Theo hình thức tuyển dụng lao động của các DN có vốn ĐTNN thì chủ yếu là họ tuyển lấy những người lao động vào làm việc tại các DN của họ, do vậy mà họ chưa hiểu được tay nghề, trình độ của người lao động như thế nào, mặt khác là người lao động cũng bỡ ngỡ với công việc do chưa tìm hiểu xem công việc đó là công việc gì ,đòi hỏi trình độ gì và nó có phù hợp với mình không. Một thực tế đáng lo ngại tình hình hiện nay là các DN có vốn ĐTNN nhận những người lao động vào DN sau đó đào tạo họ : Đây là một hình thức đào tạo có thể đáp ứng ngay công việc nhưng mà rất khó thực hiện được, bởi vì do trình độ máy móc công nghệ của các DN có vốn ĐTNN cao mà phải học lý thuyết sau đó thực hành .ở đây có thể là học cử đi học hoặc đào tạo ngay tại xí nghiệp , có DN còn đưa sang nước ngoài để học , có thể đây là phương pháp tốt giúp cho chúng ta tiếp thu nhanh những tiến bộ của thế giới như thée thì việc tuyển dụng những người để đi học phải chặt chẽ, kỹ lưỡng .Các DN phải có chiến lược phát triển NNL để họ có thể đáp ứng được yêu cầu của trình độ phát triển ngày một cao .
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1612 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm hoàn thiện công tác quản lý nguồn nhân lực trong các dn có vốn đầu tư nước ngoài, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
vụ và công việc nhất định. Trong số lao động ở độ tuổi trên 30 được tuyển từ khu vực DN nhà nước , khu vực hành chính sự nghiệp có một số người được nắm giữ vị trí quản trị DN,điều hành ở một số khâu, công đoạn sản xuất kinh doanh .Do tỷ trọng các chỗ làm việc có cường độ cao, nhịp độ dây truyền sản xuất lớn (lắp ráp ô tô, xe máy, điện tử ,may mặc ...) nên việc tuyển dụng lao động của các DN có vốn ĐTNN có xu hướng tuyển dụng lao động ở độ tuổi dưới 45 tuổi.
Hình thức tuyển dụng lao động
Theo quy định của bộ luật lao động, tuyển dụng lao động cho DN có vốn ĐTNN được thực hiện qua 2 kênh đó là : Trung tâm dịch vụ việc làm và cơ quan lao động địa phương sau 30 ngày, các kênh trên không đáp ứng được thì DN được phép tự tuyển lấy lao động . Thực tế qua quá trình điều tra ở các DN cho thấy 76,1% tổng số lao động được tuyển vào làm việc là do DN tự tuyển còn 23,39% là do trung tâm dịch vụ việc làm. Nguyên nhân của tình trạng này là do hệ thống trung tâm dịch vụ việc làm tại các địa phương chưa đáp ứng được kịp thời về số lượng, chất lượng lao động theo yêu cầu của các DN. Các cơ quan địa phương chưa có mối quan hệ cung ứng lao động với các DN có vốn ĐTNN một cách chặt chẽ . Theo ý kiến của một số cơ quan lao động địa phương, thực tế còn có hiện tượng các trung tâm dịch vụ việc làm thu lệ phí không hợp lệ từ người lao động và DN làm giảm sức hút của các trung tâm dịch vụ việc làm đối với người lao động và DN. Tuy nhiên cũng thấy rằng, đối với các DN có vốn ĐTNN ở các tỉnh phía Bắc đòi hỏi chất lượng lao động tuyển dụng cao (trong 1100 lao động đang làm việc được phỏng vấn thì 92,37% đã tốt nghiệp phổ thông trung học ; 86,1% đã qua đào tạo chuyên môn kỹ thuật). Trong khi thị trường lao động địa phương còn khan hiếm lao động đã qua đào tạo .Chính vì thế các DN phải tự tuyển lấy lao động tốt nghiệp phổ thông trung học để đào taọ theo yêu cầu nhiệm vụ sản xuất-kinh doanh của DN.Rõ ràng nguồn lao động đã tốt nghiệp phổ thông trung học dù chưa qua đào tạo cũng được các DN có vốn ĐTNN chú ý khai thác, tuyển dụng để đào tạo và làm việc .Đây có thể là hình thức hữu hiệu đối với các DN để quản lý nguồn nhân lực trong DN mình vì họ đã được học công việc ngay tại DN và làm luôn tại DN, phục vụ quá trình phát triển của DN.
Khó khăn trong tuyển dụng.
Trong số các DN được điều tra, số DN gặp khó khăn trong tuyển dụng lao động chiếm tỷ lệ 35,45% (49/110 DN) .Nguyên nhân khó khăn chủ yếu của tuyển dụng lao động là thiếu lao động theo loại hình ngành nghề (lao động nghề đào tạo trên thị trường lao động không phù hợp yêu cầu tuyển dụng của DN) chiếm tỷ lệ 63,0% ,còn các nguyên nhân khác như là mức tiền công thấp, địa bàn khó khăn, hợp đồng ngắn hạn và công việc bấp bênh không thu hút được người lao động là 37% .Ngoài ra, một bộ phận DN(55,32%) tổng số DN có ý kiến chất lượng lao động trên thị trường lao động các địa phương chưa đáp ứng yêu cầu tuyển dụng của DN, thủ tục tuyển dụng lao động vào làm việc tại các DN có vốn ĐTNN còn phức tạp(19,15% tổng số DN có ý kiến) thủ tục cấp giấy cho người lao động vào làm việc tại Việt Nam chưa nhanh chóng .
Đánh giá của DN về lao động được tuyển dụng.
Theo đánh giá của người sử dụng lao động các DN có vốn ĐTNN thì việc tuyển dụng lao động vào làm việc tại các DN này được thực hiện khá khắt khe, nên 93,53% tổng số lao động đang sử dụng đáp ứng được yêu cầu công việc của DN. Số còn lại 6,47% gồm 1437 người của 110 DN, chưa đáp ứng được yêu cầu công việc do các nguyên nhân khác nhau. Trong số đó nguyên nhân do trình độ chuyên môn yếu chiếm tỷ lệ 47,46% do tác phong lao động 46,63% ;các lý do khác là 7,93% .Rõ ràng là trong tuyển dụng lao động, các DN có vốn ĐTNN không những chú trọng đến trình độ chuyên môn mà còn đến các phẩm chất khác của người lao động đẻe từ đó mà họ quản lý được tốt nguồn lao động.
Phương pháp đào tạo và phát triển nguồn nhân lực trong các DN có vốn ĐTNN
Theo hình thức tuyển dụng lao động của các DN có vốn ĐTNN thì chủ yếu là họ tuyển lấy những người lao động vào làm việc tại các DN của họ, do vậy mà họ chưa hiểu được tay nghề, trình độ của người lao động như thế nào, mặt khác là người lao động cũng bỡ ngỡ với công việc do chưa tìm hiểu xem công việc đó là công việc gì ,đòi hỏi trình độ gì và nó có phù hợp với mình không. Một thực tế đáng lo ngại tình hình hiện nay là các DN có vốn ĐTNN nhận những người lao động vào DN sau đó đào tạo họ : Đây là một hình thức đào tạo có thể đáp ứng ngay công việc nhưng mà rất khó thực hiện được, bởi vì do trình độ máy móc công nghệ của các DN có vốn ĐTNN cao mà phải học lý thuyết sau đó thực hành .ở đây có thể là học cử đi học hoặc đào tạo ngay tại xí nghiệp , có DN còn đưa sang nước ngoài để học , có thể đây là phương pháp tốt giúp cho chúng ta tiếp thu nhanh những tiến bộ của thế giới như thée thì việc tuyển dụng những người để đi học phải chặt chẽ, kỹ lưỡng .Các DN phải có chiến lược phát triển NNL để họ có thể đáp ứng được yêu cầu của trình độ phát triển ngày một cao .
Hiện nay các DN tuyển người vào phải tự đào tạo lấy, nguyên nhân là do chúng ta chưa có những người lao động có tay nghề, trình độ đáp ứng được yêu cầu của sự phát triển của DN này, do công tác đào tạo nghề của ta quá kém, chưa phù hợp với sự phát triển chậm đổi mới chơ nên không nắm bắt kịp các ngành nghề mới do vậy mà khi có các DN có vốn ĐTNN ra đời và đi vào hoạt động thì chúng ta không có đủ NNL cung cấp cho họ để phát triển.
Việc các DN có vốn ĐTNN đào tạo NNL, để phục vụ cho sự phát triển của DN mình, phù hợp ngành nghề mình là điều tốt nhuwg mà phải có một trình tự mà người học phải được học lý thuyết sau đó rồi thực hành để đảm bảo được quy trình sản xuất không bị gián đoạn.
Tạo động lực cho người lao động thông qua tiền lương.
Trong lĩnh vực tiền lương, chính phủ đã 44 lần thay đổi mức lương tối thiểu cho phù hợp . Từ 1-7-1999 Bộ lao động - Thương binh - Xã hội đã có quyết định áp dụng trả lương bằng đồng Việt Nam với 3 mức 487000-556000-626000 đồng/tháng .Tuỳ theo vùng lãnh thổ chính phủ cũng đã có nghị định 197/CP ngày 31-12-1994 và Bộ lao động- Thương binh -Xã hội có thông tư 11/LĐTBXH ngày 3-5-1995 quản lý tiền lương đối với DN có vốn ĐTNN.
Thực tế cho thấy một số DN đã chấp hành pháp luật Việt Nam thực hiện đúng những quy định và hướng dẫn của chính phủ và của BLĐ-TBXH .Tuy nhiên vẫn còn nhiều DN chưa thực hiện đúng ,gây ra tranh chấp về lao động, không kích thích con người làm việc hăng say và nhiệt tình do vậy mà năng suất lao động thấp .Tăng lương là một hình thức kích thích , tạo động lực mạnh nhất đối với người lao động ,nó gắn trực tiếp đến lợi ích của người lao động. Trên thực tế qua kiểm tra thì thấy có một số công nhân vẫn chỉ được trả lương bằng lương tối thiểu là 35 USD vậy là không kích thích được người lao động. Điều đáng nói là các cơ quan địa phương như Sở LĐTBXH - liên đoàn lao động tỉnh khó có thể biết được chính xác thực tế thu nhập, tiền lương , định mức lao động của các DN đó vì họ không báo cáo hoặc ít báo cáo .
Công tác hướng dẫn , tuyên truyền giáo dục ý thức pháp luật cho người lao động và người sử dụng lao động hiểu chính sách, thực hiện chính sách của nhà nước về tiền lương và thu nhập trong DN có vốn ĐTNN bị buông lỏng, các cơ quan quản lý nhà nước chưa phối hợp chặt chẽ với nhau trong việc hướng dẫn kiểm tra để DN thực hiện đúng các quy định của nhà nước .Việc xử lý vi phạm ở một số doanh nghiệp chưa nghiêm, vai trò của tổ chức công đoàn trong việc bảo vệ quyền lợi chính đáng của người lao động còn hạn chế ,ở niều DN còn bị giới chủ thao túng, lợi dụng do vậy mà nó không kích thích ngươi lao động, năng suất lao động giảm có thể dẫn đến những tranh chấp lao động xảy ra.
Vấn đề an toàn- vệ sinh lao động
An toàn và sức khoẻ của người lao động .
Hiện nay trong cả nước có 54 khu công nghiệp .Nhà nước khuyến khích DN Việt Nam thuộc các thành phần kinh tế, các tổ chức cá nhân và DN có vốn ĐTNN đầu tư vào các khu công nghiệp .Tuy nhiên các DN có vốn ĐTNN chiếm một tỷ lệ cao trong khu vực này . Nhiều khu công nghiệp có từ 90-100% DN có vốn ĐTNN như KCN Sài Đồng(Hà Nội); khu chế xuất Linh Trung(TPHCM) ;KCN AMATA (Đồng Nai)... Các DN trong KCN chủ yếu đầu tư vào lĩnh vực gia công, lắp ráp và sản xuất các sản phẩm công nghiệp để xuất khẩu và tiêu thụ tại thị trường trong nước với các mặt hàng chủ yếu là hàng may mặc xuất khẩu, lắp ráp điện tử. Các DN đã thu hút một lực lượng lao động đáng kể, đặc biệt là lao động nữ. Do được xây dựng biệt lập với khu dân cư và có những lợi thế về cơ sở ban đầu cũng như vốn đầu tư Nhà nước mà nhiều DN có điều kiện để xây dựng cơ sở sản xuất ,thiết kế nhà xưởng theo đúng tiêu chuẩn về an toàn- vệ sinh lao động. Nhìn chung người lao động làm việc ở các DN có vốn ĐTNN tại các khu chế xuất, KCN được hưởng điều kiện lao động thuận lợi tiện nghi hơn do những dây truyền công nghệ được cơ giới hoá, tự động hoá, làm giảm bớt các công việc thủ công, các yếu tố nguy hiểm độc hại; môi trường làm việc cũng được cải thiện, ít ô nhiễm và khang trang sạch sẽ hơn . Nhiều nhà ĐTNN đã áp dụng những kinh nghiệm tốt trong quản lý lao động, đặc biệt là bảo đảm vệ sinh và an toàn cho người lao động. Trong các khu công nghiệp người sử dụng lao động trong nhiều DN đã nhận thức đúng được mối quan hệ giữa cải thiện điều kiện lao động và năng suất lao động, cũng như sự khang trang và bề thế của nhà máy là lời bảo đảm uy tín, chất lượng hàng hoá của DN mình đối với bạn hàng.
Mặc dù vậy , trong KCN này người lao động đang phải đối đầu với cường độ làm việc căng thẳng, gánh nặng tâm lý, làm việc trong dây truyền công nghệ mới với tư thế không phù hợp. Qua tìm hiểu vấn đề an toàn và sức khoẻ của người lao động trong DN có vốn ĐTNN tại các KCN, nhất là các DN lắp ráp điện tử, may mặc, dầy da, chế biến nông sản và hải sản ta thấy rằng: khi làm việc người lao động phải thực hiện những thao tác đơn điệu đòi hỏi phải tập trung cao độ các giác quan để hoàn thành nhanh chóng các nhiệm vụ của mình trong dây truyền. Họ gần như phụ thuộc hoàn toàn vào nhịp độ dây truyền công nghệ khép kín, có công đoạn phải đứng suốt một ca. Chính vì vậy, mà người lao động trụ lại được ở DN thường là người có sức khoẻ dẻo dai, tác phong nhanh nhẹn. Có không ít trường hợp người lao động đã ngất tại nơi làm việc do chưa quen và quá mệt mỏi, căng thẳng. Số liệu điều tra về sức khoẻ của một số người lao động làm trong dây truyền lắp ráp cho thấy nhịp điệu thao tác tăng lên 1,84 lần ; mức độ run, mệt mỏi của tay tăng lên 1,2 lần, mức độ mệt mỏi qua nhịp đập của tim tăng 1,22 lần(3,9/3,2) so với người làm việc ngoài dây truyền .Kết quả điều tra cũng chỉ ra rằng chỉ số thần kinh tâm lý thị giác sau lao động giảm hơn hẳn trước khi lao động. Về công nghệ, do khâu quản lý nhập khẩu chưa chặt chẽ dẫn đến việc nhập các thiết bị may móc cũ , lạc hậu, nhiều dây truyền từ những năm 60 đã hết hạn sử dụng, gây ô nhiễm môi trường và ảnh hưởng xấu đến sức khoẻ của người lao động .Ngoài ra, công nghệ mới cũng xuất hiện những bất lợi, độc hại mới, người lao động phải làm việc ở nhiều vị trí có tư thế không hợp lý, gây sự mệt mỏi tâm lý .Kết quả điều tra 106 lao động kỹ thuật cao trong ngành nhiệt điện, xi măng ,truyền tải phân phối điện cho thấy : các trung tâm điều khiển đều được lắp đặt theo thiết kế nước ngoài, nên chỉ phù hợp với 65% người lao động Việt Nam .Khi người Việt Nam làm trên dây truyền công nghệ này họ phải chịu đựng căng thẳng hơn. Theo số liệu của viện y học lao đông, thì chỉ có 13% lao động Việt Nam phù hợp với máy của Đức, 34% phù hợp với máy của Pháp- ý và 65% phù hợp với máy của Nhật. Khảo sát điều kiện làm việc của một số lao động trong các DN có vốn ĐTNN của trung tâm vệ sinh phòng dịch Hà Nội cho thấy có đến 71% thời gian trong ca, người lao động phải làm việc trong tư thế không phù hợp, như ngồi xổm, quỳ gối, khom lưng, ngồi trên ghế gỗ không có cần điều khiển cao thấp cho phù hợp với chỉ tiêu nhân trắc. Đặc biệt ở phân xưởng chân không đèn hình (Orion-Hanel), công nhân phải đứng suất ca, tay nhấc bóng đèn hình(trọng lượng 6-7 kg) từ 800 đến 1000 lần trong một ca. Do phải chịu sự thay đổi lớn về tâm sinh lý, cộng với tư thế lao động bất lợi, người lao động làm việc trên dây truyền công nghệ mới thường mắc các bệnh nghề nghiệp như rối lọan cơ xương và một số loại bệnh khác.
Cho đến nay chưa có số liệu tổng hợp về bệnh nghề nghiệp trong các KCN ,khu chế xuất vì phần lớn các DN sử dụng lực lượng lao động trẻ, với thâm niên nghề nghiệp chưa lâu. Nhưng nhìn chung sức khoẻ người lao động bị giảm sút và và một số người lao động đã phải bỏ việc. Kết quả khám sức khoẻ trong một số DN cho thấy những biểu hiện lâm sàng tim mạch của người lao động trong các DN này cũng khá cao mà nguyên nhân có thể do quá căng thẳng về thời gian và tâm lý.
Việc tuân thủ luật lao động liên quan đến vấn đề an toàn và sức khoẻ người lao động trong các KCN còn nhiều hạn chế. Nhiều DN đã không khai báo đăng ký xin giấy phép sử dụng một số thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn vệ sinh lao động, cải thiện điều kiện làm việc và khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động. Điều này có thể rõ ở các DN tại KCN Biên Hoà hoặc Sài Đồng. Các công ty này chỉ biết các thông tư dưới luật liên quan đến việc khai báo, đăng ký và xin cấp giấy phép các thiết bị có yêu cầu nghiêm ngặt về an toàn sau khi làm việc với thanh tra lao động. Mặc dù quy chế 36/CP ngày 24-4-1997 về KCN, Khu chế xuất, KCN cao ,yêu cầu các DN trong khu vực này phải tuân thủ các quy định của bộ luật lao động về bảo đảm an toàn vệ sinh lao động, vệ sinh công nghiệp và quan hệ lao động nhưng do cơ chế phối hợp hoạt động giữa các ban quản lý KCN và cơ quan lao động địa phượng còn chưa hoàn thiện nên với nhiều lý do, chủ sử dụng lao động không những không thực hiện nghiêm chỉnh mà còn gây khó khăn hoặc cố tình ngăn cản các hoạt động thanh tra, kiểm tra của các cơ quan nhà nước, vì vậy nhiều tồn tại trong công tác an toàn vệ sinh lao động trong các DN này chưa được phát hiện và xử lý kịp thời.
Thực hiện pháp luật về an toàn vệ sinh lao động trong các DN có vốn ĐTNN ở các tỉnh phía Bắc .
Một hệ thống an toàn vệ sinh lao động hữu hiệu,điều kiện làm việc thuận lợi la nhu cầu, quyền lợi chính đáng, đầy tính nhân văn, nhân đạo cho mỗi người lao động tham gia vào quá trình lao động xã hội.
Đó là nhân tố bảo toàn sức khoẻ, khả năng sáng tạo của người lao động cái quý nhất của mỗi con người, cũng như bảo toàn sức lao động xã hội để không ngừng tăng năng suất lao động và phát triển lực lượng sản xuất. Tuy nhiên vấn đề an toàn vệ sinh lao động hầu như đối với mỗi quốc gia, ở mọi thời điểm luôn mang tính bức xúc bởi nó liên quan đến toàn bộ hệ thống các khâu sản xuât, hạch toán kinh tế, thành tựu khoa học, công nghệ sản xuất và an toàn vệ sinh lao động.
An toàn vệ sinh lao động trong các DN có vốn ĐTNN các tỉnh phía Bắc có một đặc trưng riêng về kỹ thuật, công nghệ, quản lý của sản xuất- kinh doanh quan hệ xã hội DN, môi trường áp dụng pháp luật.
Tại thời điểm quý IV năm 1998, các DN ĐTNN các tỉnh phía Bắc có 26,3% tổng số lao động đang phải làm việc trong điều kiện không thuận lợi, bao gồm các yếu tố tải trọng thể lực cao, nguy hiểm, độc hại, chật trội, tổ chức và phục vụ nơi làm việc không phù hợp với nhân trắc học, tính đơn điệu cao của chỗ làm việc.. Tỷ lệ này cao hơn mức bình quân chung là trong ngành công nghiệp nặng với 44,3% tổng số lao động; xây dựng 64,3% tổng số lao động, chủ yếu thuộc DN có vốn ĐTNN của Đài Loan, Nhật Bản và các nước Châu Mỹ và thấp trong DN Hàn Quốc 8,1% .Tại một bộ phận DN, hệ thống kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động, bao gồm các phương tiện kỹ thuật và thao tác làm việc bảo đảm an toàn cho người lao động chưa được trang bị đầy đủ, các biện pháp khoa học kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động chưa được gắn liền đầy đủ với các quy trình kỹ thuật-công nghệ sản xuất kinh doanh, số lao động làm việc trong vùng hệ thống kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động không bảo đảm và chưa được trang bị đầy đủ (bình quân của các DN là 12,9% tổng số lao động). Về trang bị phòng hộ cá nhân hiện nay còn có 7,89% tổng số lao động chưa được cung cấp đầy đủ(giầy,khẩu trang, quần áo bảo hộ, mũ ,găng tay..) đó là chưa xét đến chất lượng chủng loại được cung cấp , chủ yếu xảy ra ở các DN Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore. Qua đó ta thấy việc tổ chức phục vụ nơi làm việc cho người lao động chưa có một hệ thống chặt chẽ, chưa chăm lo đến sức khoẻ và tính mạng của người lao động, vấn đề an toàn vệ sinh lao động chưa được các DN có vốn ĐTNN quan tâm chú ý. Tuy nhiên cũng thấy rằng, trong các DN có vốn ĐTNN các nước Châu Mỹ 100% lao động được trang bị đầy đủ phòng hộ lao động. Đồng thời ,bộ phận khá lớn không được huấn luyện an toàn vệ sinh lao động ,do đó những lao động này thường tiến hành những công việc, thao tác một cách tuỳ tiện ,coi thường nguy cơ an toàn vệ sinh lao động. Bên cạnh đó, một bộ phận laođộng được tuyển vào (đặc biệt là lao động nông thôn) chưa quen với lối sản xuất và văn minh công nghiệp, ý thức chấp hành quy trình công nghệ, quy trình kỹ thuật an toàn vệ sinh lao động thấp làm cho chủ sử dụng lao động một số DN ngán ngẩm. Công tác an toàn về sinh lao động trong các DN ĐTNN chưa hoàn chỉnh do các DN chưa cử người làm công tác giám sát an toàn về sinh lao động cho nên việc xây dựng kế hoạch, chương trình, biện pháp an toàn vệ sinh lao sinh lao động ,cải thiện điều kiện lao động chưa được thực hiện tốt trong các DN này. Chỉ có 4% tổng số DN ngành công nghiệp nặng là có thực hiện một số DN mới chỉ chú trọng về cung cấp trang bị phòng hộ lao động mà chưa có biện pháp toàn diện về bảo đảm an toàn vệ sinh lao động hiện tại và lâu dài cho người lao động. Chính vì vậy khi có đổi mới các khâu công nghệ, máy móc ,thiết bị, vật tư sản xuất chưa tiến hành việc xây dựng nôi quy, quy trình an toàn vệ sinh lao động để phổ biến ,huấn luyện kịp thời cho người lao động.Trong thực hiện về pháp luật lao động về an toàn vệ sinh lao động còn thấy sự vi phạm khá phổ biến của chủ sử dụng lao động về khám sức khoẻ định kỳ cho người lao động. Bình quân chung các DN mới chỉ có 64,7% tổng số lao động được khám sức khoẻ định kỳ chủ yếu là các DN ĐTNN ở các địa phương như là Quảng Ninh, Hải Dương ... Nguyên nhân chủ yếu của vi phạm này là do tính toán lợi ích kinh tế của chủ sử dụng lao đông, một phần do dịch vụ không thuận lợi cho một số DN ĐTNN ở địa bàn khó khăn.
Trong các DN ĐTNN các quy định về điều kiện lao động cho lao động nữ chưa được thực hiện tốt, trên tổng thể còn có 33% tổng số lao động nữ làm việc trong các DN không có nhà tắm, 11,7% không có nhà vệ sinh ;25,1% không có nơi thay quần áo gây khó khăn cho sinh hoạt lao động nữ. Luật lao động về an toàn vệ sinh lao động cần phải có biện pháp khắc phục cải thiện để tạo điều kiện làm việc tốt hơn cho người lao động và các DN sẽ quản lý được tốt hơn nguồn nhân lực trong DN của mình tránh được những tình huống xấu xảy ra.
Quan hệ lao động, tranh chấp lao động, nguyên nhân dẫn đến tranh chấp lao động(quan hệ lao động, tranh chấp lao động), trong các DN ĐTNN
Theo báo cáo chưa đầy đủ của TAND tối cao, trong ba năm thi hành Bộ luật lao động và hơn hai năm thi hành pháp lệnh thủ tục hoà giải các vụ tranh chấp lao động .Hệ thống toà lao động của TAND các cấp đã tiếp nhận 1300 đơn thư khiếu nại về TCLĐ từ các DN có vốn ĐTNN trong tổng số gần 2000 đơn gửi đến toà án, đã thụ lý 192/437 vụ việc, hoà giải thành 134/308 vụ, thụ lý và đưa ra xét xử 58/129 vụ .Một số DN có vốn ĐTNN chưa chấp hành đầy đủ pháp luật lao động .
Để TCLĐ, xảy ra thường xuyên, kéo dài và đôi khi rất gay gắt thường gặp là chủ DN đối xử thô bạo đối với người lao động, lăng nhục về tinh thần; đơn phương chấm dứt hợp đồng lao động ,vi phạm về an toàn lao động ,một số chủ DN đòi bồi thường phí đào tạo .Những tranh chấp nêu trên tuy chưa nhiều, chưa tập hợp được đầy đủ, xong ở địa phương ngành nghề nào cũng xảy ra đã gây ảnh hưởng đến năng suất lao động, chất lượng sản phẩm và đời sống người lao động. Mâu thuẫn giữa người lao động với người sử dụng lao động đôi khi rất gay gắt và dẫn đến đình công .Trong lao động sản xuất và phân phối thành quả lao động, việc phát sinh mâu thuẫn dẫn đến TCLĐ, điều khó tránh khỏi ở bất kỳ quốc gia nào .Song việc phấn đấu để giảm đến mức thấp nhất các TCLĐ, nhất là các vụ việc không đáng để xảy ra nhằm tạo lập mối quan hệ hài hoà giữa người lao động và người sử dụng lao động là một ý tưởng tốt đẹp và phải trở thành mục tiêu phấn đấu chung.
Như vậy là vấn đề quản lý tố NNL trong các DN là một việc làm rất khó khăn và phức tạp .Những chủ đề qủan lý con người-người trong tổ chức - đã thay đổi về rất nhiều măt,người ta có học vấn tốt hơn và chuẩn bị công việc của họ tốt hơn, nhận thức rõ về quyền lợi của họ , công ăn việc làm và nguyện vộng về đời sống của họ tăng lên. Đặc biệt là quản lý con người liên quan đến đặc điểm văn hoá do vậy mà các DN có vốn ĐTNN muốn kinh doanh thành công thì cần phải hiểu rõ luật pháp ,truyền thống văn hoá của Việt Nam .
Một số tồn tại trong công tác quản lý nguồn nhân lực tại các DN có ĐTNN và nguyên nhân .
Trước tiên vấn đề tuyển dụng lao động trong các doah nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài đang là một vấn đề bức xúc nhất để tìm ra được một đội ngũ có đủ trình độ đáp ứng công việc của DN, các DN đã tự mình tuyển lao động như vậy thì họ khó hiểu được trình độ của người lao động cho nên sẽ khó đáp ứng được yêu cầu về chất lượng sản phẩm.
Nguyên nhân chủ yếu là do công tác dạy nghề của ta bị mất phương hướng ,lúng túng phó mặc cho thị trường cho nên chúng ta thiếu hẳn những công nhân có trình tay nghề cao vì vậy mà khi các DN này đầu tư vào phát triển thì nguồn nhân lực chưa đáp ứng được thì họ sẽ phải tìm ra biện pháp khắc phục có thể là đưa người nước ngoài có trình độ sang làm việc hoặc là tuyển những công nhân vào sau đó đào tạo và hướng dẫn họ trong quá trình lao động.
Cơ quan quản lý dạy nghề chưa thống nhất , các chính sách chưa thống nhất , thiếu tính chặt chẽ ,hấp dẫn ,gây tác động không nhỏ tới hiệu quả sản xuất kinh doanh .Đối với việc đào tạo và phát triển nguồn nhân lực đây thực sự là một bài toán khó giải quyết đối với nhà đầu tư . Mặc dù NNL của ta khá dồi dào, lực lượng lao động trẻ có thể đáp ứng được kịp thời, nhưng mà chất lượng đối với yêu cầu của các DN thì chưa đáp ứng được do vậy mà một số DN đã tìm ra phương pháp mới cho mình là tuyển lao động vào, sau đó đào tạo họ như vậy thì người lao động sẽ nắm bắt nghề một cách vững vàng và học một cách nhanh chóng công việc nhưng mà họ lại không nắm rõ được quy trình sản xuất từ đầu nếu như không được học lý thuyết .
Nguyên nhân chủ yếu là do chiến lược phát triển NNL của ta chưa thống nhất, đồng bộ hơn nữa là chúng ta mới hội nhập nền kinh tế do vậy mà việc đào tạo có thể là chưa thật sự đúng nghề so với các DNĐTNN cần tuyển, hơn nữa việc đào tạo của ta lại chưa được sâu, phù hợp sự phát triển ngành nghề của sự phát triển, ngành nghề mới .Vấn đề tạo động lực để khuyến khích người lao động đây là một việc tế nhị, nhạy cảm nhưng mà lại gặp nhiều khó khăn và tồn tại trong các DN nguyên nhân là do sự phát triển của ta còn thấp , chưa có sự khuyến khích người lao động kịp thời.
Đối với an toàn vệ sinh lao động là một tồn tại không nhỏ :
cường độ làm việc căng thẳng và những bất lợi do sự không quản lý chặt từ đầu quá trình lao động ,chuyển giao công nghệ có thể dẫn đến nguy cơ người lao động phải rời khỏi dây chuyền sản xuất xớm hơn nhiều so với tuổi về hưu theo quy định của luật pháp .Do xu hướng muốn tăng năng suất lao động, tăng sức cạnh tranh , những người sử dụng lao động liên tục thay đổi công nghệ , sử dụng lực lượng lao động trể hơn, đối tượng dễ chấp nhận tiền lương thấp và có khả năng đáp ứng những đòi hỏi của dây nghệ được dùng như là một cớ cho việc giảm biên chế . Thay cho việc đào tào lại để sử dụng công nghệ mới. Những người phụ nữ ở độ tuổi gần 40 mà phần lớn chỉ ở trình độ lớp sáu phổ thông bị thay thế .Nguy cơ này cũng đang xảy ra với chúng ta ,ví dụ như ở DN đèn hình orion-Hanel do tính chất công việc các thao tác của người lao động ở độ tuổi trên 35 đã không thể tiếp tục làm việc. đây thực sự là một thách thức lớn đối với người lao động, người sử dụng lao động và các nhà hoạch định chính sách trước việc giải quyết một khả năng có thể xảy ra đó là số tuổi trên 35 của người lao động mà phần đông là lao động nữ có thể nghể trước tuổi hoặc phải rời khỏi dây truyền sản xuất, xuất hiện một số bệnh : bệnh nghề nghiệp.
Nguyên nhân chính là do công nghệ mới đòi hỏi người lao động phải có đầy đủ sức khoẻ và trình độ để đáp ứng được yêu cầu của công việc ; mặt khác do công tác tổ chức phục vụ nơi làm việc và vấn đề an toàn vệ sinh lao động trong các DN ĐTNN chưa được quan tâm ,chú ý cho nên là đã ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động , hệ thống y tế chưa phát triển tốt, phục vụ kém đã làm cho người ta không đủ sức lực để làm việc với cường độ cao trong các DN này từ đó mà mà họ phải nghỉ sớm ,bỏ DN .Nguyên nhân của bệnh nghề nghiệp là phát sinh ở người lao động chủ yếu là người sử dụng lao động chưa chú ý đúng mức thực hiện các biện pháp vệ sinh công nghiệp , bảo đảm tiêu chuẩn giới hạn cho phép các yếu tố môi trường lao động (chất độc hại, từ trường, bụi, bức xạ, tư thế làm việc...) phù hợp với khả nă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 274.doc