Từ năm 1999, công cụ dự trữ bắt buộc được áp dụng mở rộng thêm với
các đối tượng là ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín
dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0% đến 20%, và đặc biệt số tiền dự trữ bắt
buộc được tính bình quân trên số dư tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước trong
kỳ duy trì. Theo đó, các tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn
trước đây, đồng thời ngân hàng Nhà nước có thể dự đoánđược nhu cầu dự
trữ của các tổ chức tín dụng, tăng khả năng kiểm soát của ngân hàng Nhà
nước
65 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1691 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cộng tác kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ực thực
phẩm trong các năm 1994,1995 và 1998 sẽ làm cho chỉ số tiêu dùng thể hiện
đúng hơn xu hướng vận động của lạm phát.
2.1.2.2.2 Biện pháp kiểm soát lạm phát giai đoạn 1992-1999
- Đối với chính sách tiền tệ:
Nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của hệ thống ngân hàng và kiểm
soát lạm phát, Nhà nước cũng đã tiến hành cải tổ hệ thống ngân hàng theo
hướng gần giống với hệ thống ngân hàng hiện đại. Việc cải tổ hệ thống ngân
hàng lần này được đánh dấu bằng việc tách chức năng quản lý ngân quỹ của
nhà nước ra khỏi Ngân hàng Nhà nước, tức tách kho bạc ra ngoài hệ thống
- 29 -
ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước chỉ đóng vai trò quản lý Nhà nước về hoạt
động tiền tệ, tín dụng, ngân hàng trong cả nước, không trực tiếp tham gia
kinh doanh với dân chúng. Với hệ thống ngân hàng mới này, Ngân hàng Nhà
nước Việt Nam có điều kiện thuận lợi để sử dụng linh hoạt các công cụ
chính sách tiền tệ để kiểm soát cung ứng tiền tệ trong nền kinh tế, và tăng
cường công tác quản lý đối với các ngân hàng, tổ chức tín dụng, qua đó góp
phần kiểm soát được lạm phát và hỗ trợ cho mục tiêu tăng trướng kinh tế.
+ Đối với công cụ dự trữ bắt buộc: được chính thức sử dụng từ năm
1992, ban đầu, tiền dự trữ bắt buộc được duy trì tại một tài khoản riêng và tỷ
lệ dự trữ bắt buộc là 10% trên toàn bộ tiền gửi của các tổ chức tín dụng.
Theo đó, vai trò của công cụ dự trữ bắt buộc là để đảm bảo khả năng thanh
toán và kiểm soát cung ứng tiền. Năm 1995 công cụ dự trữ bắt buộc đã được
đổi mới với một số quy định chủ yếu như tiền gửi dự trữ bắt buộc và tiền gửi
thanh toán được thống nhất vào một tài khoản, tỷ lệ dự trữ bắt buộc là 10%
áp dụng cho các loại tiền gửi dưới một năm, và trong cơ cấu tiền dự trữ bắt
buộc có 70% phải gửi tại Ngân hàng Nhà nước và các tổ chức tín dụng phải
thường xuyên duy trì đầy đủ số tiền dự trữ bắt buộc gửi tại Ngân hàng Nhà
nước. Với cách thức quản lý dự trữ bắt buộc như vậy, Ngân hàng Nhà nước
có thể dự báo nhu cầu dự trữ của các tổ chức tín dụng thông qua theo dõi
mức dự trữ vượt. Tuy nhiên, việc khống chế theo ngày cùng với sự phát triển
của thị trường tiền tệ ở mức độ thấp khiến cho công cụ này trở nên cứng
nhắc, các tổ chức tín dụng luôn để dự trữ vượt, hạn chế khả năng sử dụng
vốn hiệu quả của mình.
Từ năm 1999, công cụ dự trữ bắt buộc được áp dụng mở rộng thêm với
các đối tượng là ngân hàng hợp tác, quỹ tín dụng nhân dân, hợp tác xã tín
dụng, tỷ lệ dự trữ bắt buộc từ 0% đến 20%, và đặc biệt số tiền dự trữ bắt
buộc được tính bình quân trên số dư tiền gửi tại Ngân hàng Nhà nước trong
kỳ duy trì. Theo đó, các tổ chức tín dụng có thể điều hành vốn linh hoạt hơn
trước đây, đồng thời ngân hàng Nhà nước có thể dự đoán được nhu cầu dự
trữ của các tổ chức tín dụng, tăng khả năng kiểm soát của ngân hàng Nhà
nước.
+ Đối với lãi suất tín dụng: năm 1992, ngân hàng Nhà nước đã thực hiện
một bước chuyển đổi quan trọng, chuyển từ chính sách lãi suất âm sang
chính sách lãi suất dương. Việc chuyển đổi này là bước khởi đầu, tạo cơ sở
cho việc theo đuổi mục tiêu tự do hoá lãi suất, tạo đòn bẩy cho các ngân
hàng thương mại chuyển hoạt động kinh doanh từ thua lỗ sang có lãi. Điều
này đã làm giảm bớt được các khoản chi bù lỗ tín dụng từ ngân sách Nhà
nước.
- 30 -
Năm 1996, Ngân hàng Nhà nước thực hiện tự do hoá lãi suất tiền gửi
VND và quy định trần lãi suất cho vay. Việc chỉ khống chế lãi suất cho vay
tối đa, không quy định lãi suất tiền gửi nhằm hoàn thiện công cụ lãi suất tiến
tới mục tiêu tự do hoá lãi suất và phù hợp với sự phát triển của các công cụ
kiểm soát tiền tệ hiện có.
Từ những năm 1997, 1998 cuộc khủng hoảng tài chính trong khu vực và
thế giới đã làm cho luồng vốn đầu tư nước ngoài bị giảm sút, tình hình này
buộc các tổ chức tín dụng phải nâng lãi suất tiền gửi để tăng nguồn vốn huy
động lên, đồng thời, lãi suất cho vay cũng được hạ dần xuống để phù hợp với
khả năng hấp thụ vốn và hiệu quả kinh doanh của doanh nghiệp.
+ Đa dạng hoá các loại hình ngân hàng thương mại nhằm nâng cao chất
lượng tín dụng và khả năng kinh doanh tiền tệ của hệ thống ngân hàng, qua
đó, thúc đẩy việc thanh toán không dùng tiền mặt và thu hút được nhiều
nguồn vốn trong và ngoài nước phục vụ cho đầu tư phát triển kinh tế.
+ Kiểm soát chặt chẽ việc cho vay tín dụng đối với các doanh nghiệp
Nhà nước, theo đó hạn chế vay tín dụng đối với các doanh nghiệp làm ăn
kém hiệu quả, chậm trả nợ vay đồng thời mở rộng dần các khoản cho vay
đối với các thành phần kinh tế khác. Kết quả là tỷ trọng các khoản dư nợ cho
vay đối với doanh nghiệp Nhà nước đã giảm dần, từ chỗ chiếm 90% tổng dư
nợ của các ngân hàng thương mại năm 1990 đã giảm xuống còn 48% vào
năm 1999, trong khi tỷ trọng cho vay đối với khu vực ngoài quốc doanh tăng
lên từ 10% năm 1991 lên 52% vào năm 1999. Điều này đã góp phần làm
lành mạnh hoá hoạt động của ngân hàng, nâng cao hiệu quả của việc cho
vay tín dụng cũng như hiệu quả sử dụng vốn vay của doanh nghiệp.
- Đối với chính sách tài khoá:
Nhà nước đã thực hiện hàng loạt cải cách để lành mạnh hoá chi ngân
sách Nhà nước và đổi mới chính sách thuế cho phù hợp với cơ chế kinh tế thị
trường. Theo đó, các khoản chi tiêu ngân sách Nhà nước đã được phân định
thành hai loại là chi thường xuyên để duy trì hoạt động của bộ máy quản lý
Nhà nước và chi đầu tư để phát triển sản xuất kinh doanh, và được thực hiện
trên nguyên tắc tiết kiệm các khoản chi tiêu thường xuyên và gia tăng chi
tiêu cho đầu tư phát triển. Trong chi tiêu đầu tư, các khoản cấp phát đầu tư
xây dựng cơ bản cho các công trình phi sản xuất, công trình kinh doanh
không có hiệu quả được loại bỏ dần; các khoản cấp phát vốn lưu động trực
tiếp cho doanh nghiệp Nhà nước cũng giảm và chuyển sang hình thức cho
vay ưu đãi thông qua các quỹ hỗ trợ tài chính. Kiên quyết loại bỏ việc phát
hành tiền để bù đắp thâm hụt ngân sách, thay vào đó sử dụng hình thức tín
dụng Nhà nước để vay vốn trong và ngoài nước.
- 31 -
Đối với thu ngân sách, thực hiện những cải cách toàn diện hệ thống thu
thuế vào ngân sách Nhà nước, với trọng tâm là xoá bỏ hệ thống thu theo cơ
chế kế hoạch tập trung và thiết lập một hệ thống thu thuế mới hiệu quả hơn,
phù hợp với cơ chế thị trường đang hình thành ở nước ta. Yêu cầu cụ thể đặt
ra cho hệ thống thu thuế là phải đảm bảo thuế là nguồn thu cơ bản của ngân
sách Nhà nước, góp phần thực hiện công bằng xã hội, kích thích các thành
phần kinh tế tăng cường cạnh tranh và đầu tư phát triển, có tính pháp luật
cao và trở thành công cụ chủ yếu trong quản lý kinh tế vĩ mô của Nhà nước.
Từ năm 1991 đến 1999, Quốc hội đã ban hành nhiều luật thuế nhằm hình
thành nên một hệ thống thuế mới tương đối hoàn chỉnh phù hợp với sự
chuyển đổi cơ cấu kinh tế như thuế doanh thu, thuế tiêu thụ đặc biệt, thuế lợi
tức, thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao, thuế xuất nhập khẩu thuế
nhà đất,… Đặc điểm nổi bật của các loại thuế mới này là có rất nhiều ưu đãi
về thuế suất đối với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, với mục
đích đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp từ nước ngoài vào Việt Nam.
Hơn nữa, trong quá trình thực hiện, hệ thống thuế đã nhiều lần được sửa
đổi và hoàn thiện theo hướng thu hẹp dần về thuế suất và mở rộng diện chịu
thuế, giảm dần các qui định phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế,
góp phần đảm bảo sự bình đẳng và cạnh tranh lành mạnh giữa các doanh
nghiệp.
Đến năm 1999, lần đầu tiên một loại thuế mới được thực hiện ở Việt
Nam đó là thuế giá trị gia tăng để thay thế cho thuế doanh thu trước đây,
loại thuế này đang được sử dụng phổ biến ở các nước trên thế giới. Với
những cải cách trên, hệ thống thuế đã dần đi vào ổn định, nguồn thu từ thuế
đã trở thành nguồn thu quan trọng cho ngân sách Nhà nước, chiếm tỷ trọng
khoảng 87% tổng thu ngân sách Nhà nước giai đoạn này, trong đó tỷ trọng
thu từ khu vực tư nhân có xu hướng tăng lên. Điều này góp phần làm cân đối
thu chi ngân sách, và đảm bảo duy trì thâm hụt ngân sách ở mức thấp dưới
5% GDP.
- Đối với các chính sách bổ trợ khác: Một vài chính sách khác nhằm kiểm
soát lạm phát và thúc đẩy phát triển kinh tế, bao gồm:
+ Nâng cao hiệu quả hoạt động của các doanh nghiệp Nhà nước, giảm
bớt gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Trong giai đoạn này, Nhà nước đã
thực hiện nhiều đợt cải cách doanh nghiệp Nhà nước mà đáng chú ý nhất là
việc chuyển đổi sở hữu doanh nghiệp Nhà nước sang hình thức cổ phần. Qua
các đợt cải cách này, tuy số lượng các doanh nghiệp đã giảm đáng kể từ
12.300 doanh nghiệp vào năm 1991 đã giảm xuống 5.790 doanh nghiệp vào
năm 1999, nhưng khu vực doanh nghiệp Nhà nước đã có những bước phát
- 32 -
triển đáng kể, cụ thể tỷ lệ đóng góp của doanh nghiệp Nhà nước trong tổng
sản phẩm quốc nội (GDP) tăng từ 36,5% vào năm 1991 lên 40,2% vào năm
1999, mức lợi nhuận trên vốn cũng tăng từ 0,096% năm 1991 lên 0,11% vào
năm 1999.
+ Khuyến khích đầu tư trong nước và thu hút vốn đầu tư nước ngoài.
Hàng loạt các văn bản pháp quy đã được Nhà nước ban hành nhằm tạo ra
một hành lang pháp lý thuận lợi để kích thích kinh tế ngoài quốc doanh phát
triển mạnh mẽ. Kết quả là vốn đầu tư của thành phần kinh tế ngoài quốc
doanh gia tăng đáng kể, số lượng các doanh nghiệp tư nhân, doanh nghiệp có
vốn đầu tư nước ngoài không ngừng tăng lên. Điều này góp phần làm gia
tăng việc làm, gia tăng khối lượng hàng hoá, ấn định giá cả và giảm bớt
gánh nặng về vốn đầu tư cho ngân sách Nhà nước. Điều đáng chú ý trong
giai đoạn này là sự sụt giảm vốn đầu tư nước ngoài vào những năm 1998 và
1999 do ảnh hưởng của cuộc khoảng hoảng tài chính trong khu vực đã tác
động không nhỏ đến đà tăng trưởng kinh tế của đất nước, từ 8,2% vào năm
1997 đã giảm xuống 4,8% vào năm 1999, nền kinh tế có nguy cơ rơi vào tình
trạng suy thoái và giảm phát.
Như vậy, bằng việc thực hiện các biện pháp đồng bộ nêu trên lạm phát
ở Việt Nam đã dần được kiểm soát và có chiều hướng giảm xuống, tạo ra
một môi trường thuận lợi để thu hút đầu tư và phát triển kinh tế. Mặc dù đột
biến tăng cao ở năm 1998 do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính
trong khu vực và sự sụt giảm trong vốn đầu tư nước ngoài, nhưng đến năm
1999 đã giảm xuống ở mức thấp là 0,1%. Những nỗ lực của Việt Nam trong
việc kiểm soát lạm phát giai đoạn này là rất đáng ghi nhận, lạm phát giảm
thấp từ ba con số còn một con số nhưng tốc độ tăng trưởng vẫn được duy trì
và đạt ở mức cao, bình quân trên 7,5% một năm.
2.2. LẠM PHÁT VÀ KIỂM SOÁT LẠM PHÁT GIAI ĐOẠN TỪ NĂM
2000 ĐẾN NAY
2.2.1 Lạm phát giai đoạn từ năm 2000 đến nay
2.2.1.1 Diễn biến tình hình lạm phát và kiểm soát lạm phát
Để tránh tác động của cuộc khủng hoảng tiền tệ châu Aù và đối phó với
tình trạng suy thoái kinh tế, bắt đầu từ năm 1999 Nhà nước đã áp dụng các
biện pháp mạnh để kích cầu như tăng chi tiêu đầu tư, mở rộng tín dụng, trợ
giá xuất khẩu để kích thích nền kinh tế phát triển và các biện pháp này đã
mang lại hiệu quả. Tốc độ tăng trưởng kinh tế đã được phục hồi và liên tục
tăng từ năm 2000 đến nay, với mức tăng bình quân hàng năm là 7,1% (năm
- 33 -
2000 là 6,79%, năm 2001: 6,89%, năm 2002: 7,08%, năm 2003: 7,26% và
năm 2004: 7,7%) (Xem bảng 7).
Tốc độ tăng trưởng kinh tế không ngừng gia tăng, khiến cho tình trạng
lạm phát được phục hồi và gia tăng trở lại, từ -0,6% năm 2000 đã tăng dần
lên 3% vào năm 2003. Tuy nhiên, năm 2004 lạm phát đột ngột tăng tốc, trở
thành mối quan tâm chung cho sự phát triển kinh tế ở nước ta. Chỉ số giá tiêu
dùng năm 2004 tăng 9,5%, là mức tăng giá cao nhất trong 9 năm qua và
cũng là năm đầu tiên kể từ năm 1999 tỷ lê lạm phát vượt ngưỡng do Quốc
hội đề ra (5%), nằm ngoài dự kiến của các nhà họach định chính sách, các
nhà kinh tế và của người dân, mặc dù mức tăng trưởng không có gì đột biến
so với các năm trước đó. Năm 2005, mục tiêu giữ vững chỉ số tăng giá tiêu
dùng cả năm của Việt Nam là 6,5% nhưng đến tháng 9 đầu năm nay, tình
hình lạm phát vẫn tiếp tục tăng cao lên đến 6,8% vượt chỉ tiêu kế hoạch của
Nhà nước ta 0,3%.
Như vậy, tuy vẫn có những biến động thất thường, rõ ràng xu hướng
tăng lên của lạm phát giai đoạn này là phù hợp với quan điểm lý thuyết, thể
hiện một sự đánh đổi giữa tăng trưởng và lạm phát, đó là kích thích tăng
trưởng sẽ làm gia tăng lạm phát. So sánh với tình trạng thiểu phát ở các năm
từ 1999 đến năm 2000, thì xu hướng tăng lạm phát giai đoạn này được xem
như là một nhân tố tích cực, góp phần kích thích kinh tế phát triển.
Bảng 7: Tình hình lạm phát và tăng trưởng giai đoạn 2000 – T9/2005
(2,00)
-
2,00
4,00
6,00
8,00
10,00
CPI (%) (0,60) 0,80 4,00 3,00 9,50 6,80
GDP (%) 6,80 6,89 7,08 7,26 7,70 8,50
2000 2001 2002 2003 2004 9/2005
(Nguồn: Tổng cục thống kê)
- 34 -
Trong các năm 1999-2000, do tình trạng thiểu phát xảy ra đã làm cho
giá cả hàng hoá giảm xuống, điều này có lợi cho người tiêu dùng nhưng lại
làm cho nhiều doanh nghiệp rơi vào tình trạng thua lỗ và phải ngừng hoạt
động. Để đối phó với tình trạng này, các doanh nghiệp đã tiến hành hàng
loạt các biện pháp để cắt giảm chi phí, thu hẹp hoạt động sản xuất kinh
doanh hay chuyển sang đầu tư vào những ngành nghề khác, đặc biệt là dịch
vụ. Kết quả là sản xuất bị thu hẹp, thất nghiệp gia tăng, thu nhập của xã hội
giảm xuống, làm giảm tăng trưởng kinh tế.
Để giải quyết tình trạng trên, Nhà nước đã thực hiện hàng loạt các biện
pháp kích cầu nhằm đẩy mạnh phát triển kinh tế. Kết quả là giá cả đã gia
tăng trở lại chỉ số giá tiêu dùng tăng từ 0,8% năm 2001 lên 4% vào năm
2002, điều này lại thúc đẩy các doanh nghiệp gia tăng sản xuất, vốn đầu tư
tăng lên, thị trường được mở rộng, việc làm gia tăng, thu nhập của người dân
cũng tăng lên làm tăng nhu cầu chi tiêu, do đó, sẽ làm tăng tổng cầu và tiếp
tục kích thích kinh tế phát triển.
Bảng 8: Mô phỏng ảnh hưởng của nhóm hàng hóa đến chỉ số tiêu dùng
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Jan-
01
Apr-
01
Jul-
01
Oct-
01
Jan-
02
Apr-
02
Jul-
02
Oct-
02
Jan-
03
Apr-
03
Jul-
03
Oct-
03
Jan-
04
Apr-
04
Jul-
04
-6
-4
-2
0
2
4
6
8
10
12
14
16
18
20
Các mặt hàng khác
Lương thực, thực phẩm
CPI
Bức tranh toàn cảnh về lạm phát của Việt Nam
(Nguồn: Lạm phát Việt Nam 2004 - Tài liệu IMF)
Tuy nhiên, do sự thay đổi đột biến của chỉ số giá tiêu dùng vào năm
2004 lên đến 9,5% (trong đó nhóm hàng lương thực thực phẩm chiếm tỷ
trọng 47,9% trong rổ hàng hoá lại tăng rất cao, khoảng hơn 15%), và tiếp tục
tăng cao trong các tháng đầu năm 2005, đã làm ảnh hưởng không nhỏ đến sự
ổn định của nền kinh tế xã hội thể hiện qua các mặt sau:
- 35 -
- Giá cả của các mặt hàng lương thực thực phẩm tăng nhanh trong các
tháng đầu năm đã làm cho đời sống của người dân gặp nhiều khó khăn, đặc
biệt là đối với tầng lớp dân cư sống ở nông thôn, những người có thu nhập
thấp và hưởng lương từ ngân sách Nhà nước.
- Giá cả nhiều mặt hàng tiêu dùng cũng tăng giá, cộng với sự biến động
của giá vàng trong nước (bị ảnh hưởng của giá vàng thế giới) đã tạo ra tâm
lý bất ổn về giá trị giảm sút của đồng tiền nội địa, khiến cho người dân
chuyển sang nắm giữ các loại ngoại tệ, vàng và đầu tư vào bất động sản.
Điều này gây áp lực không nhỏ đến việc gia tăng lãi suất tiền gửi của ngân
hàng.
- Giá cả nhiều nhóm hàng nguyên vật liệu đầu vào tăng cao như xăng
dầu (tăng từ 45,6% lên 55% vào 9T/2005), sắt thép, xi măng, nhựa, phân
bón..., cộng với sự tăng giá của các ngành điện, bưu điện, vận chuyển (tăng
9,8% trong 9T/2005) đã làm tăng chi phí sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến
khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp và toàn bộ nền kinh tế.
- Dược phẩm, y tế không ngừng tăng giá gây khó khăn cho người bệnh
mà đa số là người nghèo và người có thu nhập thấp.
- Nguồn thu của ngân sách bị giảm trong khi chi tiêu của ngân sách lại
tăng lên để giảm thuế, trợ giá cho một số mặt hàng nhập khẩu như xăng dầu,
sắt thép, phân bón… làm gia tăng gánh nặng cho ngân sách Nhà nước. Và
cũng chính vì điều này, đã làm cho giá cả một số mặt hàng được trợ giá như
xăng dầu, thấp hơn một số nước trong khu vực như là Campuchia, do đó, làm
gia tăng tình trạng đầu cơ buôn lậu qua biên giới gây thất thoát lớn cho ngân
sách Nhà nước, phá vỡ chủ trương bình ổn giá cả trong nền kinh tế…
Như vậy, với những tác động tiêu cực đã nêu như trên, việc xem xét và
đánh giá một cách đúng đắn nguyên nhân gây ra lạm phát ở giai đoạn này là
rất cần thiết để tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm kiểm soát lạm phát
trong tương lai.
2.2.1.2 Nguyên nhân và biện pháp kiểm soát lạm phát
2.2.1.2.1 Nguyên nhân lạm phát
Theo lý thuyết, có ba nguyên nhân chính dẫn đến lạm phát, đó là do cầu
kéo, do chi phí đẩy và do tăng cung tiền. Lạm phát do cầu kéo là do tốc độ
tăng trưởng của tổng cầu tăng nhanh hơn tốc độ tăng trưởng của tổng cung;
lạm phát chi phí đẩy là do ảnh hưởng những cú sốc về phía cung làm cho chi
phí sản xuất tăng cao, do đó làm tăng giá bán; còn lạm phát do tăng cung
- 36 -
tiền là việc phát hành tiền giấy quá mức vào trong lưu thông làm cho giá trị
của đồng tiền bị mất giá nhanh chóng, kết quả là giá cả tăng lên.
Như vậy, căn cứ vào tình hình thực tế của Việt Nam có thể khẳng định
rằng lạm phát hiện nay không phải là do tăng cung tiền, vì từ năm 1992 Nhà
nước đã chấm dứt việc bù lỗ thâm hụt ngân sách Nhà nước bằng việc phát
hành tiền. Những khoản tiền giấy do ngân hàng Nhà nước phát hành là dựa
vào những tín hiệu thị trường, chứ không phải dựa vào nhu cầu chi tiêu của
ngân sách Nhà nước.
Một lý do nữa, để khẳng định lạm phát hiện nay không phải do nguyên
nhân tăng cung tiền là vì mức độ lạm phát xảy ra ở mức thấp, dưới hai con
số. Nếu lạm phát xảy ra là do tăng cung tiền thì chắc chắn phải từ ba con số
trở lên như ở giai đoạn 1986-1988. Đây là quan điểm chung của hầu hết các
nhà kinh tế cổ điển lẫn hiện đại và đã được kiểm chứng qua thực tế ở nhiều
nước như Đức vào năm 1923, Hungary vào năm 1946, Bolivia vào năm 1985,
Peru vào năm 1988,...và Việt Nam vào những năm 80. Nếu lạm phát không
phải do tăng cung tiền thì chắc chấn là do cầu kéo và chi phí đẩy. Cụ thể:
*. Lạm phát do cầu kéo:
Nguyên nhân chủ yếu của lạm phát cầu kéo ở Việt Nam giai đoạn này
là do chính sách kích cầu của Nhà nước để kích thích phát triển kinh tế. Kết
quả của chính sách kích cầu đó đã làm cho tổng cầu tăng lên một cách nhanh
chóng so với tổng cung dẫn đến giá cả tăng lên. Điều này thể hiện qua các
mặt sau:
- Vốn đầu tư không ngừng gia tăng, từ 115,1 ngàn tỷ đồng năm 2000 đã
tăng lên 186,5 ngàn tỷ đồng vào năm 2004, tức tăng 62,03%, và tăng đều ở
các khu vực kinh tế. Trong đó, nổi bật nhất là sự gia tăng đầu tư của khu vực
tư nhân từ 26,3 ngàn tỷ đồng năm 2000 lên 57,6 ngàn tỷ năm 2004, tức tăng
119%.
Bảng 9: Vốn đầu tư phát triển phân theo thành phần kinh tế 2000 – 2004
Chia ra
Năm Tổng số
KV. kinh tế
Nhà nước
KV. kinh tế tư
nhân
Kinh tế có vốn đầu
tư nước ngoài
Giá so sánh 1994 Tỷ đồng
2000 115.089,0 68.069,6 26.334,7 20.684,7
2001 129.454,5 77.426,3 29.241,4 22.786,8
2002 148.067,1 83.467,2 38.753,7 25.846,2
2003 167.228,0 90.342,7 49.593,5 27.291,8
Sơ bộ 2004 186.555,8 100.061,7 57.594,9 28.899,2
- 37 -
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
- Thâm hụt ngân sách tiếp tục được duy trì qua các năm và có xu hướng
tăng lên, từ 2,8%GDP năm 2000 tăng lên 3,3%GDP trong 9 tháng đầu năm
2005. Điều này chứng tỏ chi tiêu từ ngân sách Nhà nước cũng gia tăng, góp
phần làm tăng tổng cầu.
Bảng 10: Thâm hụt NSNN và bù đắp thâm hụt NSNN 2000 – 2005
Stt Chỉ tiêu 2000 2001 2002 2003 2004 DT2005
1 Thu ngân sách (%GDP) 21,1 22,7 22,9 22,8 27,4 30,0
2 Chi ngân sách (%GDP) 23,9 25,6 24,8 25,1 29,9 33,3
3 Thâm hụt NSNN (%GDP) -2,8 -2,9 -1,9 -2,3 -2,5 -3,3
(Nguồn: Bộ tài chính)
- Về cán cân ngoại thương, tổng kim ngạch xuất nhập khẩu cũng tăng từ
30,12 tỷ đô la năm 2000 lên 58,46 tỷ đô la vào năm 2004, tức tăng 94,1%,
trong đó, xuất khẩu tăng 83,0% và nhập khẩu tăng 104,4%. Như vậy, tốc độ
nhập khẩu tăng nhanh hơn xuất khẩu làm tăng thâm hụt cán cân ngoại
thương. Về mặt lý thuyết điều này sẽ làm giảm tổng cầu. Tuy nhiên, cũng
cần phải nhận thấy rằng, thị trường xuất khẩu mở rộng cũng là một nguyên
nhân gây nên áp lực tăng giá đối với hàng hoá trong nước, vì nhu cầu hàng
xuất khẩu ngày càng cao, sẽ làm cho giá xuất khẩu tăng lên, kéo theo tăng
giá cả hàng hoá nội địa. Điều này dễ dàng nhận thấy ở mặt hàng xuất khẩu
gạo trong thời gian vừa qua, do giá gạo trên thị trường thế giới tăng đã làm
cho giá gạo trong nước tăng theo.
Bảng 11: Tổng giá trị xuất nhập khẩu giai đoạn 2000 –2004
Chia ra
Năm
Tổng số
(tr.USD) Xuất khẩu Nhập khẩu
Thâm hụt
2000 30.119,2 14.482,7 15.636,5 -1.153,8
2001 31.247,1 15.029,2 16.217,9 -1.188,7
2002 36.451,7 16.706,1 19.745,6 -3.039,5
2003 45.405,1 20.149,3 25.255,8 -5.106,5
Sơ bộ 2004 58.458,1 26.504,2 31.953,9 -5.449,7
(Nguồn: Tổng cục Thống kê)
- Giai đoạn 2000 – 2005, chính sách lãi suất từng bước được đổi mới
phù hợp với cơ chế thị trường. Bước đầu lãi suất USD đã được tự do hóa (từ
tháng 06/2001), sau đó đến lãi suất đồng Việt Nam được tự do hóa (tháng
06/2002). Mặc dù chính sách lãi suất được coi là tự do hóa nhưng vẫn tồn tại
- 38 -
lãi suất cơ bản do ngân hàng Nhà nước công bố. Lãi suất cơ bản được áp
dụng từ tháng 08/2000 và được xác định hàng tháng trên cơ sở tham khảo lãi
suất cho vay của 15 ngân hàng thương mại áp dụng với khách hàng tốt nhất.
Bảng 12: Lãi su
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả của cộng tác kiểm soát lạm phát ở Việt Nam hiện nay.pdf