Phòng DV khách hàng
Phòng hậu cần
Phòng Điện toán
( IT )
Phòng tổ chức cán bộ
Phòng tiền tệ ngân quỹ
Phòng tín dụng
( Ln )
Ghi chú :
Chỉ mối quan hệ chỉ đạo
Chỉ mối quan hệ tác nghiệp
II.Giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng không chỉ là vấn đề nan giải ở các ngân hàng Việt Nam mà còn đối với tất cả các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. Đối với Việt Nam, các Ngân hàng thương mại Việt Nam đang ở trong tình trạng nợ quá hạn nặng nề và có xu hướng gia tăng trong những năm tới. Mặc dù các Ngân hàng thương mại đã áp dụng những biện pháp phòng tránh nợ quá hạn mới phát sinh và các biện pháp thu hồi nợ quá hạn cũ, tuy nhiên, kết quả đạt được là rất khiêm tốn. Mặt khác, trước thực trạng rủi ro tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, với các mục tiêu tăng trưởng và nâng cao chất lượng tín dụng, lành mạnh hoá năng lực tài chính mà Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nôi chi nhánh Cầu Giấy đã đặt ra thì công tác phòng ngừa và hạn chế rủi ro là thực sự cần thiết và luôn được lãnh đạo Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy quan tâm. Để có thể hạn chế tối đa những rủi ro có thể xảy ra trong hoạt động tín dụng tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy thì các giải pháp phải được tiến hành trên cả hai mặt đó là phòng ngừa và xử lý rủi ro.
Sau một thời gian nghiên cứu vấn đề này tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, em xin đề xuất một số giải pháp nhằm hạn chế rủi ro tín dụng. Các giải pháp chia làm hai nhóm: nhóm giải pháp có tính chất phòng ngừa rủi ro và nhóm giải pháp xử lý những rủi ro đã xảy ra.
1. Nhóm giải pháp phòng ngừa rủi ro tín dụng
Rủi ro tín dụng dù xuất phát từ nguyên nhân khách quan hay chủ quan cũng được thể hiện trên hai mặt đó là những rủi ro có thể xảy ra và những rủi ro đã xảy ra. Những rủi ro có thể xảy ra tuy là những rủi ro tiềm ẩn nhưng trong nhiều trường hợp do có tính lặp lại nên người ta có thể tìm ra được quy luật của nó và từ đó đưa ra những biện pháp phòng ngừa hợp lý. Tại Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Nội chi nhánh Cầu Giấy, để phòng ngừa rủi ro cần thực hiện một số giải pháp như sau:
1.1Thực hiện tốt công tác sàng lọc khách hàng trước khi cho vay:
Sàng lọc khách hàng là việc ngân hàng tìm hiểu và đánh giá khách hàng để lựa chọn ra những khách hàng có đủ điều kiện cho vay. Sàng lọc khách hàng là công việc quan trọng không thể thiếu để ngăn ngừa những rủi ro trong hoạt động tín dụng. Trong điều kiện môi trường kinh doanh ngân hàng đầy rủi ro như hiện nay thì sàng lọc khách hàng càng phải được chú trọng. Sàng lọc khách hàng được thực hiện qua hai hoạt động: Phân tích đánh giá khách hàng và Thẩm định tính khả thi của dự án.
Phân tích đánh giá khách hàng:
Khách hàng là người sử dụng và quyết định hiệu quả của việc sử dụng khoản tiền vay, cũng là người chịu trách nhiệm hoàn trả vốn vay. Vì vậy, việc phân tích đánh giá khách hàng là một biện pháp hết sức quan trọng và cần thiết để ngăn ngừa những nguyên nhân dẫn đến rủi ro tín dụng từ phía khách hàng trong quá trình xét duyệt. Khi đánh giá khách hàng là các tổ chức, đơn vị kinh doanh, cán bộ tín dụng phải chú ý một số nội dung chủ yếu như sau:
a)Tư cách pháp nhân của khách hàng:
Đây là một yếu tố quan trọng quyết định khách hàng có được ký kết hợp đồng vay vốn hay không. Theo luật pháp quy định, một đơn vị có đủ tư cách pháp nhân thì phải có đủ các giấy tờ sau:
Quyết định thành lập doanh nghiệp.
Giấy phép kinh doanh.
Quyết định tổ chức.
Từ các giấy tờ trên, cán bộ tín dụng sẽ có những đánh giá bước đầu về khách hàng như thành lập được bao lâu, hoạt động trong lĩnh vực, ngành nghề nào… để có đối chiếu với những phạm vi ngành nghề mà ngân hàng không được phép cho vay.
b)Tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng:
Khi đánh giá tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng thì cán bộ tín dụng cần phân tích doanh thu và kết quả sản xuất kinh doanh, đây là hai chỉ tiêu quan trọng nói lên tình hình sản xuất kinh doanh của khách hàng. Doanh thu là chỉ tiêu cơ bản phản ánh chất lượng của quá trình tiêu thụ sản phẩm hàng hoá. Doanh thu càng lớn, đơn vị đó càng có điều kiện tăng thu nhập và mở rộng sản xuất kinh doanh, khả năng trả nợ ngân hàng càng cao.
Kết quả kinh doanh là một chỉ tiêu đánh giá tổng hợp chất lượng hoạt động sản xuất kinh doanh của đơn vị. Kết quả sản xuất kinh doanh càng cao thể hiện doanh nghiệp hoạt động càng có hiệu quả, sử dụng vốn vay đạt được mục tiêu đặt ra. Với những đơn vị này thì khoản vốn ngân hàng cho vay có đủ điều kiện thu hồi đúng hạn cao.
Tuy nhiên, khi phân tích doanh thu của đơn vị thì cán bộ tín dụng cần xem xét rõ nguyên nhân doanh thu tăng lên là do đâu và phải có sự đối chiếu doanh thu qua một số thời kỳ. Vì trong một số trường hợp, doanh thu tăng lên chưa chắc do tình hình sản xuất kinh doanh của đơn vị tốt.
c)Tình hình tài chính của khách hàng
Cán bộ tín dụng phải yêu cầu khách hàng cung cấp các báo cáo tài chính đã được kiểm toán trong những thời điểm gần nhất để tiến hành phân tích, đánh giá. Khi phân tích báo cáo tài chính của đơn vị khách hàng, cán bộ tín dụng cần chú ý các chỉ tiêu sau:
Tài sản cố định và đầu tư dài hạn so với nguồn hình thành có tỷ lệ 1 là cân đối. Nếu các tỷ lệ này lớn hơn 1 thì có khả năng khách hàng sử dụng vốn chưa phù hợp.
Tài sản ngắn hạn so với nguồn vốn ngắn hạn nếu thấp hơn 1 thì khả năng thanh toán của khách hàng có vấn đề.
Khoản vay ngắn hạn ngân hàng so với vốn chủ sở hữu thường không được lớn hơn 5
Các khoản phải trả so với doanh thu và so với tổng tài sản có tỷ lệ là 1 và 1/3 là lớn nhất. Nếu tỷ lệ này cao hơn, thể hiện khách hàng đang chiếm dụng vốn trong quan hệ thương mại, nhưng cũng có thể là do tình hình tài chính không lành mạnh.
Các khoản phải thu so với doanh thu và so với tổng tài sản có tỷ lệ 1 đến 1/3 là lớn nhất. Nếu lớn hơn tỷ lệ trên thì có thể là khách hàng đang bị chiếm dụng vốn.
Doanh thu so với hàng tồn kho: hàng hoá trong kho phải có vòng quay ít nhất là 2 vòng một năm. Nếu ít hơn mức đó thì có nghĩa là việc tiêu thụ hàng hóa có vấn đề.
Hiện nay, các báo cáo tài chính mà khách hàng nộp cho ngân hàng thường không phản ánh đúng tình trạng thực tế, vì vậy, khi đánh giá cán bộ tín dụng cần chú ý một số điểm như sau:
Tính khấu hao tài sản cố định thấp hơn mức thực tế để nâng giá trị còn lại của tài sản cố định lên.
Tăng giá hàng hoá dự trữ tồn kho.
Khách hàng thường bù trừ giữa số tiền phải thu và số tiền ứng trước của người mua để dấu bớt nợ nần, hỗ trợ nhau vay vốn ngân hàng bằng cách ghi khống vào doanh thu các khoản mà người mua chưa chấp nhận hoặc người mua đã trả tiền nhưng đơn vị chưa giao hàng.
Nhiều khách hàng yếu kém về mặt tài chính thường phản ánh sai lệch các báo cáo tài chính bằng cách giấu bớt doanh thu và thu nhập của niên độ kế toán trước sang niên độ kế toán sau. Làm như vậy, khách hàng có thể tăng doanh thu và thu nhập trong niên độ kế toán sau, đảm bảo có lợi nhuận để vay vốn ngân hàng.
Ngoài ra, cán bộ tín dụng cũng cần phải chú ý đến năng lực, trình độ quản lý, trình độ chuyên môn, kinh nghiệm của khách hàng. Những yếu tố này phần nào thể hiện hiệu quả của việc sử dụng tiền vay sau này. Thông thường, những yếu tố này trong hồ sơ xin vay ít đề cập đến. Vì vậy, trong hồ sơ xin vay ngân hàng cần phải yêu cầu khách hàng cung cấp thêm những thông tin này. Bên cạnh đó, cán bộ tín dụng cần phải tìm hiểu thêm các thông tin về các mối quan hệ giữa khách hàng với các bạn hàng, giữa khách hàng và các ngân hàng để đánh giá lịch sử quan hệ làm ăn, vay trả của khách hàng nhằm tránh những khách hàng có quan hệ làm ăn vay trả không sòng phẳng hay chây ỳ. Thông qua việc phân tích đánh giá về khách hàng như trên, ngân hàng sẽ phân loại khách hàng và có chính sách cho vay phù hợp.
1.1.2 Thẩm định tính khả thi của dự án:
Khách hàng được đánh giá tốt là một điều kiện cần tuy nhiên chưa phải là điều kiện đủ để có thể được ngân hàng cho vay vốn. Một vấn đề có ý nghĩa quan trọng quyết định khách hàng có được cho vay vốn hay không đó là khả năng trả nợ của khách hàng. Khả năng trả nợ của khách hàng phụ thuộc lớn vào những nguồn thu trong tương lai trong đó nguồn thu từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng là nguồn trả nợ chính. Vì vậy, khả năng sinh lợi từ dự án thực hiện bằng vốn vay ngân hàng quyết định lớn đến khả năng trả nợ đủ và đúng theo thời hạn trong hợp đồng. Khi thẩm định tính khả thi của dự án, cán bộ tín dụng cần chú ý một số điểm như sau:
Về phương pháp thẩm định:
Khi thẩm định dự án cần phải chú trọng hơn nữa tới giá trị thời gian của tiền, áp dụng các chỉ tiêu hiện đại như NPV, IRR, phân tích độ nhạy... coi là những chỉ tiêu bắt buộc khi phân tích dự án.
Để có tính toán đúng khi xác định dòng tiền để tính những chỉ tiêu trên cần phải xác định đủ và đúng các giá trị như: giá trị thanh lý tài sản cố định, thu hồi vốn lưu động ròng...
Xác định tỷ lệ lãi suất chiết khấu hợp lý dựa trên tính toán về chi phí vốn bình quân.
Xây dựng các bảng dự trù tài chính của dự án để thực hiện phân tích tài chính dự án hàng năm, việc xác định doanh thu và chi phí của dự án hàng năm phải kết hợp tính toán cả công suất dự kiến và khả năng tiêu thụ sản phẩm hàng năm.
Về tổ chức điều hành thẩm định dự án:
Thực hiện tốt hơn công tác tổ chức điều hành, xây dựng và chuẩn hoá quy trình hoạt động thẩm định, áp dụng chặt chẽ cho toàn hệ thống. Bên cạnh đó xây dựng hệ thống thông tin nội bộ toàn hệ thống để thu thập phân tích và lưu trữ thông tin về các khách hàng, thông tin về tình hình kinh tế...
1.2 Tăng cường công tác thu thập thông tin:
Thông tin là yếu tố không thể thiếu được cho việc thẩm định dự án, thẩm định khách hàng. Thông tin thu thập càng nhanh, đầy đủ, chính xác thì càng giúp cho việc thẩm định được thuận lợi hơn. Để đảm bảo tính chính xác, thiết thực của thông tin thì cần phải tiến hành thu thập từ nhiều nguồn, đồng thời phải tổ chức tốt việc xử lý thông tin nhằm chọn lọc những thông tin chính xác, thiết thực nhất. Công việc thu thạp và xử lý thông tin phải được tiến hành một cách chủ động và liên tục chứ không phải đợi khách hàng đến xin vay rồi mới tiến hành.
Đối với Ngân hàng đầu tư và phát triển Hà Tây công tác thu thập và xử lý thông tin nên dành cho phòng Thông tin - Điện toán. Khi có khách hàng đến vay vốn cán bộ tín dụng sẽ yêu cầu phòng cung cấp cho mình những thông tin cần thiết. Trên cơ sở so sánh, đối
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0365.doc