Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quản trị tiêu thụ mặt hàng nhựa xốp tại Công ty Điện tử Sao Mai

Lời nói đầu

Chương I. Những lý luận cơ bản về quản trị tiêu thụ hàng hóa

 trong doanh nghiệp thương mại.

I. DNTM VÀ MÔI TRƯỜNG KINH DOANH CỦA DNTM.

1. DNTM và đặc trưng của DNTM. 2

1.1- Khái niệm doanh nghiệp. 2

1.2- DNTM và đặc trưng cơ bản của DNTM. 3

2. Môi trường kinh doanh của DNTM. 4

2.1- Môi trường kinh doanh bên ngoài. 4

2.2- Môi trường kinh doanh bên trong. 6

3. Mối quan hệ giữa doanh nghiệp và môi trường kinh doanh. 7

II. KHÁI NIỆM VÀ NỘI DUNG CƠ BẢN CỦA QUẢN TRỊ DNTM.

1. Khái niệm quản trị và quản trị DNTM. 8

2. Đặc điểm quản trị DNTM. 9

3. Các quan điểm về quản trị DNTM. 10

4. Các chức năng cơ bản của quản trị DNTM. 10

III. QUẢN TRỊ TIÊU THỤ VÀ VAI TRÒ CỦA QUẢN TRỊ TIÊU THỤ HÀNG HOÁ TRONG DNTM.

1. Khái niệm quản trị và quản trị DNTM. 11

2. Vai trò của quản trị tiêu thụ hàng hoá. 12

3. Những nội dung cơ bản của quản trị tiêu thụ hàng hoá trong DNTM 12

3.1- Quản trị tiêu thụ hàng hoá theo chức năng. 12

3.2- Quản trị tiêu thụ hàng hoá theo thương vụ bán. 16

4. Các chỉ tiêu chất lượng và hiệu quả của công tác tiêu thụ

 hàng hóa trong DNTM. 18

4.1- Chất lượng của công tác quản trị tiêu thụ hàng hoá. 18

 

doc89 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1240 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng công tác quản trị tiêu thụ mặt hàng nhựa xốp tại Công ty Điện tử Sao Mai, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
t lượng công tác quản trị tiêu thụ hàng hóa được nâng cao sẽ đem lại những lợi nhuận to lớn cho nền kinh tế như sau: Góp phần đẩy nhanh chu kì sản xuất kinh doanh. Ta biết rằng tiêu thụ hàng hóa là khâu cuối cùng của chu kì sản xuất kinh doanh, song nó là khâu quan trọng nhất. Nhờ việc tiêu thụ hàng hóa mà toàn bộ chi phí trong sản xuất kinh doanh được bù đắp, tái tạo lại sức lao động, mở rộng sản xuất kinh doanh cả về chiều rộng lẫn chiều sâu. Chất lượng quản trị tiêu thụ được nâng cao tỷc là chi phí bỏ ra để đạt được một đồng doanh thu giảm đi, tiết kiệm được chi phí trong khâu thực hiện giá trị cho toàn bộ nền kinh tế, từ đó tăng khả năng cạnh tranh của nền kinh tế trong nước. Đem lại lợi ích về kinh tế cho tất cả các đối tượng trong xã hội như: người sản xuất, Nhà nước, người phân phối, người tiêu dùng. 2.2- Sự cần thiết đối với bản thân doanh nghiệp. Trong nền kinh tế thị trường các doanh nghiệp luôn phải cạnh tranh gay gắt, phải tự hạch toán kinh doanh. Các sản phẩm dù có chất lượng tốt, giá cả hợp lý nhưng công tác tổ chức tiêu thụ kém thì khách hàng ít biết đến sản phẩm. Vì vậy, nâng cao chất lượng công tác quản trị tiêu thụ là rất cần thiết sao cho hàng hoá tới tay người tiêu dùng nhanh nhất, chi phí thấp nhất, có như vậy các mục tiêu của doanh nghiệp mới được thực hiện. Do điều kiện vật chất và tinh thần của người dân ngày càng được nâng cao, và do đó nhu cầu tiêu dùng của họ cũng tăng theo. Các sản phẩm Ngoài tính năng, công dụng cao, có khả năng đáp ứng tốt nhu cầu của người tiêu dùng nhưng tổ chức mạng lưới tiêu thụ không hợp lý, công tác hoạch định tiêu thụ không sát thực tế, việc phân bổ nhân sự không đáp ứng cho việc thực hiện các hoạt động tiêu thụ hay việc kiểm soát các hoạt động tiêu thụ lỏng lẻo..., thì việc tiêu thụ cũng không đạt kết quả mong muốn. Do sự phát triển của KHKT cùng với việc bùng nổ thông tin sẽ tạo ra cho các doanh nghiệp thương mại nhiều cơ hội cũng như các mối đe dọa trong quá trình tiêu thụ sản phẩm. Nếu công tác quản trị tiêu thụ tốt thì nhiều cơ hội sẽ mở ra cho doanh nghiệp. Với những lý do như vậy, với tầm quan trọng của tiêu thụ hàng hoá thì việc nâng cao chất lượng công tác quản trị tiêu thụ hàng hoá là điều tất yếu đối với doanh nghiệp. Qua đó, doanh nghiệp có thể nắm bắt tốt hơn nhu cầu thị trường, tổ chức tiêu thụ hàng hoá có hiệu qủa hơn, thoả mãn tốt hơn nhu cầu của người tiêu dùng, từ đó đạt được các mục tiêu đề ra. 3. Những phương hướng nhằm nâng cao chất lượng công tác quản trị tiêu thụ hàng hóa trong doanh nghiệp thương mại. Qua việc nghiên cứu những lý luận cơ bản của quản trị tiêu thụ hàng hóa trong doanh nghiệp thương mại ta thấy rằng: để làm tốt công tác quản trị tiêu thụ hàng hóa đảm bảo cho quá trình kinh doanh được liên tục, thông suốt, các doanh nghiệp thương mại có thể tiến hành cải thiện chất lượng công tác theo một số phương hướng sau: Về phía nhà quản trị: phải nâng cao năng lực quản trị của các nhà quản trị bằng cách đào tạo, bồi dưỡng thêm về trình độ quản lý, khả năng kết nối các hoạt động, kết nối các cá nhân trong doanh nghiệp của họ. Bản thân mỗi nhà quản trị phải không ngừng học hỏi, rèn luyên để nâng cao trình độ của mình tạo cho mình một phong cách lãnh đạo vừa có khả năng quyết đoán, vừa phát huy hết được sự sáng tạo của nhân viên dưới quyền. Một doanh nghiệp có các nhà quản trị am hiểu về công việc, am hiểu về thị trường, có khả năng dự đoán trước được những biến động của thị trường thì những quyết định quản trị mà họ đưa ra sẽ hợp lý hay nói cách khác hoạt động quản trị tiêu thụ đạt chất lượng cao. Về việc tổ chức qúa trình quản trị tiêu thụ: theo cách tiếp cận quá trình ta nhận thấy rằng quản trị tiêu thụ là một quá trình gồm 4 giai đoạn: hoạch định, tổ chức, lãnh đạo và kiểm soát. Cả 4 giai đoạn này vừa có tính độc lập vừa đan xen lẫn nhau. Toàn bộ hoạt động quản trị sẽ không đạt được kết quả khi bất kì một giai đoạn quản trị nào không được thực hiện tốt. Điều này đòi hỏi phải tổ chức quá trình quản trị tiêu thụ một cách khoa học vừa dựa trên cơ sở lý thuyết vừa không xa rời điều kiện cụ thể. Từ đó, tạo được tính hợp lý trong mọi hoạt động quản trị. Các nhà quản trị doanh nghiệp nói chung và các nhà quản trị tiêu thụ nói riêng không được phép bỏ qua hoặc xem nhẹ bất kì một giai đoạn nào trong quá trình quản trị này, nếu không mọi nỗ lực quản trị đều không thể đem lại kết quả gì. Một phương hướng nữa là phải tạo ra môi trường tốt cho các nhà quản trị. Bất kì cá nhân nào trong xã hội khi tiến hành các hoạt động đều nhằm thoả mãn những nhu cầu của cá nhân mình. Vì vậy, muốn các nhà quản trị tiêu thụ hoàn thành tốt công việc của mình thì doanh nghiệp cần phải đưa ra những chế độ ưu đãi phù hợp với mong muốn của họ mà cụ thể là những ưu đãi về vật chất và tinh thần trong quá trình làm việc của họ. Doanh nghiệp phải gắn được lợi ích cá nhân họ với lợi ích của doanh nghiệp thì mới làm cho họ toàn tâm toàn ý vào công việc kinh doanh chung, qua đó, phục vụ lợi ích của bản thân mình cũng như lợi ích của doanh nghiệp. Một môi trường làm việc thuận lợi, đầy đủ điều kiện vật chất cần thiết với các chính sách, nội quy, quy tắc chặt chẽ cũng là một điều ràng buộc đối với các nhà quản trị tiêu thụ, năng lực của họ sẽ được phát huy cao nhất trong điều kiện làm việc đó. Chương II. Khảo sát thực trạng tình hình hoạt động kinh doanh và công tác quản trị tiêu thụ hàng hóa ở Công ty Điện tử Sao Mai. I. Khái quát về Công ty Điện tử Sao Mai. 1. Lịch sử hình thành và phát triển Công ty. Xí nghiệp điện tử (BQP), tiền thân của Công ty Điện tử Sao Mai, ra đời ngày 15/09/1979 trên cơ sở quyết định số 329/CP của Hội đồng Chính phủ. Trong những năm 1979-1989, Xí nghiệp đã tham gia nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm điện tử phục vụ quốc phòng, kinh tế và hợp tác quốc tế. Từ 1990 trở lại đây, do tình hình Đông Âu biến động, thị trường xuất khẩu sang Đông Âu bị cắt đứt, việc xuất khẩu sang thị trường này không thể tiếp tục. Từ những yêu cầu khách quan và chủ quan trong việc phát triển của Xí nghiệp, Bộ trưởng Bộ quốc phòng đã ra quyết định số 293/QĐ-QĐ đổi tên Xí nghiệp thành Liên hiệp khoa học sản xuất bán dẫn Sao Mai. Liên hiệp là đơn vị kết hợp nghiên cứu khoa học với sản xuất kinh doanh có tư cách pháp nhân, thực hiện hạch toán độc lập, được mở tài khoản tại ngân hàng, kể cả tài khoản ngoại tệ, được trực tiếp xuất nhập khẩu. Liên hiệp đã cố gắng phát huy tốt mọi nguồn lực để trở thành doanh nghiệp sản xuất kinh doanh có hiệu quả cao. Do điều kiện thay đổi, ngày 18/04/1996, Bộ quốc phòng ra quyết định số 504/QĐ-QP sát nhập 6 công ty và 3 xí nghiệp trực thuộc Tổng cục công nghiệp quốc phòng thành Công ty Điện tử Sao Mai. Tên đầy đủ của công ty: Công ty Điện tử Sao Mai Tên giao dịch quốc tế: Morning Star Electronic Corporation Tên viết tắt: MSC Trụ sở chính: Nghĩa Đô - Cầu Giấy - Hà Nội Tel: 7.564.588 / 7.564.183 Fax: 84-4-7564263 Để tạo điều kiện cho Công ty chủ động đáp ứng các nhiệm vụ quốc phòng và nghiên cứu thị trường, năm 1998, Bộ quốc phòng đầu tư cho Công ty dây chuyền sản xuất nhựa xốp. Sản phẩm nhựa xốp của công ty luôn đảm bảo chất lượng, đã và đang chiếm được lòng tin của khách hàng. Hiện nay, Công ty đang cung cấp 50% thị phần nhựa xốp cho việc đóng gói đèn hình tivi màu xuất khẩu của công ty liên doanh sản xuất đèn hình Orion - Hanel. Với bề dày kinh nghiệm và thiết bị dây chuyền công nghệ tiên tiến hiện đại bậc nhất Việt Nam, Xí nghiệp nhựa xốp của Công ty Điện tử Sao Mai đang phấn đấu mở rộng thị phần, trở thành nhà cung cấp sản phẩm bao bì nhựa xốp cao cấp hàng đầu cho khách hàng thuộc Bộ quốc phòng, ngành điện tử, điện lạnh, các Tổng công ty rau quả, thủy sản xuất khẩu. Xuất phát từ định hướng này, công ty luôn đặt uy tín và chất lượng là mục tiêu hàng đầu trong chiến lược phát triển. Đồng thời Công ty luôn chú trọng việc xây dựng một đội ngũ cán bộ công nhân viên năng động, sáng tạo, có tinh thần trách nhiệm cao, đủ khả năng tiếp cận các tiến bộ khoa học kỹ thuật, nắm bắt thông tin về thị trường để không ngừng cải tiến chất lượng sản phẩm, thoả mãn nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Chức năng và nhiệm vụ. Chức năng. Chức năng chủ yếu của công ty là tiến hành các hoạt động sản xuất, nghiên cứu, kinh doanh, trong đó: Nghiên cứu, phát triển, tiếp nhận, chuyển giao công điện tử phục vụ quốc phòng và hợp tác quốc tế. Sản xuất kinh doanh các vật liệu, linh kiện, các sản phẩm điện tử, điện máy, các loại khí công nghiệp, các mặt hàng nhựa xốp phục vụ quốc phòng và kinh tế quốc dân. Ngoài ra, công ty còn tiến hành kinh doanh lắp ráp các sản phẩm điện tử, điện lạnh, điện dân dụng, xây lắp, chuyển giao công nghệ trang thiết bị công trình, đường dây và trạm đến 35 KV. Các lĩnh vực kinh doanh chủ yếu của công ty: Sản xuất kinh doanh vật liệu, linh kiện, thiết bị điện tử, điện lạnh, điện máy chuyên dùng và dân dụng, khí công nghiệp, lắp ráp xe máy. Dịch vụ kỹ thuật điện tử, tin học truyền thông, mạng điện (xây dựng đường dây và trạm biến áp đến 35 KV). Tiếp nhận, chuyển giao công nghệ điện tử. Sản xuất và xuất khẩu xốp chèn. Sản xuất, sửa chữa trang bị quân sự. Nhập khẩu vật tư, thiết bị phục vụ sản xuất các mặt hàng Công ty được phép sản xuất. Nhiệm vụ. Là một doanh nghiệp Nhà nước, công ty có nhiệm vụ bảo toàn và phát triển tổng số vốn Nhà nước giao cho, thực hiện chế độ hạch toán độc lập, tự chủ về tài chính. Công ty có nhiệm vụ hoàn thành các chỉ tiêu do Nhà nước giao cho, có nghĩa vụ nộp ngân sách Nhà nước. Công ty phải tiến hành kinh doanh theo đúng pháp luật, chịu trách nhiệm về kinh tế và dân sự đối với các hoạt động kinh doanh và tài sản của mình. Củng cố và mở rộng các mối quan hệ kinh tế, đáp ứng tốt nhu cầu tiêu dùng sản xuất. Cơ cấu tổ chức. Công ty Điện tử Sao Mai được tổ chức theo kiểu trực tuyến chức năng: Ban giám đốc lãnh đạo và chỉ đạo trực tiếp đến từng đơn vị sản xuất kinh doanh và các phòng ban chức năng nghiệp vụ. Ban giám đốc: gồm 3 người Giám đốc: là người đứng đầu, phụ trách chung về tất cả các mặt hàng sản xuất kinh doanh của Công ty, là người chịu trách nhiệm trước Nhà nước, cấp trên về toàn bộ hoạt động của công ty, đồng thời là người đại diện cho quyền lợi của toàn thể cán bộ công nhân viên. Phó giám đốc phụ trách hành chính và đời sống. Phó giám đốc phụ trách kỹ thuật và nghiên cứu. Các phòng ban chức năng: Văn phòng Công ty: có nhiệm vụ tổ chức thực hiện và quản lý các công tác nghiệp vụ hành chính, đời sống hậu cần, xây dựng cơ bản, doanh trại, đối ngoại và an ninh. Phòng kế hoạch tổng hợp: có nhiệm vụ tham mưu quản lý các mặt công tác kế hoạch, giá thành, lao động, nhân sự, tiền lương, chế độ, chính sách đào tạo, cơ điện, kỹ thuật công nghệ, sáng kiến, an toàn, chất lượng, tiêu chuẩn hoá, tổ chức bảo quản kho, tiêu thụ vật tư thiết bị ứ đọng, đảm bảo và quản lý công tác vận tải, điện nước cho toàn đơn vị. Phòng tài chính: có nhiệm vụ tham mưu và đảm bảo tài chính cho các hoạt động của Công ty, theo dõi, kiểm tra, giám sát các hoạt động tại chính kế toán của Công ty, hỗ trợ các công tác kế toán tài chính của các đơn vị thành viên, đảm bảo đúng pháp luật và đạt hiệu quả kinh tế. Phòng thị trường - hợp tác - đầu tư: có nhiệm vụ tiếp cận thị trường trong và Ngoài nước, tham mưu cho Giám đốc khả năng sản xuất kinh doanh cũng như phát triển mặt hàng mới, giới thiệu quảng cáo sản phẩm, tổ chức liên doanh, liên kết với các đơn vị trong và Ngoài nước trong phạm vi lĩnh vực hoạt động của Công ty. Ban chính trị: có nhiệm vụ tổ chức công tác Đảng, công tác chính trị, dân vận và công tác quần chúng. Công ty còn có 6 đơn vị thành viên hạch toán độc lập: Viện nghiên cứu điện tử Nghiên cứu, phát triển, tiếp nhận, chuyển giao công nghệ điện tử. Chế thử và sản xuất loại nhỏ các vật liệu, linh kiện gốm áp điện, bán dẫn, thiết bị điện tử phục vụ quốc phòng và kinh tế quốc dân. Thực hiện các dịch vụ về khoa học kỹ thuật. Xí nghiệp khí công nghiệp 81: sản xuất kinh doanh các loại khí công nghiệp phục vụ quốc phòng và kinh tế quốc dân. Xí nghiệp linh kiện điện tử: sản xuất kinh doanh vật liệu linh kiện, các sản phẩm điện máy điện tử phục vụ quốc phòng và kinh tế quốc dân. Xí nghiệp thiết bị điện tử: sản xuất kinh doanh lắp ráp các sản phẩm điện tử, điện lạnh, điện dân dụng. Xí nghiệp trang thiết bị công trình: xây lắp, chuyển giao công nghệ trang thiết bị công trình đường dây và trạm đến 35KV. Xí nghiệp nhựa xốp Sao Mai: sản xuất các mặt hàng nhựa xốp phục vụ quốc phòng và kinh doanh của Công ty. Các đơn vị trực thuộc khác Phân xưởng cơ khí điện tử: có nhiệm vụ tổ chức thực hiện các hoạt động sản xuất dịch vụ kỹ thuật, cơ khí, điện tử, cơ khí hoá và lắp ráp xe máy cũng như các sản phẩm cơ khí khác. Phân xưởng hoá chất: nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm hoá chất phục vụ yêu cầu sản xuất kinh doanh của Công ty. Ngoài ra, để đảm bảo công ăn việc làm cho cán bộ công nhân viên trong Công ty, Công ty Điện tử Sao Mai còn có các tổ cơ khí T1, T3, phân xưởng sản xuất kinh doanh quạt điện, đồng hồ (T2), và phân xưởng chuyên sản xuất kinh doanh hàng nội thất. 4. Đặc điểm kinh doanh. Đặc điểm về tổ chức sản xuất. Công ty chủ trương lập kế hoạch đối với việc sản xuất và cung ứng sản phẩm tương ứng với năng lực của từng xí nghiệp để đảm bảo xác định rõ về: Các yêu cầu, đặc tính của sản phẩm. Các quá trình, các thông tin, tài liệu, bộ phận chịu trách nhiệm, nguồn lực cần thiết để chế tạo sản phẩm. Các khâu kiểm tra, chuẩn mực kiểm tra và chấp nhận sản phẩm. Lưu trữ hồ sơ thích hợp làm bằng chứng cho các quá trình tạo sản phẩm cũng như sự phù hợp của sản phẩm. Riêng đối với Xí nghiệp nhựa xốp Sao Mai, từng bộ phận, cá nhân thực hiện hoặc phối hợp thực hiện mỗi công đoạn trong quá trình, hiểu rõ thông tin đầu vào và xác định kết quả đầu ra của công đoạn đó với các giá trị được thể hiện rõ. Đặc điểm về lao động. Công ty Điện tử Sao Mai là một doanh nghiệp có số lao động tương đối đông và rất ổn định, tổng số nhân viên của Công ty tính đến thời điểm này là 467 người, riêng Xí nghiệp nhựa xốp Sao Mai là 47 người. Hầu hết các nhân viên của Công ty đã được đào tạo tại các trường đại học, cao đẳng, trung cấp, công nhân kỹ thuật trong và ngoài nước rất có uy tín, do đó, khả năng đáp ứng công việc của họ rất cao và có hiệu quả. Hơn nữa, Công ty luôn chú trọng công tác tuyển chọn, đào tạo, bồi dưỡng cán bộ công nhân viên với mục đích xây dựng một đội ngũ cán bộ quản lý, cán bộ kỹ thuật, công nhân viên lành nghề, năng động, sáng tạo, có tác phong công nghiệp, có tinh thần trách nhiệm cao, đủ khả năng tiếp cận với các tiến bộ khoa học kỹ thuật, đáp ứng yêu cầu sản xuất quốc phòng nói chung và của Xí nghiệp nhựa xốp Sao Mai nói riêng. Cán bộ công nhân trực tiếp vận hành các thiết bị trong Xí nghiệp còn phải được huấn luyện ngay tại nơi làm việc, trải qua kì sát hạch và được trao thẻ đứng máy. Chỉ những công nhân, cán bộ có thẻ đứng máy theo quy định mới được giao vận hành thiết bị tương ứng. Ngoài ra, họ còn được huấn luyện cách kiểm tra chất lượng sản phẩm do mình làm ra để kịp thời điều chỉnh chế độ công nghệ đảm bảo sản xuất sản phẩm với chất lượng tốt nhất. Nguồn cung ứng nguyên vật liệu. Với các mặt hàng sản xuất kinh doanh đa dạng, Công ty Điện tử Sao Mai có thị trường cung ứng vốn, hàng hoá, vật tư, linh kiện, nguyên vật liệu phong phú, trong đó, có rất nhiều công ty có uy tín cả về vốn và chất lượng hàng hoá. Tuy nhiên, Công ty luôn đặt uy tín và chất lượng sản phẩm lên hàng đầu, vì thế, việc lựa chọn những nhà cung cấp đảm bảo uy tín, tạo được nguồn hàng ổn định, hợp lý về giá cả, phong phú về chủng loại được Công ty hết sức quan tâm. Riêng Xí nghiệp nhựa xốp Sao Mai hiện nay có hai nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào (hạt nhựa EPS), đó là Công ty BASF và Công ty SAMSUNG HANEL. Ngoài ra, còn có nhà cung cấp khuôn là Công ty Tân Phùng Hưng và kỹ thuật Phùng Hưng. Các nhà cung cấp này luôn đáp ứng đúng tiến độ về ký kết hợp đồng, thời gian giao hàng, chất lượng hàng hoá cũng như việc cung cấp các thông tin cần thiết khác. Đặc biệt, Công ty BASF luôn gửi những báo cáo về tình hình thị trường giúp Công ty nắm rõ về xu hướng thị trường sản phẩm. Hiện nay, Công ty đang tiến hành tìm kiếm và đánh giá thêm một số nhà cung cấp mới. Đặc điểm về hàng hoá và thị trường. Là một doanh nghiệp Nhà nước thuộc Bộ quốc phòng, từ khi bắt đầu thành lập, Công ty Điện tử Sao Mai chủ yếu tham gia nghiên cứu, sản xuất các sản phẩm điện tử phục vụ quốc phòng, kinh tế và hợp tác quốc tế. Cụ thể: Sản xuất kinh doanh vật liệu, linh kiện, thiết bị điện tử, điện lạnh, điện máy chuyên dùng và dân dụng, khí công nghiệp, lắp ráp xe máy. Dịch vụ kỹ thuật điện tử, tin học truyền thông, mạng điện. Sản xuất, sửa chữa trang bị quân sự. Từ năm 1998, được Bộ quốc phòng đầu tư cho dây chuyền sản xuất nhựa xốp, Công ty đã cố gắng phấn đấu mở rộng thị phần, trở thành nhà cung cấp bao bì nhựa xốp hàng đầu cho các khách hàng thuộc Bộ quốc phòng, ngành điện tử, điện lạnh, các Tổng công ty rau quả, thuỷ sản xuất khẩu. Các sản phẩm nhựa xốp chủ yếu của Công ty hiện nay: xốp chèn đèn hình tivi, xốp chèn tủ lạnh, xốp mũ, xốp khối. II. Tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong một số năm qua. 1. Phân tích kết quả tình hình sản xuất kinh doanh của Công ty trong 3 năm (2000 - 2002). Là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập trong điều kiện nền kinh tế chậm phát triển, trải qua một chặng đường thử thách khá dài, đến nay, Công ty đã khẳng định được vị thế của mình trên thị trường. Được sự quan tâm chỉ đạo sát sao của Ban giám đốc, trong những năm qua, nhờ đổi mới không ngừng trong hoạt động quản trị, trong công tác hoạch định và phát triển thị trường cũng như trong khâu đổi mới hành chính, Công ty Điện tử Sao Mai luôn vượt qua khó khăn để hoàn thành kế hoạch được giao. Sản lượng tiêu thụ qua 3 năm ngày càng tăng và doanh số cũng tăng, sản phẩm của Công ty ngày càng đa dạng, phong phú. Ban giám đốc Công ty đã từng bước đảm bảo các phương tiện và trang bị vật dụng làm việc cho nhân viên, có chính sách thưởng phạt nghiêm minh nhờ đó kích thích được khả năng sáng tạo và tinh thần học hỏi của các thành viên trong Công ty. Qua việc khảo sát số liệu thực tế trong 3 năm hoạt động 2000, 2001, 2002, có thể phân tích kết quả hoạt động kinh doanh chung của Công ty qua bảng 1 như sau: Về tổng doanh thu: tổng doanh thu của Công ty không ngừng tăng lên từ năm 2000 đến 2002. Năm 2001, doanh thu đạt 10.222 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 532 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 5,49%, Năm 2002, doanh thu đạt 11.500 triệu đồng, tăng so với năm 2001 là 1.278 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 12,5%. Như vậy, từ năm 2000 đến 2002, doanh thu của Công ty không ngừng tăng lên cả về số tiền cũng như về tỷ lệ. Điều này đã chứng tỏ được sự năng động của Công ty, sự nỗ lực của Công ty trong việc mở rộng mặt hàng kinh doanh, tìm kiếm khách hàng, tìm kiếm thị trường mới. Về lãi gộp: lãi gộp của Công ty trong năm 2001 là 470,54 triệu đồng, tăng so với năm 2000 là 95,68 triệu đồng, với tỷ lệ tăng là 25,52%. Năm 2002, lãi gộp đạt 701,8 triệu đồng, tăng 231,26 triệu đồng, tăng 49,15% về tỷ lệ. Về chi phí bán hàng: năm 2000, chi phí bán hàng của Công ty là 58,76 triệu đồng, năm 2001 là 66,44 triệu đồng, tăng 7,68 triệu đồng so với năm 2000, với tỷ lệ tăng là 13,07%. Năm 2002, chi phí là 69 triệu đồng, tăng 2,56 triệu đồng so với 2001 với tỷ lệ tăng là 3,85%. Mặc dù, chi phí bán hàng của Công ty tăng dần qua các năm song việc gia tăng này là hợp lý vì tỷ lệ tăng này vẫn nhỏ hơn tỷ lệ lãi gộp chứng tỏ chi phí tăng do Công ty nỗ lực tăng doanh thu. Hơn nữa, tỷ lệ tăng chi phí năm 2002 thấp hơn so với 2001, đã thể hiện sự cố gắng của Công ty trong việc hạn chế đến mức thấp nhất chi phí bán hàng. Về chi phí quản lý doanh nghiệp: chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty năm 2000 là 56,3 triệu đồng, năm 2001 là 65,1 triệu đồng, tăng 8,8 triệu đồng so với năm 2000 với tỷ lệ tăng là 15,63%. Năm 2002, chi phí quản lý doanh nghiệp là 66,8 triệu đồng, tăng 1,7 triệu đồng so với 2001 với tỷ lệ tăng là 2,61%, điều này cho thấy chi phí quản lý doanh nghiệp của Công ty đã có xu hướng giảm so với tỷ lệ tăng của doanh thu cũng như tỷ lệ tăng của lãi gộp. Như vậy, Công ty đã có sự quản lý tốt đối với hoạt động kinh doanh. Về tổng lợi nhuận: năm 2000, lợi nhuận của Công ty là 400 triệu đồng, năm 2001 là 550 triệu đồng, tăng 150 triệu đồng so với năm 2000 với tỷ lệ tăng là 37,5%. Năm 2002, lợi nhuận đạt 750 triệu đồng, tăng 200 triệu đồng so với 2001 với tỷ lệ tăng là 36,36%. Ta thấy tỷ lệ tăng của tổng lợi nhuận là khá cao, chứng tỏ Công ty kinh doanh có hiệu quả. Về thu nhập bình quân/người/tháng: thu nhập bình quân/người/tháng của Công ty năm 2000 là 1,07 triệu đồng, năm 2001 là 1,362 triệu đồng, tăng 0,292 triệu đồng so với năm 2000 với tỷ lệ tăng 27,29%. Năm 2002, thu nhập bình quân/người/tháng đạt 1,491 triệu đồng, tăng 1129 triệu đồng so với 2001 với tỷ lệ tăng 9,47%. Mức thu nhập này tương đối cao so với mặt bằng thu nhập của xã hội, điều này cho thấy đời sống của cán bộ công nhân viên trong Công ty luôn được đảm bảo. Từ các số liệu phân tích ở trên, ta thấy: trong 3 năm 2000, 2001, 2002, Công ty kinh doanh rất có hiệu quả. Công ty đã nỗ lực rất lớn trong việc mở rộng mặt hàng kinh doanh, thị trường kinh doanh nhằm tăng doanh thu từ đó, tăng lợi nhuận. Việc gia tăng này là do Công ty đã quản lý tốt chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp. Xuất phát từ hiệu quả hoạt động kinh doanh cao (mức thu nhập bình quân cao), Công ty đã khuyến khích được sự nỗ lực cá nhân, sự sáng tạo trong công việc chung của cả Công ty. Hạn chế: Bên cạnh những kết qủa đạt được, Công ty vẫn còn một số hạn chế trong công tác tiêu thụ sản phẩm. Hệ thống tiêu thụ của Công ty chưa có độ bao phủ rộng: hiện tại, sản phẩm của Công ty mới chỉ chủ yếu cung cấp cho Bộ quốc phòng, các công ty điện tử, điện lạnh, công ty rau quả. Công ty chưa có sự kết hợp hài hoà giữa chính sách sản phẩm và chiến lược thị trường, do đó, chưa tạo ra nét đặc trưng riêng cho Công ty. Các hoạt động quảng cáo, khuyếch trương còn kém hiệu quả: các hoạt động tuyên truyền quảng cáo cho sản phẩm của Công ty còn chưa nhiều, chưa đạt đến hiệu quả mong muốn. Xu hướng hiện nay là dành chi phí cho quảng cáo ngày càng tăng, chiếm một ngân sách không nhỏ, nhưng hiện tại, chi phí quảng cáo của Công ty còn phụ thuộc vào tình hình tài chính và quy mô kinh doanh của Công ty để có một mức chi phí hợp lý. Phương thức tiêu thụ chưa phong phú đa dạng: với điều kiện như hiện nay Công ty có thể phát triển mạnh phương thức bán lẻ, hợp đồng thương mại, ký gửi đại lý... trên một phạm vi rộng. Bên cạnh đó, Công ty chưa đáp ứng được một cách hài hoà các phương thức tiêu thụ. 2. Kết quả hoạt động tiêu thụ theo tổng trị giá và kết cấu mặt hàng kinh doanh. Một doanh nghiệp thường sản xuất kinh doanh nhiều mặt hàng, mỗi mặt hàng, nhóm hàng có đặc điểm kinh tế, kỹ thuật khác nhau trong sản xuất kinh doanh đáp ứng những nhu cầu tiêu dùng cũng như doanh thu đạt được rất khác nhau. Mặt khác, trong những mặt hàng, nhóm hàng mà doanh nghiệp sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp cần tìm ra những mặt hàng chủ yếu, đó là những mặt hàng, nhóm hàng có khả năng và lợi thế cạnh tranh trong kinh doanh, mang lại hiệu quả kinh tế cao. Do vậy, phân tích hoạt động tiêu thụ trong doanh nghiệp cần phải phân tích chi tiết theo từng mặt hàng, nhóm hàng, qua đó, thấy được sự biến đổi tăng, giảm và xu hướng phát triển của chúng làm cơ sở cho việc hoạch định chiến lược đầu tư trong những mặt hàng, nhóm hàng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Căn cứ vào bảng số liệu phân tích tình hình tiêu thụ sản phẩm theo mặt hàng của Công ty, ta có những nhận xét về doanh thu tiêu thụ của Công ty qua 3 năm 2000, 2001, 2002 như sau: nhìn chung, doanh thu tiêu thụ của Công ty tăng dần qua các năm, năm 2001, tổng doanh thu tiêu thụ đạt 10.222 triệu đồng, tăng 532 triệu đồng so với năm 2000, với tỷ lệ tăng tương ứng là 5,49%, năm 2002, doanh thu đạt 11.500 triệu đồng, tăng 1.278 triệu đồng so với năm 2001 với tỷ lệ tăng tương ứng là 12,5%. Cụ thể: Mặt hàng xốp chèn đèn hình: năm 2000, doanh thu đạt 2199,63 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 22,7%, năm 2001 đạt 1907,7 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 18,66%. Như vậy, doanh thu của mặt hàng xốp chèn đèn hình năm 2001 giảm 291,93 triệu đồng so với năm 2000, với tỷ lệ giảm là 13,27%, đến năm 2002, doanh thu lại tăng 683,3 triệu đồng so với 2001, với tỷ lệ tăng là 35,82%. Xốp chèn tivi: năm 2000 đạt doanh thu 1579,47 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 16,3%, năm 2001, doanh thu đạt 1817,8 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 17,78% và đến năm 2002, doanh thu đạt 3,170 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 27,57%. So với năm 2000 thì doanh thu năm 2001 tăng 283,3 triệu đồng với tỷ lệ tăng 15,09% và năm 2002 thì đã tăng một cách kỷ lục so với năm 2001, doanh thu tăng 1352,2 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 74,39%. Xốp chèn tủ lạnh: doanh thu của mặt hàng này tăng dần qua các năm, năm 2000, doanh thu đạt 2664,75 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 27,5%, năm 2001 đạt 2879,1 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 28,17%, năm 2002 đạt 2912,1 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 25,32%. Như vậy, doanh thu của xốp chèn tủ lạnh năm 2001 so với 2000 tăng 214,37 triệu đồng với tỷ lệ tăng là 8,04%, doa

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37076.doc
Tài liệu liên quan