Mục lục
Trang
Lời nói đầu . 1
I. Khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á . 2
1. Lý luận chung về khủng hoảng . 2
1.1 Thế nào là một cuộc khủng hoảng. . 2
1.2.Các biểu hiện của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ. 2
1.3 Tại sao khủng hoảng tài chính- tiền tệ thường lây lan từ nước
này sang nước khác. 2
1.4 Đặc điểm chung của các cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ . 2
2. Một số cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã xảy ra trên thế giới . 4
2.1 Các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã xảy ra . 4
2.2 Những bài học rút ra từ các cuộc khủng hoảng . 4
3. Diễn biến của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á . 4
II. Nguyên nhân và tác động của cuộc khủng hoảng . 7
1. Nguyên nhân của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á . . 7
1.1 Nguyên nhân chủ quan . 7
1.2 Nguyên nhân khách quan . 10
2. Tác động của cuộc khủng hoảng đối với khu vực và thế giới . 11
2.1 Tác động tiêu cực . 11
2.2 Tác động tích cực . 12
3. Những biện pháp hạn chế và khắc phục khủng hoảng . 13
3.1 Những biện pháp can thiệp của chính phủ . 13
3.2 Những biện pháp từ các tổ chức quốc tế . 15
III. Một số giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục ảnh hưởng
tiêu cực của cuộc khủng hoảng tới Việt nam . 17
1. Bối cảnh quốc tế và trong nước . 17
1.1 Bối cảnh chung. 17
1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt nam trong bối cảnh khủng hoảng tài
chính - tiền tệ châu á . 18
2.Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ châu á tới Việt nam 21
2.1 Tác động đến đồng nội tệ. 21
2.2 Tác động đến xuất - nhập khẩu . 21
2.3 Tác động đến đầu tư nước ngoài . 22
2.4 Tác động đến đầu tư trong nước . 23
3. Những đối sách cần thiết cho Việt nam . 23
3.1 Giải pháp trước mắt . 24
3.2 Giải pháp dài hạn . 25
Kết luận . 29
42 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2099 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tới Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ố 2300 quĩ tín dụng ở Mỹ với số tài sản khổng lồ khoảng 100 tỷ USD như Tiger, Orbics, Pumar... họ đã mua đồng Baht, Pêsô, Ringgit, Rupi, các quĩ nói trên đã bán ra khối lượng đồng Baht trị giá 15 tỷ USD. Với khả năng về tài chính như vậy, các quĩ tín dụng này hoàn toàn có khả năng tiến hành các hoạt động nhằm cải thiện tình hình hoặc làm trầm trọng thêm cuộc khủng hoảng này.
Tình hình chính trị và môi trường quốc tế.
Có thể nói đây không phải là nguyên nhân chủ yếu của cuộc khủng hoảng, tuy nhiên nó cũng là nhân tố góp phần không nhỏ gây ra cuộc khủng hoảng này.
Với nhiều phe phái chính trị tranh giành quyền lực ở Thái lan đã làm ảnh hưởng tiêu cực đến quản lý và điều hành nền kinh tế vốn đã chứa đựng những mất cân đối. Mặt khác với nhiều mối quan hệ mờ ám giữa các chính trị gia và các tập đoàn lớn đã gây nên một sự cạnh tranh không lành mạnh trong nền kinh tế. Còn ở Inđônêsia, gia đình Tổng thống Shuhactô đã thao túng nhiều ngành kinh tế then chốt - đây là lối quản lý theo kiểu " gia đình trị" - đã làm suy yếu dần sức cạnh tranh của nền kinh tế. Còn ở Philippin thì tình trạng tham nhũng của các quan chức chính phủ cũng trở nên nghiêm trọng không kém. Chính những yếu tố bất ổn của môi trương pháp lý và chính trị nói trên đã làm giảm sút sức hấp dẫn của đầu tư nước ngoài vào khu vực này.
Ngoài ra sự nỗi lên của các nền kinh tế như Trung quốc, ấn độ, Nam Mỹ... đã làm giảm khả năng cạnh tranh của các nước Đông Nam á. Cùng với đó là sự sáp nhập của nhiều tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới đã bóp chết nhiều công ty nhỏ và non yếu của các nước đang phát triển.
2.Tác động của cuộc khủng hoảng đối với nền kinh tế khu vực và thế giới
2.1 Tác động tiêu cực
Hậu quả tiêu cực mà cuộc khủng hoảng gây ra là quá rõ ràng, toàn diện và hết sức nặng nề đối với nhiều quốc gia trong khu vực cũng như trên thế giới.
Trước hết, hậu quả dễ nhận thấy nhất và phổ biến nhất trong toàn khu vực lá sự mất ổn định của các thị trường tiền tệ mỗi nước và khu vực, lá sự sút giảm ngay cả đầu tư trong nước do lãi suất cao và yếu tố lòng tin. Tất cả các vấn đề đó đã làm giảm sút tốc độ tăng trưởng kinh tế các nước này và toàn khu vực toàn thế giới nói chung đi đôi với sự gia tăng tình trạng thất nghiệp và lạm phát cao; cũng như làm tăng nợ nước ngoài bằng ngoại tệ do sự mất giá của đồng bản tệ và do phải thu hút thêm các khoản tín dụng quốc tế mới để vượt qua khủng hoảng.
Lịch sử khu vực trong vòng nửa thế kỷ nay chưa bao giờ lại có đợt đại hạ giá đồng loạt của các đồng tiền trong khu vực với số lượng lớn như thế, ít nhất cũng có hai mươi đồng tiền khác nhau bị giảm giá mạnh ( từ 30-70%, thậm chí có lúc đồng Rupi Inđônêsia mất giá tới 400% so với USD).
Cuộc khủng hoảng cũng đánh dấu sự kết thúc một giai đoạn tăng trưởng nhanh, kéo dài hàng thập kỷ dựa chủ yếu vào các nguồn vốn nước ngoài của các nước trong khu vực, để chuyển sang một giai đoạn mới đặc trưng bởi nhịp độ tăng trưỡng ôn hoà hơn, thận trọng hơn và dựa vào sực mình nhiều hơn.Nhịp độ tăng trưỡng trung bình của khu vực đã giảm đi 2.5% năm 1998 so với năm 1997. Do khủng hoảng ở châu á làm cho tăng trưởng của Mỹ giảm đi 0.7% trong năm 1998, EU giảm 0.3%, Mỹ la tinh giảm 1.5%, còn tốc độ thương mại toàn cầu giảm đi 2.5% so với năm 1997. Theo OECD, cuộc khủng hoảng châu á đã làm cho tăng trưởng của các nước công nghiệp phát triển giảm 0.9%. Thậm chí nếu như Trung quốc, Nhật bản, Brazin phá giá đồng tiền của họ thì rất có thể xảy ra một cuộc khủng hoảng tài chính trên phạm vi toàn cầu.
Cuộc khủng hoảng đã gây thiệt hại cho châu á ít nhất là 300 tỷ USD, bằng khoảng 20% GDP của các nước bị khủng hoảng và làm thiệt hại chung cho toàn thế giới khoảng 500 tỷ USD. Có tới 150 tỷ USD đầu tư tài chính đã rút ra khỏi Đông Nam á, các nhà đầu tư nước ngoài giảm sút niềm tin, FDI đổ vào châu á bị sụt giảm mạnh và tiếp tục ở mức thấp trong một số năm tới.
Sự phá giá đồng bản tệ đã làm tăng các chi phí dịch vụ nợ và chất thêm gánh nặng nợ nần lên vai các công ty làm tăng tình trạng mất khả năng thanh toán, phá giá nhất là các công ty phục vụ thị trường trong nước mà nhu cầu đang giảm sút nhanh chóng. Sự phá giá bản tệ ở những nước có hàng hoá xuất nhập khẩu mà nguyên liệu nhập khẩu chiếm tỷ lệ cao sẽ làm tăng chi phí xuất khẩu, đẩy giá thành lên cao, giảm sức cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường quốc tế.
Lạm phát gia tăng sẽ làm giảm mức sống thực tế của người làm công ăn lương, những căng thẳng và bất ổn về xã hội cũng vì thế mà tăng lên.
2.2 Tác động tích cực
Cuộc khủng hoảng hiện nay không chỉ hoàn toàn gây tác hại cho các nước trong khu vực mà ở một chừng mực nào đó, nó là điểm dừng để mở đầu cho một giai đoạn phát triển mới đầy triển vọng, là cơ hội để các nền kinh tế ASEAN thực hành sự cải cách triệt để các điều kiện kinh tế vĩ mô kể cả sự cần thiết phải xác định lại mô hình chiến lược phát triển. Như Tổng thống Hàn quốc cũng từng khẳng định : " Tôi muốn biến cuộc khủng hoảng này thành một cơ hội để cải biến nền kinh tế nước tôi, đưa nó lên trình độ của thế giới". Những tác động tích cực của cuộc khủng hoảng hiện nay có thể quy tụ ở những khía cạnh sau :
Thứ nhất, việc chuyển sang chính sách tỷ giá linh hoạt sẽ giúp các chính phủ giảm tối thiểu lượng ngoại tệ can thiệp để giữ giá bản tệ như thời gian trước đó, giúp tăng dự trữ quốc gia về lâu dài, với đồng bản tệ rẻ sẽ kính thích khả năng cạnh tranh xuất khẩu, từ đó cải thiện những cán cân tài chính của đất nước.
Thứ hai, nhiều nước như Thái lan, Inđônêsia, Hàn quốc, Philippin sẽ nhận được lượng tín dụng quốc tế chính thức với khối lượng lớn để phục vụ mục tiêu khắc phục khủng hoảng cải cách và phát triển kinh tế ( mặc dù với lãi suất khá cao và các điều kiện ngặt nghèo kèm theo). Cuộc khủng hoảng cũng giúp định hướng lại và cải thiện cơ cấu đầu tư, lành mạnh hoá nền tài chính quốc gia. Các khoản chi kém hiệu quả sẽ bị điều chỉnh, cắt giảm; các dự án tư nhân sẽ được khuyến khích, thúc đẩy quá trình tư nhân hoá, giảm bớt sự độc quyền của khu vực nhà nước, sự can thiệp và bao cấp của Chính phủ trong khu vực kinh doanh sẽ được xúc tiến tích cực hơn, kiên quyết và rộng rãi hơn.
Có thể nói cuộc khủng hoảng là một cú hích mạnh, để xốc lại cơ cấu kinh tế cho cân bằng, hợp lý và hiệu quả hơn. Sau khi vượt qua giai đoạn khó khăn nhất của khủng hoảng, các doanh nghiệp đã có định hướng thị trường nhiều hơn, đầy đủ, sâu sắc và hoàn thiện hơn, do đó có hiệu quả và sức cạnh tranh cao hơn.
Thứ ba, cuộc khủng hoảng ít nhiều góp phần để Chính phủ và nhân dân mỗi nước trong khu vực cũnh như các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế xem lại mình, bổ khuyết những chính sách cả về chính sách, thể chế lẫn những yếu tố thuộc con người, từ đó tạo ra những xung lực tích cực cho sự phát triển kinh tế - xã hội bền vững ở cấp đọ quốc gia, khu vực và quốc tế với tư cách là một chỉnh thể hữu cơ. Quá trình tự do hoá và toàn cầu hoá sẽ được đẩy lên một bước mới, một phần nhờ những chương trình điều chỉnh kinh tế rộng rãi, một phần nhờ sự chuẩn bị chu đáo hơn, thận trọng hơn và thích hợp hơn của mỗi nước, phần nữa nhờ sự xuất hiện của những cơ chế thúc đẩy và giám sát mới mang tính khu vực, nhờ sự bổ sung chức năng của IMF và các tổ chức tài chính - tiền tệ quốc tế và khu vực, đồng thời đó cũng là kết quả của sự hợp tác giữa các nước khu vực trong nỗ lực vượt qua khủng hoảng.
3. một số biện pháp hạn chế và khắc phục khủng hoảng
3.1 Những biện pháp can thiệp của Chính phủ
a) Can thiệp thị trường
Để duy trì tỷ giá, các nước này ở những mức độ khác nhau đã sử dụng biện pháp truyền thống là tung dự trữ ngoại tệ ra bán và thắt chặt tiền tệ. Các nước này đã dùng hàng chục tỷ USD dự trữ ngoại tệ để can thiệp thị trường hỗ trợ đồng nội tệ, tạm đình chỉ việc mua bán ngoại tệ không vì mục đích thương mại nhằm ngăn chận việc bán tháo đồng nội tệ để mua ngoại tệ mạnh. Một số nước chủ trương tạm đình chỉ thị trường chứng khoán khi giá cổ phiếu tụt quá thấp, yêu cầu các nhà kinh doanh ngoại hối phải đăng ký, Nhà nước ban hành quy chế quản lý chặt, cấm các công ty và ngân hàng trong nước đầu cơ, hợp tác với các cơ quan tiền tệ trong khu vực để kiểm soát các luồng di chuyển ngoại tệ.
b) Cải cách hệ thống tài chính - ngân hàng
Thái lan, Inđônêsia, Philippin đã lần lượt cải tổ mạnh mẽ hệ thống ngân hàng - tài chính theo các hướng :
* Tiếp tục mở cữa và tự do hoá thị trường tài chính để thu hút nguồn vốn trong nước và nước ngoài, tăng cường sự tham gia của khu vực tư nhân.
* Chấn chỉnh lại hệ thống ngân hàng - tài chính bằng cách đóng cửa các ngân hàng, công ty tài chính làm ăn thua lỗ. Thái lan đóng cửa 58 công ty tài chính kinh doanh thua lỗ, tham nhũng và không đòi được nợ (trên tổng số 91 công ty). Trong số đó, 18 công ty đã trình Uỷ ban kiểm tra các kế hoạch phối hợp nhằm phục hồi hoạt động và 10 trong tổng số này đã có kế hoach hợp nhất. Inđônêsia cũng đã đóng cửa 16 công ty tài chính, quy định các công ty tài chính phải trả nợ ngân hàng, sáp nhập với nhau và đáp ứng mức dự trữ bắt buộc mới với 50% nguồn vốn tối thiểu là tiền mặt. Hàn quốc cũng đang cơ cấu lại các ngân hàng thương mại quốc doanh.
* Tăng cường hệ thống thông tin, chế độ kiểm tra, kiểm toán, giám sát chặt chẽ đối với hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính. Đẩy mạnh quá trình công khai thông tin thành các quy định báo cáo cụ thể cho các ngân hàng thương mại và công ty tài chính, pháp chế hoá việc công khai thông tin trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
c) Cải cách chính sách ngoại hối
Hầu hết các nước bị khủng hoảng đều tiến hành cải cách chính sách ngoại hối, đặc biệt là chính sách tỷ giá.
Nhận thấy những hạn chế do duy trì quá lâu tỷ giá cố đinh một cách cứng nhắc với đồng USD trong khi đồng tiền này lên giá, các nước đã tiến hành thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt dựa trên các tín hiệu của thị trường tiền tệ và thúc đẩy xuất khẩu. Tuy nhiên, trong trường hợp Inđônêsia, do đồng Rupiah bị sụt giá mạnh ( lúc thấp nhất xuống đến 19.000 RP/USD) Chính phủ đã áp dụng một chế độ tiền tệ gọi là hệ thống định vị tiền tệ CBS ( currency board system ). Mục tiêu của biện pháp này là khôi phục lòng tin của đồng Rupiah và hệ thống ngân hàng. CBS là chế độ tiền tệ dựa trên sự cam kết pháp lý rõ ràng, chốt đồng tiền trong nước với đồng USD ở một tỷ giá cố định theo đó lượng nội tệ trong lưu thông phải hoàn toàn tương xứng với dự trữ ngoại tệ.
d) Điều chỉnh cơ cấu và chính sách kinh tế
Các nước này đều phải giảm bớt tốc độ tăng trưỡng để nền kinh tế bớt nóng, để vay được một khoản tiền lớn, Thái lan và Inđônêsia phải thực hiện cải cách cơ cấu theo các điều kiện khắt khe của IMF, điều chỉnh một loạt các chỉ tiêu phát triển kinh tế vĩ mô, cắt giảm chi tiêu, sửa đổi chính sách đầu tư cũng như chính sách tài chính tiền tệ, đẩy mạnh xuất khẩu,hạn chế nhập khẩu, xoá bỏ độc quyền của nhà nước trong một số lĩnh vực kinh doanh, thúc đẩy tư hữu hoá xí nghiệp công, giải thể và sáp nhập công ty, tự do hoá thương mại...
3.2 Những biện pháp từ các tổ chức quốc tế
Là những người ý thức rất rõ được mối liên kết chặt chẽ giữa thị trường tài chính các nước trong khu vực trong tiến trình toàn cầu hoá, tính phụ thuộc lẫn nhau rất lớn giữa các nền kinh tế, theo đó một sự đỗ vỡ ở bất kỳ nước nào cũng đều mang tính chất lan truyền, các tổ chức tài chính- tiền tệ quốc tế như IMF, WB, ADB đã rất tích cực trợ giúp cho những mắt xích yếu nhất trong hệ thống.
a) Phản ứng của quỹ tiền tệ quốc tế (IMF).
Sự sụp đổ của các hệ thống tài chính châu á là mắt xích cuối cùng trong loạt đỗ vỡ tài chính nghiêm trọng. Mỗi nước Thái lan, Inđônêsia, Malaysia, Philippin, Hàn quốc đều có những vấn đề riêng, chúng không hề giống nhau nhưng đều có điểm cốt lõi chung : các chính sách công cộng sai lầm đã khuyến khích những khoản vay nợ khổng lồ cả ở trong và ngoài nước, những bảo đảm công khai hay ngầm định đã làm cho các nước này ngộ nhận về mức độ rũi ro thấp và đã xảy ra đổ vỡ tài chính. Quỹ tiền tệ quốc tế đã can thiệp vào các khu vực có vấn đề của châu á bằng cách cung cấp các khoản tín dụng khoảng 17 tỷ USD, trong đó có 4 tỷ USD của Nhật bản giúp cho các nhà vay nợ của Thái lan, cho Hàn quốc khoảng 57 tỷ USD và một số nước khác. Các khoản viện trợ cả gói có sự đóng góp của WB, ADB các nước Australia, Trung quốc, Hồng kông, Nhật bản, Singapore... là nhằm hỗ trợ cho các chương trình được hoạch định tận gốc, nhằm khắc phục những nguồn gốc cũng như hậu quả của mất cân đối cơ cấu và triệt tiêu những mối đe dọa tiềm tàng mà chúng gây ra cho hệ thống tiền tệ quốc tế.
b) Giải pháp của IMF
IMF đã cam kết viện trợ cả gói cho các nước Hàn quốc 57 tỷ USD. Thái lan 17.3 tỷ USD và Inđônêsia 43 tỷ USD, đổi lại các nước này phải chấp nhận một số điều khoản tương đối chặt chẻ của IMF :
- Cải cách chính sách tài chính - tiền tệ và ngoại hối như chính sách tỷ giá tăng cường quản lý nợ, đặc biệt là nợ nước ngoài, cải cách chính sách thuế và ngân sách, cắt giảm chi tiêu của chính phủ, tăng thuế để hạn chế tiêu dùng và cân bằng ngân sách. Đồng thời ngân hàng Trung ương của các nước này sẽ phải thắt chặt nguồn cung cấp tiền tệ và cho phép tỷ giá tại thị trường tăng tạm thời để giảm thiểu tác động của lạm phát.
- Mở cửa thị trường tài chính rộng hơn và tự do hoá thị trường tài chính để thu hút nguồn vốn trong và ngoài nước, sở hữu tối đa chứng khoán của người nước ngoài có thể lên tới 50% và sau đó tăng thêm 5% vào năm sau (Hàn quốc) thị trường trái phiếu ngắn hạn sẽ mở cữa cho đầu tư nước ngoài.
- Cải tổ hệ thống tài chính - ngân hàng. Các cơ sở tài chính nước ngoài sẽ được phép thành lập liên doanh hay các công ty con ( riêng Hàn quốc sẽ bắt đầu thực hiện vào giữa năm 1998). Cải tổ được các cơ sở tài chính không trả được nợ và thành lập cơ chế chuyên đóng cửa hoặc sáp nhập các cơ sở này với nhau. Chính phủ sẽ thúc đẩy việc chấm dứt các khoản cho vay không hiệu quả. Tất cả các ngân hàng phải đề ra kế hoạch tự khôi phục để đáp ứng tiêu chuẩn đủ vốn do các ngân hàng thanh toán quốc tế đặt ra.
- Các công ty kiểm toán được quốc tế công nhận sẽ kiểm toán những cơ sỡ tài chính lớn của các quốc gia này.
- Tăng cường hệ thống thống tin, chế độ kiểm tra kiểm toán, giám sát đối với các hoạt động của các ngân hàng và công ty tài chính, pháp chế hoá của việc công khai thông tin trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng.
- Điều chỉnh tốc độ tăng trưởng : IMF đưa ra các điều kiện để làm giảm mức độ "nóng" của nền kinh tế của các nước này như giảm tốc độ tăng trưởng kinh tế trong các năm trước mắt, điều chỉnh chính sách đầu tư theo hướng tiết kiệm vốn, ngoại tệ, hoãn các công trình cần vốn lớn.
- Cải cách chính sách công ty và chính sách lao động : Xoá bỏ độc quyền nhà nước trong một số lĩnh vực quan trọng, đồng thời chính phủ sẽ chấm dứt biện pháp trợ cấp nhằm cứu các doanh nghiệp tư nhân và dần cắt giảm các khoản vay theo chính sách, giải thể và sáp nhập các công ty làm ăn thua lỗ nhằm tăng hiệu quả của nền kinh tế : cho phép các công ty sa thải công nhân để tăng tính hiệu quả. Yêu cầu các công ty lớn công bố tình hình tài chính và sẽ được kiểm soát một cách độc lập. Cơ cấu lại hệ thống đảm bảo thanh toán chéo giữa các công ty con. Về thị trường lao động : Chính phủ sẽ thực hiện trợ cấp thất nghiệp và nâng cao tính năng động của thị trường lao động.
- Tiếp tục đẩy mạnh xuất khẩu, đa dạnh hoá hoạt động thương mại, tiết kiệm ngoại hối để nhanh chóng cân bằng cán cân vãng lai.
Ngoài một số giải pháp được coi là hơi cứng nhắc mà IMF đưa ra ở trên thì còn rất nhiều ý tưởng, đề xuất tại các hội nghị thưởng đỉnh APEC, hội nghị cấp cao ASEAN, các cuộc gặp không chính thức đa phương và song phương giữa các nước trong khu vực nhằm góp phần giải quyết khủng hoảng ở từng quốc gia khác nhau với những nguyên nhân và tính chất khủng hoảng khác nhau.
iii. Một số giải pháp nhằm hạn chế và khắc phục ảnh hưởng tiêu cực của cuộc khủng hoảng tới việt nam
1.Bối cảnh quốc tế và trong nước
1.1 Bối cảnh chung
Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á đã làm giảm tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế thế giới trong năm 1998 là 0.8%, tức là chỉ tăng 3.5% thay vì 4.3% như đã dự đoán ban đầu trước khi châu á lâm vào khủng hoảng. Theo IMF thì thiệt hại đó to lớn nhưng không đều, chịu hậu quả nặng nề nhất là những nơi đã xuất phát khủng hoảng như Thái lan, Inđônêsia, Malaysia, Philippin. Các nước này chỉ tăng trưởng kinh tế trung bình là 1,5% trong năm 1998. Tiếp sau là bốn nước NICs : Singapo, Đài loan, Hồng kông, Hàn quốc chỉ tăng trưởng kinh tế trung bình 3,6% trong năm 1998 so với 6,2% trong năm 1997. Hàn quốc lẽ ra phải tuyên bố vỡ nợ nếu như không được sự tài trợ khẩn cấp của Nhật bản và Phương tây.
Bị vạ lây còn có hầu hết các nước Đông âu đang trong thời kỳ chuyển tiếp và các quốc gia đang phát triển ở Nam Mỹ cũng như ở châu phi ( các quốc gia này vốn đã khó khăn lại càng khó khăn thêm). Trong nhóm G7 chỉ có Nhật bản là bị tác hại nặng vì Nhật bản đả bỏ rất nhiều vốn vào các nước láng giềng và phải chịu cải tổ nền tài chính trong nước một cách toàn diện. Mức tăng trưởng kinh tế của Nhật bản năm 1998 là (-)2,7% so với 2,2% năm 1997. Các quốc gia khác trong khối G7 chỉ bị ảnh hưởng nhẹ của cuộc khủng hoảng châu á làm giảm 0,4% tỷ lệ tăng trưởng kinh tế. Đối với Mỹ mức tăng trưởng chậm bớt lại không phải là một tai hoạ mà còn có tác dụng tích cực làm giảm nguy cơ lạm phát gia tăng. Đối với EU, do quan hệ thương mại và đầu tư với khu vực châu á còn rất hạn chế, bởi vậy cuộc khủng hoảng cũng không tác động nhiều tới tình hình kinh tế của các nước này.
Nhìn về tổng thể thì, các nước công nghiệp vẫn chiếm ưu thế hơn vì chuyên sản xuất các mặt hàng kỷ thuật cao, trong khi châu á với công nghệ hạng hai, chỉ là công trường gia công mà thôi, hai bên không cạnh tranh trên cùng một địa hạt nên tác động của cuộc khủng hoảng đối với Phương Tây cũng có giới hạn. Sau cuộc khủng hoảng các nước tích cực rà soát lại nền kinh tế của mình và phần nào e dè hơn đối với sự tự do hoá thương mại, đầu tư ... đặc biệt là lĩnh vực tài chính - tiền tệ, đồng thời rút ra được các bài học xương máu cho mình, cũng như các biện pháp triệt tiêu các nhân tố là nguyên nhân dẫn đến khủng hoảng.
1.2 Thực trạng nền kinh tế Việt nam trong bối cảnh khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á
Từ khi thực hiện đổi mới nền kinh tế, Việt nam đã đạt được một số thành tựu quan trọng. Tốc độ tăng trưởng kinh tế khá cao trong khi lạm phát được giữ ở mức ổn định một hoặc hai con số trong một trong nhiều năm liền có thể nhận thấy điều đó qua bảng sau :
Bảng cơ cấu tăng trưởng GDP từ năm 1994 đến năm 1998
Chỉ tiêu(%)
1994
1995
1996
1997
1998
GDP
8.8
9.5
9.3
8.2
5.8
Nông nghiệp
3.9
4.5
4.4
4.5
3.0
Công nghiệp
14.0
13.9
14.1
13.0
12.1
Dịch vụ
10.2
10.6
10.0
9.2
6.7
Nguồn : Tạp chí Phát triển kinh tế tháng 3-1999
Mức lạm phát qua các năm thể hiện ở biểu đồ dưới đây:
Biểu đồ mức lạm phát của Việt nam từ năm 1994-1998
Nguồn : Thời báo kinh tế số 18 năm 1999
Công nghiệp và dịch vụ luôn đạt được tốc độ tăng trưởng cao ở mức hai con số trong nhiều năm liền. Sự phát triển kinh tế đang đi đúng định hướng công nghiệp hoá - hiện đại hoá đất nước theo đường lối của đảng.
Đầu tư nước ngoài từ năm 1991 đến năm 1998 có số vốn đăng ký là 33.438 triệu USD, vốn thực hiện là 12.204 triệu USD đạt 36,5% trên vốn đăng ký, đóng góp 43% vào GDP. Đầu tư nước ngoài đã thực sự mang lại sự khởi sắc cho nền kinh tế Việt nam trong những năm qua.
Tuy nhiên xét từ nhiều góc độ kinh tế khác nhau thì bản thân nội tại nền kinh tế cũng chứa đựng những yếu tố mang tính nguyên nhân của khủng hoảng tương tự như một số nước trong khu vực, tuy mức độ và ở một số lĩnh vực có những điểm khác nhau. Điều đó được rút ra từ việc phân tích, so sánh nền kinh tế của nước ta với nền kinh tế các nước trong khu vực.
Những điểm giống nhau
Nền kinh tế nước ta có tốc độ tăng trưởng cao trong vòng gần mười năm qua, tuy nhiên chưa thực sự ổn định và vững chắc. Một phần quan trọng đóng góp cho tăng trưởng kinh tế là tốc độ tăng kim ngạch xuất khẩu cao (20-30% ) và đầu tư nước ngoài tăng mạnh. Mức tăng trưởng GDP phụ thuộc rất lớn vào nguồn vốn đầu tư nước ngoài ( chủ yếu là FDI và ODA ) nên khi nguồn vốn này giảm sút dễ gây những ảnh hưởng tiêu cực đến nền kinh tế. Mặt khác cán cân thanh toán vãng lai thâm hụt kéo dài trong nhiều năm ở mức cao ( khoảng 8% so với GDP ) đã gây sức ép đến tỷ giá hối đoái và tăng dư nợ nước ngoài của Việt nam.
Bảng thâm hụt cán cân thanh toán từ năm 1995-1998
Năm
1995
1996
1997
1998
Thâm hụt cán cân vãng lai ( tỷ USD )
1.8
2.0
1.5
1.7
Thâm hụt cán cân thương mại (tỷ USD )
3.5
4.0
2.3
2.5
Nguồn: Tạp chí thương mại số 4 năm 1999
Phần thâm hụt này được bù lại bằng FDI, ODA và vay thương mại. Theo tính toán, FDI bù đắp 90% cán cân vẵng lai còn lại là ODA và vay thương mại, nhưng cả hai nguồn này đều được sử dụng kém hiệu quả. Ngoài ra tỷ lệ nợ nước ngoài đã lên khoảng 50% GDP, dự trữ ngoại tệ thấp, năm 1997 là 2.7 tỷ USD và năm 1998 là 2.8 tỷ. Tình trạng bội chi ngân sách kéo dài, công cụ thuế chưa phát huy được hết hiệu lực và hiệu quả đối với nền kinh tế, còn thất thu nhiều, đặc biệt là việc bao cấp cho một số doanh nghiệp nhà nước chưa được giải quyết triệt để.
Chế độ tỷ giá ổn định kéo dài nhằm mục đích tạo ra môi trường kinh tế vĩ mô ổn định, thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Luồng vốn nước ngoài đổ vào nhiều đã tạo nên sự ổn định tỷ giá và tăng dự trữ ngoại tệ, tuy nhiên lại làm tăng tỷ giá thực của đồng Việt nam làm hạn chế xuất khẩu, kích thích nhập khẩu, ảnh hưởng xấu đến cán cân thanh toán quốc tế.
Nợ nước ngoài tăng lên khá nhanh, nó đã đáp ứng nhu cầu vốn đầu tư cho nền kinh tế, nhưng về lâu dài gánh nặng nợ nước ngoài cũng sẽ ảnh hưởng không nhỏ đến cán cân thanh toán và nhu cầu ngoại tệ để trả nợ dài hạn, nhất là các khoản vay nước ngoài sử dụng không có hiệu quả, thất thoát và đó sẽ là nhấn tố trực tiếp gây ra khủng hoảng kinh tế.
Hệ thống ngân hàng - tài chính chưa phát triển phù hợp, còn non yếu trong quản lý, đặc biệt trong lĩnh vực thanh tra kiểm soát. Các ngân hàng còn lỏng lẻo trong quản lý vốn, chất lượng tín dụng kém, thất thoát, nợ đọng, nợ quá hạn, nợ khó đòi lớn... Nói chung còn nhiều vấn đề bất cập và yếu kém trong việc quản lý và phát huy hết hiệu lực của hệ thống ngân hàng - tài chính ở nước ta.
Những điểm khác nhau
Thị trường tài chính - tiền tệ của Việt nam mới ở giai đoạn sơ khai phát triển chưa đầy đủ để có thể hoà nhập với thị trường tài chính khu vực. Thị trường chứng khoán chưa hình thành, đồng tiền Việt nam là một đồng tiền chưa chuyển đổi, các công cụ tài chính như cổ phiều, trái phiếu... chưa phát triển nên chưa có đầu tư gián tiếp hay các luồng lưu chuyển vốn ngắn hạn lớn chưa có điều kiện phát triển, đầu tư nước ngoài vào các giấy tờ có giá trong nước vẫn còn bị kiểm soát chặt chẻ nên khả năng đầu cơ gây bất lợi cho đồng Việt nam là rất hạn chế. Vì vậy, việc chuyển vốn ngắn hạn ra khỏi Việt nam để có thể gây ra một cú sốc đột biến là rất khó xảy ra.
Chế độ quản lý ngoại hối của Việt nam tương đối chặt chẽ, kể cả các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn. Việc quản lý các nguồn ngoại tệ vào, ra của Việt Nam tương đối chặt chẽ đối với các tổ chức, cá nhân người nước ngoài, góp phần tạo ra một rào chắn trước áp lực của luồng ngoại tệ chảy ra ngoài hoặc những hoạt động đầu cơ.
Nợ nước ngoài về cơ bản vẩn là nguồn nợ Chính phủ từ nguồn ODA và chủ yếu là nợ trung và dài hạn, nợ ngắn hạn không nhiều, chỉ chiếm 10% nợ nước ngoài, nên sức ép từ lĩnh vực này đối với cầu ngoại tệ không mạnh như các nước trong khu vực bị khủng hoảng
Chính sách tỷ giá nhìn về tổng thể cũng đã được điều chỉnh từng bước linh hoạt trên cơ sở ổn định giá trị đối nội và đối ngoại, một phần tạo điều kiện cho đồng Việt nam được phản ánh tương đối sát thực với cung cầu ngoại tệ, một phần kiềm chế lạm phát và một phần đáp ứng khả năng hỗ trợ xuất khẩu.
Chính phủ Việt nam đã sớm có những chỉ đạo kịp thời để ngăn chặn nguy cơ khủng hoảng có thể xảy ra xuất phát từ những nguyên nhân nội sinh của nền kinh tế, đặc biệt là xử lý các vấn đề chính sách. Từ những phân tích điểm giống và khác nhau giữa nền kinh tế Việt nam và nền kinh tế trong khu vực, ta có thể có những căn cứ để đánh giá tác động của cuộc khủng hoảng đến Việt nam.
2. Tác động của cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu á đến Việt nam.
2.1 Tác động đến đồng nội tệ
Khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong khu vực không có ảnh hưởng lớn tới thị trường tài chính, tiền tệ Việt nam. Do đồng tiền nước ta là đồng tiền chưa chuyển đổi và chúng ta cũng chưa có thị trường chứng khoán, thị trường tài chính Việt nam chưa phát triển đầy đủ.
Nguồn vốn nước ngoài vào Việt nam chủ yếu là FDI và ODA. Thêm vào đó là việc quản lý ngoại hối tương đối chặt chẽ đối với các ngân hàng nước ngoài trong quá trình hoạt động và cho vay bằng đồng Việt nam, mua trái phiếu kho bạc, tự do chuyển nhượng hay mua bán ngoại tệ với khối lượng lớn nên không thể có đầu cơ lũng đoạn, phá giá đồng tiền nước ta từ bên ngoài được.
Tuy nhiên việc các đồng tiền trong khu vực mất giá sẽ có ảnh hưởng xấu đến đồng tiền Việt nam. Đồng tiền Việt nam đã lên giá so với các đồng tiền trong khu vực (tăng khoảng 32% so với đồng Baht, 20.1% s
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 34.doc