Chủ yếu là dân cư trên địa bàn tỉnh, do vậy phải tăng cường hơn nữa việc huy động vốn trong nhân dân cả trên địa bàn thị xã và các huyện. Văn phòng kho bạc Tỉnh cần mở thêm một số điểm phát hành trái phiếu trên địa bàn thị xã mỗi khi có đợt phát hành , nhằm huy động nhanh có hiệu quả các nguồn vốn. Bên cạnh đó các KBNN huyện cần có biện pháp huy động có hiệu quả hơn nữa các nguồn vốn trong dân cư ở vùng sâu, vùng xa. Có như vậy sẽ huy động tối đa các nguồn vốn nhàn rỗi trên địa bàn tỉnh, góp phần không nhỏ vào sự thành công của công tác huy động vốn nói chung.
63 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1023 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác huy động vốn thông qua phát hành trái phiếu Chính phủ tại kho bạc nhà nước Lạng Sơn, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trò của KBNN thị xã vì thế hoạt động của KBNN tỉnh rất phong phú và phức tạp.
Với tổng số cán bộ,viên chức từ hệ thống Ngân hàng và tài chính chuyển sang, được KBNN TW cấp kinh phí hoạt động cũng như được sự giúp đỡ của các ngành, các cấp chức năng trong tỉnh , KBNN Lạng Sơn đã đi vào hoạt động theo cơ cấu tổ chức chặt chẽ thống nhất từ KBNN tỉnh đến KBNN các huyện và đã dần dần trưởng thành qua năm tháng, cho đến nay đã có đội ngũ cán bộ vững mạnh trên dưới 192 cán bộ, trong đó số cán bộ có trình độ đại học và cao đẳng chiếm tỷ lệ khá cao. Tuy nhiên việc đào tạo bồi dưỡng, nâng cao nghiệp vụ cho cán bộ công nhân viên chức trong toàn bộ hệ thống KBNN của tỉnh vẫn luôn là vấn đề quan tâm của ban lãnh đạo KBNN Lạng Sơn để hoàn thành tốt hơn những công việc mà KBNN đảm nhiệm trong công việc quản lý quỹ NSNN.
Bên cạnh công tác chuyên môn, các công tác ngoại khoá như công tác Đảng, đoàn thể cũng được định hướng một cách rõ nét. Với cương vị là một đơn vị hành chính sự nghiệp trực thuộc Bộ Tài Chính, KBNN tỉnh Lạng Sơn chịu sự chỉ đạo trực tiếp của KBNN TW. Tỉnh uỷ, UBND tỉnh. Tại KBNN tỉnh gồm 7 phòng và và một tổ nghiệp vụ trực thuộc ban lãnh đạo của KBNN Lạng Sơn, đứng đầu là giám đốc KBNN tỉnh, ta có thể minh họa bằng sơ đồ sau:
KBNN Lạng Sơn
Giám đốc
P. Giám đốc
P. Giám đốc
Phòng
KH- TH
Phòng
hành chính quản trị
Phòng
tổ chức
cán bộ
Phòng
thanh
tra
Phòng thanh toán vốn ĐTXDCB
Phòng
kế toán
(tổvi tính)
Phòng
kho
quỹ
KBNN
Đình lập
KBNN
Tràng
Định
KBNN
Văn Lãng
KBNN
Văn Quan
KBNN
Bình Gia
KBNN
Bắc Sơn
KBNN
Chi Lăng
KBNN
Hữu Lũng
KBNN
Cao Lộc
KB NN
Lộc Bình
Hơn 10 năm ra đời và trưởng thành KBNN Lạng Sơn đã khẳng định vị trí và vai trò không thể thiếu của mình trong việc phát triển kinh tế- xã hội của đất nước nói chung và tỉnh Lạng Sơn nói riêng.
Lạng Sơn là một tỉnh có địa bàn khó khăn và phức tạp, có vị trí quan trọng nên nhiệm vụ của KBNN Lạng Sơn cũng hết sức nặng nề và quá trình thực hiện gặp không ít những khó khăn. Nhận thức được vấn đề đó , nhìn chung KBNN Lạng Sơn đã cố gắng hoàn thành mọi nhiệm vụ được giao nhằm góp phần hoàn thành nhiệm vụ chính trị, kinh tế văn hoá xã hội , an ninh Quốc phòng trên địa bàn tỉnh. Cụ thể về công tác chuyên môn như sau:
- Về công tác quản lý quỹ NSNN: Đây là một công tác trọng tâm và thường xuyên nên luôn luôn được cấp uỷ Đảng và Chính quyền tỉnh quan tâm và chú trọng lãnh đạo chỉ đạo các ngành chức năng thực hiện mọi biện pháp thu từ mọi nguồn vào NSNN, đồng thời quản lý chi tiêu theo dự toán được duyệt theo luật NSNN qua các năm, cụ thể :
+ Thu NSNN qua các năm như sau: năm 1990 thu được 17.021 triệu đồng, năm 1991 thu được 21.037 triệu đồng, năm 1992 thu được 64.093 triệu đồng, năm 1993 thu được 188.678 triệu đồng, năm1994 thu được 240.375 triệu đồng, năm 1995 thu được 292.124 triệu đồng, năm 1996 thu được 288.678 triệu đồng, năm 1999 thu được 433.280 triệu đồng, năm 2000 thu được 832.718 triệu đồng.
+ Chi NSNN qua các năm như sau: năm 1990 chi 45.214 triệu đồng,năm 1991 chi 52.768 triệu đồng, năm 1992 chi 107.511 triệu đồng, năm 1993 chi 233.454 triệu đồng, năm 1994 chi 239.051 triệu đồng, năm 1995 chi 299.091 triệu đồng, năm 1996 chi 304.608 triệu đồng, năm 1997 chi 310.700 triệu đồng,năm 1998 chi 375.294 triệu đồng, năm 1999 chi 440.290 triệu đồng, năm 2000 chi 694.193 triệu đồng.
- Về công tác kế toán: Thực hiện hệ thống quản lý quỹ NSNN theo luật định, do đó trong quá trình thực hiện luôn có sự bổ sung, sửa đổi cho hoàn chỉnh đồng thời từng bước hiện đại hoá bằng máy vi tính để nhằm hạch toán và quản lý quỹ NSNN có hiệu quả.
- Công tác tiền tệ, kho quỹ, thường xuyên chú ý tổ chức học tập các chế độ quy định của Nhà nước, tập huấn tay nghề nhằm kiểm nhận, quản lý phải an toàn tuyệt đối.
- Về công tác tín dụng Nhà nước: Qua 10 năm triển khai, công tác tín dụng của KBNN Lạng Sơn đã đạt được nhiều thành tích đáng kể trong công tác phát hành và thanh toán tín phiếu, công trái XDTQ. Từ các nguồn vốn huy động được, KBNN thực hiện triển khai các hình thức tín dụng tài trợ theo mục tiêu chỉ định của Chính phủ nhằm giải quyết việc làm cho người lao động( như chương trình 120), đầu tư phát triển kinh tế như đường dây tải điện 500 kv, chương trình 135, trung tâm cục xã và đường ra biên giới. Để hoàn thành nhiệm vụ trong công tác huy động vốn từ nguồn vốn nhàn rỗi trong dân cư thông qua việc phát hành TPCP, KNNN Lạng Sơn đã làm tốt công tác tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng, tổ chức các bàn bán, phục vụ nhiệt tình người mua. Do vậy, trong 10 năm qua KBNN Lạng Sơn đã huy động được với tổng doanh số là: 434,22 tỷ đồng.
- Về công tác thanh tra kiểm tra: chấp hành thực hiện công tác thanh tra kiểm tra thường xuyên, phát hiện và xử lý kịp thời hiện tượng vi phạm, từ đó các hoạt động KBNN được chấn chỉnh kịp thời đi vào nề nếp, hạn chế những sai sót tiêu cực.
Nhìn lại một cách khái quát nhất về hoạt động từ khi ra đời đến nay ta thấy rằng KBNN Lạng Sơn đã và đang từng bước trưởng thành.
2.2. Công tác tổ chức và quản lý huy động vốn
2.2.1. Bộ máy thực hiện:
Trong quá trình huy động vốn, mỗi bộ phận thực hiện một nhiệm vụ riêng biệt và kết hợp chặt chẽ với nhau hoàn chỉnh một chu trình phát hành hay thanh toán TPCP.
Giám đốc KBNN điều hành chung mọi hoạt động của đơn vị, Phó giám đốc phụ trách kế toán trực tiếp chỉ đạo công tác phát hành và thanh toán TPCP: bố chí cán bộ, phương tiện, quán triệt các quyết định của Chính phủ, các công văn, thông tư về phát hành và thanh toán TPCP.
Bộ phận kế toán là bộ phận trực tiếp phát hành TPCP, hạch toán vay dân, điều tiết cho NSTW, kê bảng kê phát hành TPCP theo từng loại mệnh giá và sêri. Trực tiếp tiến hành thanh toán TPCP theo từng lạo kì hạn và lãi suất tương ứng đồng thời lưu giữ chứng từ theo đúng quy định.
Bộ phận kho quỹ: trực tiếp thực hiện thu tiền bán trái phiếu, kiểm tra đúng số tiền, niêm phong tiền và cất tiền vào kho, thực hiện chi trả trái phiếu chính xác, đồng thời quản lý trái phiếu trắng nhận từ Trung ương về và phân phối cho các đơn vị liên quan, làm báo cáo ấn chỉ nhập xuất kho theo từng đợt phát hành.
Bộ phận kế toán tổng hợp, tổng hợp số liệu báo cáo lãnh đạo và báo cáo về KBNN TW. Tổng hợp tình hình phát hành và thanh toán TPCP một cách chung nhất.
2.2.2. Quy trình phát hành:
Sơ đồ 1: Quy trình thu bán trái phiếu Chính phủ.
3
Người mua
Kế toán
Thủ quỹ
1
4
2
5
Quy trình được thực hiện tuần tự theo 5 bước:
1. Người mua viết các yếu tố quy định trên phiếu mua trái phiếu, kí tên lên chỗ quy định rồi chuyển cho kế toán kho bạc.
2. Kế toán kiểm tra các yếu tố trên phiếu mua và tiến hành:
- Viết các yếu tố quy định trên tờ khai phiếu kho bạc ( phần cuống + thân).
- Yêu cầu người mua kí chữ kí mẫu vào cuống trái phiếu .
- Giao tờ trái phiếu và phiếu mua cho thủ quỹ.
3. Thủ quỹ kiểm tra các yếu tố trên tờ trái phiếu, phiếu mua trái phiếu đảm bảo khớp đúng, hợp lệ thì tiến hành :
- Thu tiền của người mua trái phiếu .
- Kí tên vào chỗ quy định trên tờ trái phiếu và phiếu mua trái phiếu.
- Đóng dấu “Đã thu tiền” lên tờ mua trái phiếu .
- Thủ quỹ giao tờ trái phiếu và phiếu mua trái phiếu lại cho kế toán và ghi nhật ký quỹ.
4. Nhận được trái phiếu và phiếu mua trái phiếu kế toán tiến hành:
- Kí tên vào chỗ quy định trên tờ trái phiếu và phiếu mua trái phiếu.
- Giao tờ trái phiếu cho người mua.
- Cuối ngày căn cứ vào số liệu trên bảng kê chi tiết bán trái phiếu và phiếu mua trái phiếu , tiến hành hạch toán, lập sổ chi tiết tài khoản 90, và lưu chứng từ theo quy định.
5. Cuối ngày kế toán và thủ quỹ đối chiếu số tiền thu về bán trái phiếu KBNN.
2.2.3. Quy trình thanh toán, chi trả trái phiếu:
Sơ đồ 2: Quy trình thanh toán chi trả trái phiếu.
4
Thủ quỹ
Kế toán
Người mua
1
2
3
5
1. Người có trái phiếu tự ghi các yếu tố quy định trên phiếu thanh toán, kí tên sau đó nộp cho kế toán, kí tên sau đó nộp cho kế toán: tờ trái phiếu, phiếu thanh toán, chứng minh thư, giấy uỷ quyền (nếu có)...
2. Nhận được các chứng từ trên kế toán tiến hành ;
- Kiểm tra tờ trái phiếu, phiếu thanh toán trái phiếu, các chứng từ liên quan đảm bảo hợp lệ.
- Đối chiếu chữ kí mẫu ở phiếu thanh toán và ở cuống trái phiếu.
- Đối chiếu tờ trái phiếu với bảng kê phát hành trái phiếu số khai báo mất trái phiếu ... Trường hợp gốc trái phiếu đang bị phong toả do người mua dùng tờ trái phiếu để thế chấp hoặc đã báo mất ... thì phải xử lý theo những quy định cho từng trường hợp cụ thể.
- Tính toán lại số tiền gốc, lãi phải trả để ghi số tiền thanh toán vào trái phiếu.
-Rút cuống trái phiếu đó ghim kèm với tờ trái phiếu và phiếu thanh toán .
Chuyển cho thủ quỹ tờ trái phiếu, cuống trái phiếu và phiếu thanh toán.
3. Thủ quỹ kiểm tra số tiền phải thanh toán ghi tên trái phiếu và phiếu thanh toán trái phiếu, kí tên vào trái phiếu, yêu cầu người nhận kí tên vào tờ trái phiếu và trả tiền, đóng dấu “ Đã chi tiền” vào phiếu thanh toán , cắt góc và đóng dấu “ Đã chi tiền ” vào tờ trái phiếu đã thanh toán và ghi sổ quỹ.
4. Nhận được các chứng từ này, kế toán kí tên vào chỗ quy định trên tờ trái phiếu và thanh toán trái phiếu .
- Ghi bảng kê chi tiết thanh toán gốc, lãi trái phiếu.
- Cuối tháng căn cứ vào bảng kê thanh toán trái phiếu , phiếu thanh toán trái phiếu, lập sổ chi tiết tài khoản 90, 61 và lưu chứng từ theo quy định.
5. Cuối ngày, kế toán và thủ quỹ đối chiếu số tiền thanh toán trái phiếu sau cùng, thủ quỹ bàn nộp tiền đã niêm phong theo bó cho bộ phận kho quỹ, gửi trái phiếu trắng còn tồn cuối ngày vào kho, kí xác nhận về số tiền , chủng loại tiền với thủ kho. Kế toán nộp chứng từ lên bộ phận kế toán, chịu trách nhiệm về các số liệu đã ghi chép . Số liệu này sẽ được kiểm tra một lần nữa trước khi đưa vào máy và truyền về trung tâm (KBNN) vào cuối ngày.
2.3. Thực trạng phát hành và thanh toán trái phiếu chính phủ tại KBNN Lạng Sơn trong thời gian qua.
Huy động vốn là một chính sách tài chính có rất nhiều ưu điểm được Nhà nước ta sử dụng phổ biến và khá liên tục trong thời gian qua. Nó vừa huy động được nguồn vốn nội lực trong dân, vừa “đánh tan” những đồng tiền “ đóng băng” trong nền kinh tế, vừa tăng nguồn lực tài chính cho NSNN và thực hiện mục tiêu kinh tế - xã hội, thúc đẩy sự phát triển của đất nước, mặc dù mới trải qua hơn 10 năm hoạt động, xong KBNN Lạng Sơn đã góp một phần không nhỏ vào sự phát triển kinh tế nói chung và kinh tế của tỉnh Lạng Sơn nói riêng. Đặc biệt là trong công tác huy động vốn, đã huy động được một lượng vốn không nhỏ thông qua phát hành TPCP góp phần bù đắp thiếu hụt NSNN và đầu tư phát triển kinh tế, cụ thể là trong 10 năm qua KBNN Lạng Sơn đã huy động được với tổng doanh số là 434.220 triệu đồng. Song song với công tác phát hành trái phiếu, KBNN Lạng Sơn cũng tổ chức tốt công tác chuẩn bị nguồn vốn , tiền mặt để thanh toán các loại trái phiếu cho người mua khi đến kì hạn thanh toán. Ngay từ những năm đầu mới đi vào hoạt động, KBNN Lạng Sơn đã làm tốt công tác huy động vốn, hoàn thành nhiệm vụ được giao cụ thể:
Theo quyết định số 384 TC/KBNN ngày 14/09/1992 và quyết định số 414 TC/KBNN của Bộ Tài Chính về việc phát hành tín phiếu kho bạc 6 tháng lãi suất 2,9%/ tháng. KBNN Lạng Sơn đã huy động được 4.470 triệu đồng, con số này chưa phải là lớn, song nó đánh dấu một sự khởi đầu tốt đẹp trong công tác huy động vốn. ở KBNN Lạng Sơn bước sang năm 1993, tiếp tục phát hành tín phiếu loại kì hạn 6 tháng, và tín phiếu đường dây 500 kw, đồng thời phát hành loại tín phiếu kho bạc loại kỳ hạn 12 tháng, lãi suất 2%/ tháng trả lãi trước, theo quyết định số 782-TC/KBNN ngày 8/11/1993 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính kết quả thu về được 33.000, 5 triệu đồng, như vậy ta thấy rằng năm 1993 KBNN Lạng Sơn đã huy động được gấp 8 lần so với năm 1992, một kết quả đáng mừng, có được kết quả trên là do kho bạc đã mở rộng phạm vi phát hành và lãi suất tín phiếu hấp dẫn nên đã thu hút được người mua, song song với việc phát hành đó là công tác thanh toán và năm 1993 số đã thanh toán là 27.497,217 triệu đồng.
Năm 1994 thực hiện quyết đính số 432- TC/KBNN ngày 28/5/1994 của Bộ trưởng Bộ Tài Chính, KBNN Lạng Sơn tiếp tục phát hành loại tín phiếu kì hạn 6 tháng, lãi suất 1,7 %/ tháng, đã thu về 58.513 triệu đồng, đồng thời thanh toán 79.507,59 triệu đồng, như vậy mặc dù trong năm 1994, KBNN Lạng Sơn chỉ phát hành loại tín phiếu kì hạn 6 tháng nhưng số thu về đã tăng 25.512,5 triệu đồng so với năm 1993, có được kết quả trên là do việc trả lãi trước đã thu hút được người dân, bên cạnh đó KBNN Lạng Sơn đã thực hiện thanh toán các loại tín phiếu đến hạn kịp thời nên đã mang lại niềm tin cho nhân dân trên địa bàn tỉnh.
Theo công văn số 141 TC/KBNN ngày 22/2/1995 về việc phát hành trái phiếu kì hạn 1 năm, lãi suất 21%/ năm, trong năm 1995 KBNN Lạng Sơn đã huy động được 43.401 triệu đồng. Đây là một kết quả rất khả quan, với mức lãi suất 21%/ năm loại trái phiếu này đã dặc biệt hấp dẫn nhân dân trong tỉnh, đặc biệt là ở địa bàn thị xã, chỉ trong 6 tháng mà văn phòng KBNN tỉnh đã huy động được 37.000 triệu đồng, các kho bạc huyện huy động được ít hơn, với con số khiêm tốn 6.000 trệu đồng. Bên cạnh việc phát hành trái phiếu kỳ hạn 1 năm, KBNN Lạng Sơn còn tiếp tục phát hành tín phiếu kì hạn 6 tháng, kết quả toàn tỉnh về việc phát hành cả 2 loại trên là 40.113,320 triệu đồng.
Bước sang năm 1996, 1997, KBNN Lạng Sơn tiếp tục thực hiện công tác huy động vốn, nhưng chỉ phát hành trái phiếu loại 2 năm được thể hiện như sau:
Bảng 1: Tổng kết tình hình phát hành và thanh toán năm 1996,1997.
Đơn vị: Triệu đồng
Loại
Năm
Trái phiếu KB kỳ hạn 2 năm
Số phát hành
Số thanh toán
1996
35.358
53.852
1997
63.745,7
6.268,9
(Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết hoạt động KBNN Lạng Sơn năm 1996, 1997 )
Sở dĩ năm 1996, số thu về giảm 44.153 triệu đồng so với năm 1995 là do năm 1996 chỉ phát hành loại trái phiếu kỳ hạn 2 năm, thêm vào đó thời gian phát hành chỉ 4 tháng từ tháng 9 năm 1996 đến tháng 12 năm 1996, nhưng nếu như cũng loại trái phiếu này sang năm 1997 đã tăng 20.387,7 triệu đồng (180%) . Mặc dù năm 1997 số vốn huy động được đã tăng 180% so với năm 1996 nhưng đó là một con số chưa phải là cao, có lẽ đây là giai đoạn đầu của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nền kinh tế Việt Nam bị ảnh hưởng ít nhiều làm giá trị đồng tiền bất ổn định. Dân chúng có tâm lý “ăn chắc, mặc bền” và giữ tiền trong túi sợ tình cảnh của đầu năm 1980. Do đó việc huy động vốn gặp không ít khó khăn.
Năm 1998:
Đây là một năm khá bận rộn đối với kho bạc Lạng Sơn. Năm 1998 chỉ phát hành một đợt trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm nhưng lãi suất huy động được điều chỉnh liên tục kéo dài từ đầu năm đến cuối năm theo quyết định số 133/1998 QĐ- BTC ra ngày 14/2/1998 về việc phát hành trái phiếu, ngày 2/3/1998 cùng với 605 kho bạc tỉnh thành phố, quận huyện trên cả nước, KBNN Lạng Sơn đã phát hành loại trái phiếu 2 năm lãi suất 12% / năm và lãi suất trước hạn là 11%/năm. Ngày 15/4/1998 theo quyết đinh số 384/ 1998/ QĐ- BTC ra ngày 30/3/1998 lãi suất được nâng lên từ 12%/ năm thành 13%/năm và lãi suất trước hạn là 12%/năm. Đây là tình hình phát hành trái phiếu chung của cả nước, khi mà tác động của cuộc khủng hoảng Tài chính - tiền tệ đang ngấm dần vào nền kinh tế , làm cho không chỉ dân chúng mà cả các nhà kinh tế rất lo sợ và khó dự đoán cho sự ổn định của đồng tiền trong tương lai. Quyết định 1063/1998/ QĐ- BTC ra ngày 19/8/1998 tiếp tục điều chỉnh lãi suất từ 13%/năm lên 14%/năm và lãi suất trước hạn là 13% bằng lãi suất huy động khi chưa điều chỉnh. Quyết định này bắt đầu từ ngày19/1/1998 tiếp tục điều chỉnh lãi suất là một chủ trương của Nhà nước nhằm hấp dẫn hơn nữa nguồn vốn tiền tệ nhàn rỗi trong quần chúng, tránh tình trạng một số người lo sợ cuộc khủng khoảng sẽ làm mất giá đồng tiền, họ lập tức bỏ tiền vào lưu thông chỉ để tiêu dùng thông thường. Và điều này chỉ làm cho tình hình khó khăn hơn mà thôi. Khi cơn bão qua đi, nền kinh tế khắc phục dần hậu quả để trở về trạng thái trước đây, người dân bớt âu lo và TPCP lại khẳng định niềm tin với dân chúng. Ngày 1/12/1998 theo quyết định số 1661/ 1998/ QĐ- BTC ra ngày 23/11/1998, lãi suất giảm từ 14% xuống 13%/ năm, lãi suất trước hạn là 12%/ năm, đây là dấu hiệu khả quan cho nền kinh tế.
Nhưng các cán bộ kho bạc thì thật sự vất vả, chỉ trong một thời gian ngắn mà lãi suất thay đổi liên tục khiến cho họ phải liên tục trả lời và giải thích cho mọi người dân hiểu được sự biến động của lãi suất. Nhiều người cho rằng, chính sách Nhà nước không nhất quán, thay đổi quá nhiều trong thời gian ngắn. Dù sao, đây cũng là điều không ai mong muốn, Nhà nước phải căn cứ vào nhu cầu vốn và tình hình thực tế của nền kinh tế để đưa ra quyết định phải thay đổi như thế nào cho hợp lý, việc tăng lãi suất đồng nghĩa với việc tăng nợ của Nhà nước, nhưng vì mục đích huy động đủ số vốn cần thiết và tránh tình trạng sử dụng tiền tràn lan trong dân chúng, Nhà nước sẵn sàng chấp nhận một số nợ lớn hơn, làm như vậy cũng là để Nhà nước thực hiện chức năng của mình là quản lý vĩ mô nền kinh tế.
Có thể nói đây là đợt phát hành mang nặng tính phân đoạn, đòi hỏi trình độ quản lý cao và tính chuẩn xác trong công việc. Cán bộ KBNN Lạng Sơn luôn phát huy năng lực và trách nhiệm để hoàn thành tốt nhiệm vụ, có thái độ hoà nhã với khách hàng làm cho khách hàng ngày càng quan tâm và tin tưởng vào TPCP. Bên cạnh việc phát hành kho bạc cũng thanh toán nhanh gọn, chính xác cho những khách hàng có nhu cầu thanh toán. Số liệu phát hành và thanh toán trái phiếu kho bạc được thống kê như sau:
Bảng 2: Kết quả phát hành và thanh toán trái phiếu năm 1998
Đơn vị : triệu đồng
Tờ
Loại trái phiếu chính phủ
Số phát hành
Số thanh toán
Mốc thời gian
Lãi suất huy động
Số tiền
Số phiếu
Số tiền
Số phiếu
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm
2/3đ15/4
12%
1.718
991
73
209
110
55
2
8
15/4đ1/9
13%
4.962,8
4.575,7
176
761
201
212
15
37
1/9đ1/12
14%
39.472
8.861,5
1409
1093
543
65,1
21
16
1/12đ25/12
13%
5757,5
1.982,9
167
203
Cộng:
51.910,3
16,411,1
1852
2266
854
332
38
61
68.321,4
4091
1186
99
( Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết hoạt động KBNN Lạng Sơn năm 1998)
Thời điểm huy động được nhiều vốn nhất cũng là lúc lãi suất tăng cao nhất, chỉ trong vòng 3 tháng cả tỉnh đã huy động được 48.333,5 triệu đồng, con số 68.321,4 triệu đồng cho cả năm phát hành quả là một con số không nhỏ, điều này đã chứng minh vai trò hết sức to lớn của KBNN Lạng Sơn trong công tác huy động vốn cho NSNN.
Năm 1999:
Đây là năm khắc phục hậu quả của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, và nền kinh tế bắt đầu lấy lại thế cân bằng. Nhu cầu vốn cho NSNN là rất cao. Do vậy công tác huy động vốn đòi hỏi phải mang lại kết quả cao hơn nữa, cùng với các kho bạc trên cả nước, KBNN Lạng Sơn đã phải cố gắng rất nhiều trong việc thu hút vốn từ dân cư trên địa bàn.
Mặc dù chỉ có một đợt phát hành trái phiếu kho bạc kì hạn 2 năm, lãi suất 13%/năm, nhưng thêm vào đó là đợt phát hành công trái xây dựng Tổ quốc kỳ hạn 5 năm với lãi suất là 10%/năm. Trước hết là ngày 19/2/1999 KBNN Lạng Sơn đã phát hành loại trái phiếu kỳ hạn 2 năm thực hiện quyết định số 17/1999/QĐ- BTC kết quả thu về như sau:
Bảng 3 : Kết quả phát hành thanh toán TPCP năm 1999
Đơn vị: Triệu đồng
Tờ
Loại trái phiếu chính phủ
Số phát hành
Số thanh toán
Mốc thời gian
Lãi suất huy động
Số tiền
Số phiếu
Số tiền
Số phiếu
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm
19/2đ15/5
13%
59374,4
17.776,6
1.597
1.634
3.109,5
1093,3
118
155
Cộng:
59374,4
17.776,6
1.597
1.634
3.109,5
1093,3
118
155
77.151
3231
4.202,8
273
( Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết hoạt động KBNN Lạng Sơn năm 1999)
Chỉ trong vòng 3 tháng, KBNN Lạng Sơn đã huy động được 77.151 triệu đồng tăng 8.829,6 triệu đồng so với 4 đợt phát hành của năm 1998. Đây là kết quả đáng mừng, kết quả đã phản ánh lòng tin của nhân dân vào trái phiếu vào kho bạc, và chỉ khi có niềm tin vào khả năng sinh thời của đồng tiền, nhà đầu tư mới chịu đầu tư.
Sau đợt phát hành trái phiếu kho bạc, cán bộ KBNN Lạng Sơn lại bắt tay ngay vào đợt phát hành công trái XDTQ loại kỳ hạn 5 năm, lãi suất 10% kỷ niệm 109 năm ngày sinh chủ tịch Hồ Chí Minh. Các cán bộ đã vào cuộc thật sự hăng hái, nhiệt tình, đã phối hợp với các cơ quan chức năng tuyên truyền, thông báo, giải thích tới mọi người dân, để làm sao cho họ hiểu: “ Mua công trái là yêu nước” mua công trái là thi đua xây dựng Tổ quốc. Với chủ trương thực hiện phương châm: “ Công trái đến với người dân” nên ngoài các bàn bán ở văn phòng KBNN tỉnh và KBNN các huyện, cần tổ chức các bàn bán lưu động, đến tận nơi phục vụ nhân dân chu đáo tận tình, hướng dẫn chu đáo làm việc một cách nhanh gọn, chính xác. Kết quả thu về sau đợt phát hành công trái này như sau:
Bảng 4: Kết quả phát hành công trái XDTQ năm 1999
Đơn vị : triệu đồng
Tờ
Loại mệnh giá
Phát hành từ 19/5 hay dư nợ đến 15/7
Số phiếu
V.Phòng
KBNN tỉnh
Các KBNN huyện
Số tiền
V.Phòng
KBNN tỉnh
Các KBNN huyện
20.000
8.732
2.443
6.289
174,64
48,86
125,78
50.000
18.100
8.683
9.417
905
434,15
475,85
100.000
14.469
4.435
10.034
1.446,9
443,5
1003,4
200.000
7.606
3.093
4.513
1.521,2
618,6
902,6
500.000
886
588
298
443
294
194
1.000.000
407
245
162
407
245
162
2.000.000
140
68
72
280
136
144
5.000.000
109
49
60
545
245
300
10.000.000
80
40
40
800
400
400
20.000.000
27
17
10
540
340
200
50.000.000
95
95
0
4750
4750
0
Tổng cộng:
50.651
19.756
30.895
11.812,74
7.955,11
3.857,63
( Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết phát hành công trái XDTQ năm 1999)
Mặc dù số phiếu phát ra là lớn 50.651 tờ, song số tiền thu về còn rất khiêm tốn 11.812,74 triệu đồng. Ta thấy ở các KBNN huyện số phiếu phát hành ra lớn hơn văn phòng KBNN tỉnh, nhưng số tiền thu về lại ít hơn, vì đa số nhân dân ở các huyện là mua những món nhỏ, loại mệnh giá thấp.
Tổng hợp kết quả cả trái phiếu kì hạn 2 năm và công trái XDTQ thì trong năm 1999, số tiền thu về là: 88.963,74 triệu đồng, như vậy tăng 20.642,34 triệu đồng( 130,3%) so với năm 1998, đạt được kết quả trên tuy nhiên sức dân vẫn chưa khai thác được triệt để. Người đân vẫn còn băn khoăn với thời gian 5 năm, dài nhất từ trước đến nay, thì khi đồng tiền trượt giá, giá cả leo thang việc đầu tư sẽ có nguy cơ mất vốn. Tâm lý e dè trong đầu tư đã làm cho các nhà huy động vốn vô cùng khó khăn. Mặc dù vậy nhưng ta phải khẳng định rằng có được kết quả như vậy là do người dân đã rất tin tưởng vào TPCP, ủng hộ đường lối chủ trương của Nhà nước và do sự đóng góp hết sức của kho bạc cả về nhân lực và vật lực.
Năm 2000:
Có thể nói đây là năm có nhiều cái mới đối với công tác huy động vốn . Ngày 13/1/2000 Chính phủ đã ra nghị định số 01/2000/ NĐ- CP về quy chế phát hành TPCP, nghị định này có hiệu lực thi hành sau 15 ngày kể từ ngày kí và thay thế nghị định số 72/CP ngày 26/7/1994. Nhận được quyết định số 28/2000/ QĐ- BTC ngày 25/2/2000 và công văn hướng dẫn 190/KB/HĐVngày 29/2/2000 của KBTW, kho bạc tiến hành họp bàn, học tập kinh nghiệm của những lần trước và phân công nhiệm vụ, bố trí lực lượng, chuẩn bị chu đáo cho đợt phát hành mới . Ngày 1/3/2000 kho bạc Lạng Sơn tiếp tục bán ra công chúng loại trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm, lãi suất 7% . Trong công văn số 190/ KB- HĐV ngày 29/2/2000 có hướng dẫn việc phát hành trái phiếu do chuyển sổ, kho bạc Lạng Sơn đã thực hiện chuyển sổ trái phiếu theo đúng công văn này, kết quả trong năm 2000 được thể hiện như sau:
Đơn vị: - Triệu đồng
Tờ
Loại trái phiếu chính phủ
Số phát hành
Số thanh toán
Mốc thời gian
Lãi suất huy động
Số tiền
Số phiếu
Số tiền
Số phiếu
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
VPKBNN tỉnh
Các KBNN huyện
Trái phiếu kho bạc kỳ hạn 2 năm
2/3đ14/7
7%
57.4203
23.364,9
1597
2165
51.033,2
19.176,5
1786
1980
2/10đ25/12
6,4%
22.933,2
13.015,9
799
1190
Cộng:
80.353,5
36.380,8
2396
3355
51.053,2
19.176,5
1786
1980
116.734,3
5751
70.229,78
3766
Và : - Số phát hành do chuyển sổ: 12.644,1 triệu đồng.
- Số thanh toán chuyển sổ: 11.502 triệu đồng.
(Nguồn số liệu: Báo cáo tổng kết hoạt động KBNN Lạng Sơn năm 2000)
Lãi suất trái phiếu cùng kì hạn giảm 46,2% so với năm 1999 ( Từ 13% xuống còn 7%), song số huy động được không phải là nhỏ 116.734,3 triệu đồng nếu tính cả trái phiếu phát hành do chuyển sổ thì tổng số huy động là 129.378, 4 triệu đồng, tăng 52.227,4 triệu đồng (167,69%) so với năm 1999. Tuy nhiên số huy động phần lớn tập trung tại văn phòng KBNN tỉnh, các KBNN huyện thì ít hơn, do dân thường mua những món nhỏ, mệnh giá thấp. Trái phiếu chuyển sổ nghĩa là: Những trái phiếu đến hạn thanh toán trong thời gian KBNN đang phát hành trái phiếu, nếu chủ sở hữu chưa đến thanh toán, KBNN tự động làm thủ tục chuyển sổ sang loại trái phiếu đang phát hành. Số tiền gốc cộng tiền lãi được coi là mệnh giá của tờ trái phiếu mới và được theo dõi vào sổ chi tiết của loại trái phiếu chuyển sổ. Việc chuyển sổ chỉ thực h
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0289.doc