Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức

MỤC LỤC

Mở đầu 1

Chương 1: Cơ sở lý luận 2

1.1. Hành chính và cải cách hành chính 2

1.1.1 Khái niệm về hành chính 2

1.1.2 Tính tất yếu của việc cải cách hành chính 2

1.2. Cán bộ, công chức 7

1.2.1. Các khái niệm cơ bản 7

1.2.2. Phân loại cán bộ, công chức 10

1.3 Tính tất yếu khách quan của việc xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức 11

1.3.1 Vị trí vai trò của cán bộ, công chức 11

1.3.2 Sự cần thiết phải xây dựng, nâng cao chất lượng cán bộ, công chức. 12

1.3.3 Những khó khăn và thách thức 16

1.3.4 Những yêu cầu về chất lượng cán bộ, công chức trong công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam 18

Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước 24

2.1 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay 24

2.1.1 Thực trạng qua các số liệu thống kê. 24

2.1.2 Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. 25

2.2 Một số kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước trên thế giới 28

2.2.1 Kinh nghiệm về tiền lương 28

2.2.2 Kinh nghiệm về các biện pháp khuyến khích 31

2.2.3 Bài học rút ra cho Việt Nam 33

Chương 3: Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức 35

3.1 Đổi mới nâng cao chất lượng đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. 35

3.2.1. Đổi mới phương thức hành chính điều hành của hệ thống hành chính nhà nước 37

Kết luận 38

Tài liệu tham khảo 39

 

doc40 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4510 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g đồng như vệ sinh môi trường, tham gia giữ gìn trật tự trị an xóm, phường . . . Xúc tiến nhanh và có hiệu quả việc hiện đại hóa công tác hành chính, dặc biệt là ứng dụng công nghệ thông tin. Kiện toàn bộ máy và tinh giản biên chế một cách cơ bản. Có chính sách giải quyết thỏa đáng số người dôi ra. Thứ ba, Nâng cao phẩm chất, năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức. Đẩy mạnh đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức với chơng trình, nội dung sát hợp; chú trọng đội ngũ cán bộ xã, phường. Đổi mới và đa vào nền nếp việc thực hiện quy chế tuyển chọn, đề bạt, khen thởng, kỷ luật, nghỉ hưu. Thực hiện nguyên tắc người phụ trách công việc có quyền hạn và trách nhiệm trong việc tuyển chọn, sử dụng cán bộ, công chức dưới quyền. Thanh lọc những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm; chuyển đổi công tác những người không đủ năng lực. Thực hiện tốt quy chế dân chủ, mở rộng dân chủ trực tiếp ở cơ sở, bảođảm cho dân tiếp xúc dễ dàng các cơ quan công quyền, có điều kiện kiểm tra cán bộ, công chức, nhất là những người trực tiếp làm việc với dân.Thứ tư, ngăn chặn và đẩy lùi tham nhũng, quan liêu. Nghiêm trị những kẻ tham nhũng, vô trách nhiệm gây hậu quả nghiêm trọng; người lãnh đạo cơ quan để xảy ra tham nhũng cũng phải bị xử lý về trách nhiệm. Bảo vệ những người kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng; khen thởng người phát hiện đúng những vụ tham nhũng. Thực hiện các biện pháp ngăn chặn tham nhũng, quan liêu: + Đổi mới và hoàn thiện thể chế, thủ tục hành chính, kiên quyết chống tệ cửa quyền, sách nhiễu, “xin - cho" và sự lắc trách, vô kỷ luật trong công việc Thực hiện nghiêm những điều cấm đối với cán bộ, công chức đã quy định trong pháp luật. + Tăng cường quản lý, kiểm tra, ngăn chặn lãng phí, tham nhũng tiền và tài sản công, nhất là trong khu vực doanh nghiệp nhà nước. + Thực hiện quy chế dân chủ và công khai tài chính ở cơ sở và các cấp chính quyền; thực hiện chế độ kê khai tài sản đối với cán bộ lãnh đạo các cấp, các ngành. Phát huy vai trò của các đoàn thể nhân dân và phương tiện thông tin đại chúng. + Cải cách tiền lương đi đôi với tăng cường giáo dục và kiểm tra việc thực hiện công vụ của cán bộ, công chức Nâng cao chất lượng của đội ngũ cán bộ, công chức, nhất là đội ngũ công chức hành chính là một nội dung quan trọng của cải cách nền hành chính nhà nước. Việc xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ công chức không chỉ nhằm đáp ứng yêu cầu, đòi hỏi bức xúc nội tại của nguồn nhân lực nhà nước, mà còn là nhân tố có tính quyết định trong việc thực hiện chương trình tổng thể cải cách nền hành chính nhà nước. Các mục tiêu, phương hướng, giải pháp xây dựng, phát triển đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như các kết quả đạt được phải đảm bảo tính đồng bộ và phù hợp với mục tiêu chung của cải cách nền hành chính, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ mới của đất nước. Đất nước ta đã thoát khỏi chiến tranh hơn 30 năm, nhưng các thế lực thù địch, chống phá vẫn còn rất nhiều, chúng vẫn đang thực hiện âm mưu "diễn biến hòa bình" nhằm thủ tiêu vai trò lãnh đạo của Đảng, làm tha hóa, biến chất đội ngũ cán bộ, từ đó thực hiện mưu đồ chuyển hóa chính trị, xóa bỏ chủ nghĩa xã hội ở nước ta. Chúng muốn lợi dụng sự đổi mới, sự chuyển tiếp giữa các thế hệ cán bộ của ta, thông qua các quan hệ kinh tế, văn hóa, ngoại giao,.. để làm đội ngũ cán bộ của ta "tự diễn biến" đi lệch quỹ đạo của chủ nghĩa xã hội. Trong bối cảnh đó đòi hỏi cán phải xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong sạch, vững mạnh, có tinh thần yêu nước, sâu sắc, kiên định mục tiêu độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội. 1.3.3 Những khó khăn và thách thức. - Những vấn đề có tính lý luận trong việc tổ chức bộ máy nhà nước và xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức vẫn chưa được làm rõ. - Tình trạng thấp kém của nền kinh tế và ngân sách nhà nước còn rất hạn hẹp. Đây là thách thức lớn nhất của đối với việc xây dựng và phát triển đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay.Tình trạng kém phát triển kinh tế của đất nước là nguồn gốc và là cơ sở cho việc duy trì tình trạng bảo thủ, trì trệ, kém năng động, thiếu tinh thần hợp tác trong công việc, chính những điều đó là những nhân tố ảnh hưởng không nhỏ tới việc xây dựng, quản lý, phát triển và nâng cao chất lượng cán bộ, công chức. Trình độ thấp kém về năng xuất lao động xã hội và chậm phát triển của nền kinh tế không cho phép có một ngân sách, tài chính dồi dào để có thể thực hiện triệt để các biện pháp như: tăng mức tiền lương để có thể đáp ứng được những nhu cầu cơ bản, giảm biên chế, đào tạo lại, tuyển mới để nhanh chóng đổi mới đội ngũ cán bộ, công chức, cũng như thực hiện các chế độ đãi ngộ thỏa đáng hay việc dùng các biện pháp kinh tế để khuyến khích cán bộ, công chức nâng cao trình độ, tận tâm với công việc và thu hút nhân tài trong xã hội cho nền công vụ. Điều 8 Hiến pháp nước cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992 quy định: " Các cơ quan nhà nước, cán bộ, viên chức nhà nước phải tôn trọng nhân dân, tận tụy phục vụ nhân dân, liên hệ chặt chẽ với nhân dân, lắng nghe ý kiến và chịu sự giám sát của nhân dân; kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng, lãng phí và mọi biểu hiện quan liêu, hách dịch, cửa quyền". Điều 2 pháp lệnh cán bộ công chức sửa đổi bổ sung năm 2003 quy định: " Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân, chịu sự giám sát của nhân dân, phải không ngừng rèn luyện phẩm chất đạo đức, học tập nâng cao trình độ và năng lực công tác để thực hiện tết nhiệm vụ, công vụ được giao". Trong khi đó Cán bộ, công chức không được hưởng bất cứ một đặc quyền, đặc lợi nào. Để tạo điều kiện tết nhất cho cán bộ làm việc và cống hiến, chúng ta thường có những chính sách ưu đãi nhất định với cán bộ, song những chính sách này phần lớn do những người đứng đầu cơ quan, đơn vị hay đội ngũ cán bộ chủ chốt đề ra, cho nên trong thực tế chính sách đối với cán bộ thường bị lợi dụng để biến cán bộ từ " công bộc", “đầy tớ” trung thành của nhân dân trở thành "ông chủ” của nhân dân, thành những người được hưởng những đặc quyền, đặc lợi hợp pháp. Vì vậy nhiều người mơ ước được làm cán bộ, công chức không phải để công hiến mà vì lợi ích cá nhân. Hơn nữa, nền kinh tế đang trong quá trình chuyển đổi sang nền kinh tế thị trường, hội nhập kinh tế quốc tế, những yếu tố mới của thị trường đang hình thành và biến đổi nhanh chóng, đòi hỏi người cán bộ, công chức phải thích ứng được. Đây là đòi hỏi không dễ có thể thỏa mãn được, nhất là trong điều kiện vẫn còn tồn tại nhiều tàn dư của tư tưởng cũ thời kỳ bao cấp. - Sự thách thức do chuyển đổi cơ chế, sự tồn tại dai dẳng những thói quen của cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những thói quen đó đã ăn sâu vào nếp nghĩ, phong cách làm việc của cán bộ, công chức, nhất là những bộ phận công chức có lợi ích gắn liền với cơ chế đó, từ đó làm cho nền hành chính nói chung và việc xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức nói riêng khó thoát ra khỏi sự chi phối, ràng buộc của cơ chế cũ để phù hợp với cơ chế mới, đáp ứng được các yêu cáu của thời kỳ mới. Hơn nữa, chúng ta tiến hành cải cách hành chính, xây dựng đội ngũ cán bộ, công chức trong điều kiện thiếu kiến thức và kinh nghiệm quản lý, chưa có tiền lệ trong quản lý phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa; nhiều việc vừa làm, vừa học, vừa rút kinh nghiệm. Đó là một thách thức lớn trong việc xây dựng và nâng cao chất lượng cán bộ công chức trong điều kiện hiện nay. Sự cạnh tranh thu hút nhân tài của các khu vực kinh tế tư nhân và các công ty nước ngoài. Sự kiện ngày 7/1 1/2006 Việt Nam được gia nhập vào tổ chức thương mại quốc tế WTO, Sự kiện Việt Nam là nơi tổ chức cuộc họp của diễn đàn hợp tác kinh tế Châu á thái bình dương APEC từ ngày 13 đến 19/1 1/2006 và sự kiện tập đoàn Intel nâng vốn đầu tư vào nhà máy sản xuất Chíp máy tính tại khu công nghiệp kỹ thuật cao thành phố Hồ Chí Minh lên 1 tỷ USD. Với những sự kiện tiêu biểu trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam năm 2006 đã cho thấy Việt Nam là một điểm đến của các nhà đầu tư trong tương lai. Khi đầu tư nước ngoài vào Việt Nam được mở rộng thì số người làm việc trong các dự án, các cơ sở liên doanh, hoặc các xí nghiệp nước ngoài tăng lên đã tạo ra một đội ngũ làm công ăn lương mới có trình độ, phong cách mới và có điều kiện, mức thu nhập cao hơn nhiều so với khu vực hành chính. Năm 1999 nhà nước đã quy định mức lương tối thiểu từ 487.000 đồng/tháng đến 626.000 đồng/tháng áp dụng đối với các doanh nghiệp hoạt động theo luật đầu tư nước ngoài, trong khi mức lương tối thiểu chung là 180.000 đồng/tháng và sau đó tăng lên 210.000 đồng/tháng rồi 290.000 đồng/tháng, từ tháng 10/2005 là 350.000 đồng/tháng2Nguồn : ngày 26/9/2005 . Trên thực tế, những chuyên gia, người lao động có trình độ cao làm việc trong các khu vực tư nhân và các khu vực có vốn đầu tư nước ngoài có mức thu nhập cao hơn nhiều so với cán bộ, công chức nhà nước. Từ chênh lệch về thu nhập, dẫn đến tình trạng " Chảy máu chất xám" của nguồn nhân lực khu vực nhà nước. 1.3.4 Những yêu cầu về chất lượng cán bộ, công chức trong công cuộc cải cách hành chính ở Việt Nam a. Các đặc trưng cơ bản của cán bộ, công chức Việt nam. Cán bộ, công chức là chủ thể của nền công vụ, lao động của họ là một dạng của lao động quyền lực, lao động thực thi pháp luật. Họ có quyền giải quyết mọi công việc theo đúng cương vị, quyền hạn theo luật định, đồng thời có nghĩa vụ thực thi mọi nhiệm vụ theo đúng chức trách được giao trong cơ quan, tổ chức nhà nước nhất định. Xét dưới góc độ xã hội -chính trị, người cán bộ, công chức nhà nước có vai trò to lớn trong việc thực hiện sứ mệnh lịch sử của nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân. Còn xét dưới góc độ xã hội - dân sự thì người cán bộ, công chức đảm nhận vai trò lao động sáng tạo trong một lĩnh vực lao động đặcthù là lao động quyền lực, khác với lao động sản xuất, kinh doanh và các dạng lao động xã hội khác, sản phẩm lao động của họ là các quyết định quản lý, các đạo luật, các bản án, . . .Quyền lực của nhà nước suy cho cùng cũng là quyền lực của nhân dân, vì quyền lực ấy do nhân dân tạo ra, nhân dân là nguồn cội của quyền lực nhà nước. Song bản chất nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân đòi hỏi rất cao ở sự thống nhất giữa hai phương diện ấy, cho nên người cán bộ, công chức nhà nước là " công bộc" của dân chứ không phải là "quan dân", "quan cách mạng" như chủ tịch Hồ Chí Minh đã khẳng định. Trong nhà nước pháp quyền, pháp luật trở thành sức mạnh quyền lực, pháp luật ngự trị trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội. Cán bộ, công chức là những người thực thi pháp luật, thực thi quyền lực của nhà nước do vậy họ phải là những người tinh thông, am hiểu pháp luật, thực hiện đúng pháp luật. Đồng thời qua quá trình thực tiễn thực thi pháp luật, chính họ là người sáng tạo pháp luật, là lực lượng tham muư đề xuất ý kiến để tạo nên một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh của nhà nước pháp quyền của dân, do dân, vì dân. Cán bộ, công chức là công bộc của nhân dân. Trong nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa của dân, do dân, vì dân, nhân dân là cội nguồn của quyền lực nhà nước, nhân dân là chủ thể tối cao và duy nhất của quyền lực nhà nước. Nhân dân là cái gốc của một xã hội, nhà nước ra đời để phục vụ cho lợi ích của một giai cấp( hoặc một nhóm người có chung lợi ích), nhưng để tồn tại được thì nhà nước đó phải hài hòa lợi ích của mọi người dân, tức là phục vụ nhân dân. Vai trò to lớn của nhân dân đã được bác Hồ khẳng định rất rõ qua câu nói của người: "dễ trăm lần không dân cũng chịu, khó vạn lần dân liệu cũng xong". Cán bộ, công chức là những người được dân giao quyền để thực thi công vụ, họ được hởng lơng từ ngân sách nhà nước, mà ngân sách nhà nước chính là do nhân dân đóng góp, vì vậy về mặtđạo lý và cả pháp lý phải có bổn phận phục vụ nhân dân, phải là công bộc của dân. - Cán bộ, công chức phải có đầy đủ chuẩn mực đạo đức của một nền công vụ chính qui hiện đại. Để thực hiện và hoàn thành tết công việc của mình và để thực sự trở thành công bộc của dân, cán bộ, công chức, ngoài tài năng và trình độ chuyên môn, nghiệp vụ cần phải có đầy đủ các chuẩn mực đạo đức " cần kiệm, liêm chính, chí công vô tư”. - Trung thành với Đảng, chính phủ, với tổ quốc và nhân dân. Trong bối cảnh mới của nền kinh tế đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải có bản lĩnh chính trị vững vàng, trung thành với Đảng, Chính phủ, Tổ quốc và nhân dân, phải có kiến thức và năng lực thực tiễn quản lý kinh tế xã hội, có phẩm chất đạo đức và lối sống lành mạnh, tận tụy, tận trí phục vụ sự nghiệp chung của đất nước. Cán bộ, công chức là nòng cốt, tiên phong trong việc bảo vệ kỷ cương phép nước và các quyền tự do, quyền con người. Yêu cầu của nhà nước pháp quyền là đặt con người vào vị trí trung tâm, là mục tiêu, là giá trị cao nhất, vì thế đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức trong thực thi công vụ phải đề cao trách nhiệm pháp lý trong bảo vệ quyền tự do, lợi ích chính đáng của công dân, không được vi phạm đến tự do và bất cứ quyền lợi và lợi ích hợp pháp nào của công dân; phải tôn trọng, lắng nghe ý kiến của nhân dân, không được quan liêu, cửa quyền và vô trách nhiệm. - Đội ngũ cán bộ, công chức là lực lượng đi đầu trong đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các biểu hiện tiêu cực khác của bộ máy nhà nước.Với địa vị pháp lý và bổn phận của mình, đội ngũ cán bộ, công chức phải gương mẫu trong công cuộc đấu tranh chống quan liêu, tham nhũng và các tiêu cực khác trong bộ máy nhà nước. Nếu đội ngũ cán bộ, công chức không phải là lực lượng tiên phong trong cuộc đấu tranh này thì khó có thể có được bộ máy nhà nước trong sạch và vững mạnh. b. Yêu cầu về chất lượng của cán bộ, công chức Việt nam trong thời kỳ mới. - Yêu cầu về phẩm chất chính trị, đạo đức. Yêu cầu về phẩm chất chính trị là yêu cầu cơ bản của người cán bộ, công chức. Đó là sự trung thành và bản lĩnh chính trị vững vàng, kiên định với mục tiêu và con đường mà Đảng đã lựa chọn. Yêu cầu về phẩm chất chính trị còn được thể hiện qua sự gương mẫu, lòng nhiệt tình, tận tụy có tinh thần và ý thức trách nhiệm cao với công việc, tận tâm và tận trí phục vụ nhân dân. Đạo đức của người cán bộ, công chức được thể hiện ở ý thức, niềm tin vào định hướng xã hội chủ nghĩa, biết tôn trọng, giữ gìn kỷ luật, kỷ cương, sống và làm việc theo hiến pháp và pháp luật, có lối sống lành mạnh, không tham ô, lãng phí và có trách nhiệm cao trong thực thi công vụ, có lòng nhân ái, vị tha, biết cách cư xử đúng đắn trong các mối quan hệ. Đó là những phẩm chất đạo đức cá nhân không thể thiếu ở mỗi người cán bộ, công chức. Bên cạnh những phẩm chất đạo đức cá nhân người cán bộ, công chức còn phải có đạo đức nghề nghiệp, đó là ý thức và trách nhiệm pháp lý đối với nghề nghiệp mà họ theo đuổi. Đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ, công chức được thể hiện ở tinh thần trách nhiệm và đề cao kỷ luật trong thi hành công vụ. Đó là ý thức luôn cố gắng hoàn thành nhiệm vụ được giao, kể cả khi gặp khó khăn, bất lợi. Đạo đức nghề nghiệp đòi hỏi những người cán bộ, công chức không những phải biết tiết kiệm cho mình, mà quan trọng hơn nữa là phải biết tiết kiệm cho nhà nước, cho nhân dân, có nh vậy mới hạn chế và chống được bệnh lãng phí thường xảy ra trong các cơ quan nhà nước. Đạo đức nghề nghiệp của người cán bộ, công chức còn thể hiện ở sự ngay thẳng, công bằng trong thực thi công vụ theo pháp luật. Phải có những con người ngay thẳng trong bộ máy nhà nước, giám nói ra những điều sai trái, phê bình thẳng thắn những cá nhân thiếu tinh thần trách nhiệm, vạch trần bộ mặt thật của những cá nhân thoái hóa biến chất để nhà nước và xã hội xử lý, có như vậy công cuộc cải cách hành chính mới đạt được hiệu quả, bộ máy nhà nước mới trong sạch và gọn nhẹ. - Yêu cầu về văn hóa. Văn hóa là cơ sở để hình thành tác phong, phong cách và lối sống của con người, là nền tảng tạo nên phẩm chất, cốt cách của người cán bộ, công chức. Vai trò của văn hóa ngày càng được coi trọng không chỉ trong đời sống xã hội. Trong nền kinh tế thị trường ngày nay văn hóa được coi nh một giá trị nội sinh, nó làm cho giá trị kinh tế tăng lên. Văn hóa doanh nghiệp mạnh sẽ làm cho thơng hiệu và uy tín của doanh nghiệp tăng lên từ đó nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thương trường. Ngày nay người tiêu dùng khi mua một sản phẩm họ không chỉ coi trọng chất lượng sản phẩm mà họ còn quan tâm đến bao bì của sản phẩm, chất lượng và dịch vụ của nhà cung c.ấp sản phẩm. Các giá trị đó chính là văn hóa của doanh nghiệp, ai thực hiện được các yêu cầu đó một cách tốt nhất thì người đó sẽ dành chiến thắng trên thị trường. Yêu cầu về văn hóa đòi hỏi người cán bộ, công chức phải có kiến thức liên ngành cần thiết, có kiến thức sâu rộng về các vấn đề kinh tế chính trị, có hiểu biết sâu sắc về lịch sử và truyền thống văn hóa của dân tộc để giữ gìn và phát huy bản sắc văn hóa dân tộc. Yêu cầu về trí tuệ. Ngày nay với sự tăng trưởng nhanh của nền kinh tế đời sống con người trong xã hội được cải thiện và đặc biệt mặt bằng dân trí được tăng lên cùng với sự phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật đòi hỏi người cán bộ, công chức phải có trình độ kiến thức và năng lực tư duy khoa học sáng tạo. Trong một số ngành, lĩnh vực và đối với ngạch chuyên viên trở lên thì trình độ đại học là bắt buộc và tối thiểu. Một số ngành và lĩnh vực khác phải là trên đại học. Yêu cầu trí tuệ hóa đội ngũ cán bộ, công chức buộc người cán bộ, công chức phải không ngừng học tập để nâng cao trình độ kiến thức và năng lực trí tuệ của mình, đồng thời nhà nước cần phải có chính sách, chế độ và tạo điều kiện để cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng và bổ xung kiến thức để phục vụ công tác thực thi đạt hiệu quả cao nhất. - Cán bộ, công chức phải có ý thức pháp luật, am hiểu, tôn trọng luật pháp và thông lệ quốc tế. ý thức pháp luật của cán bộ, công chức có những đặc thù so với ý thức pháp luật của các đối tượng khác trong xã hội, thể hiện ở chỗ ý thức pháp luật của cán bộ, công chức trực tiếp ảnh hưởng đến hoạt động xây dựng và ban hành các văn bản quy phạm pháp luật, tổ chức thực hiện pháp luật, áp dụng pháp luật, kiểm tra, giám sát thực hiện pháp luật ý thức pháp luật của cán bộ, công chức ảnh hởng đến hiệu lực, hiệu quả hoạt động của bộ máy nhà nước, đời sống nhà nước, xã hội và công dân. Hành vi của cán bộ, công chức có thể làm phát sinh, thay đổi hoặc chấm dứt một hay nhiều quan hệ pháp luật, có thể mang lại lợi ích hoặc thiệt hại về vật chất, tinh thần cho các đối tượng khác trong hoặc ngoài cơ quan hành chính nhà nước; nó có thể làm phát sinh, chi phối tư tưởng, tình cảm pháp luật và cả hành vi pháp luật của rất nhiều đối tượng trong xã hội. Vì vậy mỗi cán bộ đều phải am hiểu về pháp luật và biết áp dụng pháp luật vào hoạt động công vụ để giải quyết các vấn đề thuộc chức trách, nhiệm vụ của mình. Nếu cán bộ, công chức có trình độ hiểu biết pháp luật toàn diện, sâu sắc có thái độ tôn trọng pháp luật, có hành vi tích cực chấp hành pháp luật thì hiệu quả hoạt động sẽ cao. Ngược lại, nếu ý thức pháp luật kém, nhiều cán bộ, công chức có hành vi vi phạm pháp luật thì sẽ có tác động rất xấu, thậm chí không thể duy trì trật tự, kỷ cương trong Nhà nước và xã hội. Vì lẽ đó vấn đề hiểu biết pháp luật và ý thức tuân thủ pháp luật của nhóm này có ý nghĩa rất quan trọng. Một thực tế đang diễn ra trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của nước ta đó là vấn đề am hiểu về luật pháp quốc tế của các doanh nghiệp cũng như cán bộ, công chức còn rất hạn chế, đây là một cản trở lớn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, điển hình là các vụ kiện bán phá giá tôm và cá Ba sa vào thị trường Mỹ, giầy da ở thị trường ấn Độ cà phê ờ thị trường Brazil . . . Để có thể hội nhập với thế giới và không bị thiệt thòi đòi hỏi đội ngũ cán bộ, công chức phải nhận thức đầy đủ tầm quan trọng của vấn đề này để có định hướng và giải pháp để nâng cao sự hiểu biết về pháp luật và thông lệ quốc tế để đáp ứng được các điều kiện và yêu cầu mới trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. - Yêu cầu về chuyên môn hóa hiện đại hóa cán bô, công chức Ngoài những đặc điểm cơ bản trên đối với từng nhóm, từng bộ phận cán bộ, công chức lại có những yêu cầu đặc biệt, cụ thể riêng. Chương 2: Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam và bài học kinh nghiệm nâng cao chất lượng cán bộ, công chức của các nước 2.1 Thực trạng chất lượng cán bộ, công chức Việt Nam hiện nay. 2.1.1 Thực trạng qua các số liệu thống kê. Nhìn gần hai mươi năm qua khi đất nước ta ở thời kỳ đầu đổi mới, chuyển đổi từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, công tác cán bộ nói chung, đội ngũ cán bộ, công chức nước ta nói riêng, đứng trước nhiều thử thách trong đó có những thử thách trực tiếp đặt ra cho công tác đào tạo, bồi dưỡng đó là: Mặt bằng trình độ, kiến thức của cán bộ, công chức thấp, lại không đồng đều, bất cập với những yêu cầu của công cuộc đổi mới. Do được đào tạo và hoạt động trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp nên rất lúng túng và bỡ ngỡ trước bước chuyển đổi cơ chế quản lý và hội nhập kinh tế quốc tế, khu vực Khi xếp vào các ngạch bậc công chức đại bộ phận cán bộ, công chức thiếu, nợ các tiêu chuẩn về trình độ (lý luận chính trị, quản lý nhà nước, chuyên môn, ngoại ngữ và sau này là tin học). Có những cán bộ, công chức khi xếp vào ngạch, hoặc bổ nhiệm vào các chức vụ thiếu tới 3 đến 4 tiêu chuẩn về trình độ và từ đó vấn đề trả nợ về tiêu chuẩn trình độ được đặt ra bồi dưỡng cán bộ, công chức. Thấy rõ sự bất cập ấy, công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được Đảng và Nhà nước ta rất quan tâm và xác định là nhiệm vụ quan trọng trong công tác cán bộ, xây dựng Đảng, xây dựng Nhà nước và cải cách hành chính nhà nước. Nghị quyết Trung ương 3 khóa 8 về Chiến lược cán bộ thời kỳ đẩy mạnh công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đã xác định đào tạo, bồi dưỡng cán bộ là một trong những giải pháp lớn xây dựng đội ngũ cán bộ và công tác cán bộ. Ngày 20/1 1/1996 Thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định số 874/TTG về công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức. Tại quyết định này mục tiêu, đối tượng, nội dung công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức được xác định rõ ràng. Hai hệ thống cơ quan quản lý nhà nước và hệ thống cơ sở tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức đã được xác định từ Trung ơng đến địa phương. Tiếp theo là quyết định 74/2001/QĐ-TTg của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng cán bộ, công chức giai đoạn 200 1 - 2005 vấn đề tập trung giải quyết trong giai đoạn này là nâng cao trình độ năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, công chức, đồng thời cũng để cán bộ, công chức xóa được nợ về tiêu chuẩn trình độ của mình. Hơn 10 năm thực hiện, công tác đào tạo, bồi dỡng cán bộ, công chức đã đạt được những kết quả đáng kể đó là: đã tạo được phong trào học tập trong toàn thể cán bộ, công chức; mặt bằng về trình độ, kiến thức của đội ngũ cán bộ, công chức được nâng lên rõ rệt, đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao trong đó có một số cán bộ, công chức về mặt trình độ và năng lực hoạt động đã theo kịp được trình độ của các nước trong khu vực và quốc tế. Đại bộ phận số cán bộ, công chức thiếu nợ đã trả được nợ, sau thời gian phấn đấu học tập về cơ bản đội ngũ cán bộ, công chức nước ta đã đủ các tiêu chuẩn về trình độ, có nhiều cán bộ, công chức đã phấn đấu học tập để có trình độ chuyên môn cao hơn và chuyên sâu hơn yêu cầu của ngạch bậc công chức. Chỉ tính 5 năm gần đây 2001 - 2005 tổng số cán bộ, công chức được đào tạo bồi dỡng khoảng 2.852.000 lợt người, trong đó có 407.000 lượt cán bộ, công chức được đào tạo, bồi dưỡng về lý luận chính trị; 894.000 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về kiến thức quản lý nhà nước; 1 076.000 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về chuyên môn; 37.000 lượt người được đào tạo, bồi dưỡng về ngoại ngữ và gần 96.000 lượt người được đào tạo bồi dưỡng về tin học; gần 292.000 đại biểu hội đồng nhân dân các cấp tỉnh, huyện, xã được trang bị kiến thức và kỹ năng hoạt động; 50.000 lượt người được trang bị về kiến thức hội nhập kinh tế quốc tế theo quyết định số 137/2003/QĐ-TTg ngày 1 1/7/2003 của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt về kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng nguồn nhân lực cho công tác hội nhập kinh tế quốc tế giai đoạn 2003 - 2010. Ngoài ra, còn có 15.000 lượt cán bộ, công chức đi đào tạo, bồi dưỡng ở nước ngoài trong đó cán bộ quản lý và công chức nguồn là 6.000 lượt người3 Tạp chí tổ chức cán bộ số tháng 1 năm 2006 . 2.1.2 Đánh giá chung về thực trạng đội ngũ cán bộ, công chức hiện nay. - Những ưu điểm chủ yếu. + Hầu hết cán bộ, công chức có tư tưởng chính trị vững vàng kiên định với mục tiêu, lý tưởng xã hội chủ nghĩa, trung thành với tổ quốc, với nhân dân. + Đa số cán bộ, công chức cần cù chịu khó học hỏi phấn đấu vươn lên thực hiện tết các mục tiêu mà Đảng và nhà nước đã đề ra. + Mặc dù trong điều kiện tiền lương và thu nhập thực tế còn thấp, lại chịu nhiều tác động tiêu cực của cơ chế thị trường nhưng số đông cán bộ công chức giữ được phẩm chất đạo đức, tư cách và lối sống lành mạnh, khắc phục những khó khăn, hoàn thành nhiệm vụ. - Những hạn chế và yếu kém. + Trình độ năng lực quản lý kinh tế - xã hội còn nhiều hạn chế, thiếu hụt kiến thức về kinh tế thị trường, về quản lý nhà nước, về pháp luật, ngoại ngữ, tin học và kỹ năng hành chính, cũng như tri thức về khoa học kỹ thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc314.doc
Tài liệu liên quan