PHẦN MỞ ĐẦU 1
1. Sự cần thiết nghiên cứu 1
2. Mục tiêu cần đạt 1
3. Phạm vi nghiên cứu 1
4. Phương pháp nghiên cứu 1
CHƯƠNG I: NHỮNG VẤN ĐỀ CHUNG VỀ CẠNH TRANH 2
I. KHÁI NIỆM VỀ CẠNH TRANH VÀ NĂNG LỰC CẠNH TRANH 2
1. Cạnh tranh 2
2. Năng lực cạnh tranh 2
ii. những yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp 3
iiI. tình hình và xu hướng cạnh tranh trong nền kinh tế Việt Nam 5
1. Tình hình cạnh tranh trong nền kinh tế Việt Nam thời gian qua 6
1.1. Môi trường cạnh tranh 6
1.2. Tình hình cạnh tranh trong nền kinh tế Việt Nam thời gian qua 7
2. Xu hướng cạnh tranh ở Việt Nam trong giai đoạn đến 2005. 9
2.1. Bối cảnh và xu hướng phát triển kinh tế Việt Nam: 9
2.2. Một số xu hướng cạnh tranh trên thị trường Việt Nam trong thời gian tới. 10
IV. Thực tiễn và kinh nghiệm cạnh tranh của một số tập đoàn/ Công ty viễn thông trên thế giới. 11
1. China Telecom (Trung Quốc) 12
2. Korea Telecom (Hàn Quốc): 14
3. Deutsche Telecom (Đức) 16
Chương iI: Hiện trạng năng lực cạnh tranh của 19
tổng Công ty bưu chính viễn thông Việt Nam 19
I.các yếu tố ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của tổng Công ty 19
1. Các yếu tố thuộc chính sách của Nhà nước 19
1.1. Chủ chương, chính sách 19
1.1.1. Chính sách mở cửa thị trường dịch vụ bưu chính, viễn thông 19
1.1.2. Chính sách hội nhập quốc tế 20
1.1.3. Lộ trình mở cửa thị trường dịch vụ viễn thông của Việt Nam 21
1.2. Môi trường pháp lý 22
2. Các yếu tố về công nghiệp ảnh hưởng đến năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty. 24
2.1. Vai trò của yếu tố con người với những đòi hỏi của hoạt động sản xuất kinh doanh trong cạnh tranh và hội nhập. 24
2.2. Đánh giá chung về thực trạng nguồn nhân lực của Tổng Công ty. 26
3. Các yếu tố về chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ 29
3.1. Về chất lượng dịch vụ 29
3.1.1. Về chất lượng vật lý/ kỹ thuật 29
3.1.2. Về chất lượng phục vụ khách hàng 29
3.2. Về đa dạng hoá dịch vụ 30
4. Về vấn đề chi phí và giá thành 30
5. Các yếu tố về thị trường 31
5.1. Khái quát về việc mở rộng và phát triển thị trường dịch vụ bưu chính viễn thông 31
5.2. Những hạn chế và thách thức của thị trường dịch vụ bưu chính, viễn thông đối với VNPT 32
II. TÌNH HÌNH CẠNH TRANH CỦA TỔNG CÔNG TY BƯU CHÍNH VIỄN THÔNG VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN HOẠT ĐỘNG CUNG CẤP CÁC DỊCH VỤ THỜI GIAN QUA. 33
1. Tình hình cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của VNPT trong hoạt động cung cấp các dịch vụ viễn thông 33
1.1. Cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng 33
1.2. Cạnh tranh cung cấp các dịch vụ viễn thông cơ bản. 35
2. Tình hình cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của VNPT trong hoạt động cung cấp các dịch vụ bưu chính. 38
2.1. Dịch vụ chuyển phát nhanh: 39
2.2. Dịch vụ chuyển tiền nhanh 41
III. XU HƯỚNG HOẠT ĐỘNG CẠNH TRANH CỦA TỔNG CÔNG TY TRONG ĐIỀU KIỆN HỘI NHẬP 43
1. Những thuận lợi và khó khăn của VNPT trong hội nhập kinh tế khu vực và thế giới 43
1.1. Những thuận lợi trong hội nhập quốc tế 45
1.2. Những khó khăn và thách thức 45
2. Cạnh tranh với các Công ty nước ngoài 47
3. Cạnh tranh với các Công ty trong nước: 50
Chương iiI:Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của tổng Công ty bưu chính - 54
viễn thông Việt Nam trong hoạt động cung cấp các dịch vụ bưu chính viễn thông 54
I. các giải pháp đối với hoạt động cung cấp các dịch vụ bưu chính viễn thông 54
1. Nâng cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ 54
1.1. Nâng cao chất lượng vật lý/kỹ thuật của dịch vụ 54
1.2. Nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng 55
1.3. Đa dạng hoá dịch vụ 56
2. Về đào tạo, phát triển và sử dụng nguồn nhân lực để nâng cao năng lực cạnh tranh của các dịch vụ bưu chính, viễn thông 56
2.1. Đào tạo nguồn nhân lực hướng tới nền kinh tế tri thức 57
2.2. Cải cách một cách căn bản hệ thống chế độ tiền lương và đãi ngộ 58
3. Giải pháp về giảm chi phí và hạ giá thành 59
4. Các giải pháp về mở rộng và phát triển thị trường dịch vụ bưu chính viễn thông. 60
4.1. Những giải pháp chung: 60
4.2. Giải pháp trong lĩnh vực Bưu chính - Phát hành Báo chí 62
4.3. Giải pháp trong lĩnh vực thị trường viễn thông: 64
III. NHỮNG KIẾN NGHỊ VỚI NHÀ NƯỚC VÀ TỔNG CÔNG TY. 65
1. Những kiến nghị với Nhà nước 65
2. Những kiến nghị với Tổng Công ty. 66
2.1. Quán triệt nhận thức về cạnh tranh và hội nhập cho người lao động 66
2.2. Thành lập bộ phận hoặc nhóm nghiên cứu về cạnh tranh và hội nhập quốc tế. 67
2.3. Xác định chiến lược cạnh tranh. 67
2.4. Tổ chức lại các doanh nghiệp để tạo môi trường cạnh tranh và kinh nghiệm cạnh tranh thực sự. 67
KẾT LUẬN 70
TÀI LIỆU THAM KHẢO 71
75 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1274 | Lượt tải: 4
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iều sự lựa chọn hơn, ví dụ như dịch vụ di động, hội nghị truyền hình, nhắn tin hiển thị số, chuyển tiền nhanh, tiết kiệm bưu điện, datapost, e-mail... Với ưu thế tuyệt đối về kênh phân phối và mạng lưới viễn thông, Tổng Công ty bưu chính viễn thông Việt Nam không chỉ phát triển đa dạng dịch vụ mà còn triển khai trên diện rộng, hỗ trợ cho các ngành công nghiệp thông tin khác. Tuy nhiên, việc đa dạng hoá các loại dịch vụ trong thời gian qua còn chưa theo kịp nhu cầu của xã hội. Nguyên nhân không hẳn do năng lực mạng lưới mà do chưa được tập trung khai thác kịp thời, triệt để trước nhu cầu còn hạn chế và không đồng đều.
4. Về vấn đề chi phí và giá thành
Trong bối cảnh cạnh tranh và hội nhập, ngoài việc nâng cao chất lượng và đa dạng hoá dịch vụ, giá cả cũng là yếu tố đặc biệt ảnh hưởng tới quyết định mua của khách hàng. Suy cho cùng, để có thể có được các mức giá cước cạnh tranh thì phải làm sao giảm được chi phí cho sản xuất, từ đó hạ giá thành làm căn cứ định giá bán. Thực tế và kinh nghiệm cho thấy, trong cạnh tranh giá cước phải thực sự phù hợp với các quan hệ cung cầu trong xã hội và giảm chi phí, hạ giá thành luôn là câu hỏi lớn đối với doanh nghiệp. Mấu chốt chính và vấn đề năng suất lao động.
Nếu như khó khăn lúc ban đầu mới thành lập là vốn, nhân lực, cơ sở vật chất kỹ thuật, thì sau đó khi đã định hình trong cơ chế thị trường và môi trường cạnh tranh, yếu tố quyết định đến sự lựa chọn của khách hàng là chất lượng và giá cả. Thời gian qua, việc xác định chi phí và giá thành các dịch vụ bưu chính viễn thông chưa được chính xác do phương pháp tính toán với các hệ số không còn phù hợp. Hơn nữa, do không hạch toán riêng được các dịch vụ và chưa có cơ chế xác định đúng chi phí hợp lý nên gây khó khăn cho công tác xây dựng giá, cước.
Trên thị trường hiện nay chủ yếu vẫn là các doanh nghiệp trong nước trực tiếp tham gia khai thác cá dịch vụ bưu chính, viễn thông dưới nhiều hình thức khác nhau. Sự cạnh tranh về giá, cước trên thị trường tuy đã có nhưng chưa đến thời kỳ gay gắt vì vẫn chưa thực sự phải đối đầu với trình độ quản lý, trình độ kỹ thuật và công nghệ của các Công ty nước ngoài. Nhưng với sức ép của các hiệp định song phương và đa phương đã và sẽ ký kết, vấn đề chi phí và giá thành các dịch vụ cần phải được xác định một cách rõ ràng để làm cơ sở xây dựng hệ thống giá, cước ứng phó với cạnh tranh. Có như vậy, mới có cơ sở để phân chia cước phí, để xác định kết quả kinh doanh của từng doanh nghiệp và nhất là để tạo động lực cho bản thân doanh nghiệp tìm biện pháp hạ giá thành.
5. Các yếu tố về thị trường
5.1. Khái quát về việc mở rộng và phát triển thị trường dịch vụ bưu chính viễn thông
Những năm qua, Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã có những thành tựu đáng kể trong việ mở rộng và phát triển thị trường cung cấp dịch vụ bưu chính, viễn thông, đặc biệt là hai giai đoạn tăng tốc. Tốc độ tăng doanh thu trung bình hàng năm vào khoảng 30-35%, trong đó thị trường các dịch vụ viễn thông có tốc độ tăng nhanh hơn các dịch vụ bưu chính và chủ yếu tập trung vào các dịch vụ mới, các dịch vụ có tính thương mại cao như chuyển tiền nhanh, phát chuyển nhanh, điện thoại di động...
Trong hai năm 1998-1999, do nhiều nguyên nhân, tốc độ tăng trưởng tuy có chậm hơn nhưng kết quả 11 tháng đầu năm 2000 cho thấy những dấu hiệu trở lại tốc độ của những năm trước. Cạnh tranh xuất hiện và có xu hướng quyết liệt dần lên. Tuy nhiên, Tổng công ty vẫn là đầu mối cung cấp các dịch vụ có tính chất công ích và "đảm nhiệm" ở các vùng thị trường khó khăn. Với đặc điểm gần 80% dân số Việt Nam sống ở nông thôn, đến nay thị trường này vẫn còn nhiều khả năng khai thác, mặc dù tốc độ tăng trưởng hiện chưa cao.
5.2. Những hạn chế và thách thức của thị trường dịch vụ bưu chính, viễn thông đối với VNPT
Việc đánh giá về hiện trạng thị trường dịch vụ bưu chính viễn thông Việt Nam đã được nghiên cứu tương đối tổng quát trong một đề tài năm trước của Việc. Vì vậy, nhóm nghiên cứu chúng tôi chỉ nhìn nhận lại một cách khái quát về những điểm còn tồn tại, vướng mắc có liên quan đến vấn đề thị trường để làm cơ sở cho việc nâng cao năng lực cạnh tranh của Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam.
Thứ nhất, công tác quản lý dịch vụ mới chỉ dừng lại ở nghiệp vụ khai thác và cung cấp dịch vụ trên mạng. Chính sách phát triển dịch vụ còn chưa tương xứng với quy mô và trình độ của mạng lưới. Các hoạt động nghiên cứu về khả năng thoả mãn nhu cầu khách hàng, nâng cao hiệu suất sử dụng mạng chưa được quan tâm đúng mức làm ảnh hưởng đến chất lượng dịch vụ và việc đa dạng hoá chủng loại dịch vụ.
Thứ hai, giá cước các dịch vụ bưu chính, viễn thông hầu hết do Chính phủ quản lý và quy định, việc điều chỉnh giá, cước bưu chính viễn thông thường chậm và thấp hơn mặt bằng xã hội. Các mức cước của một số dịch vụ còn thấp hơn giá thành. Cơ cấu, chế độ tính cước và thu cước hiện nay thiếu chính xác, chưa rõ ràng và chưa thống nhất gây ra tình trạng khiếu kiện của khách hàng.
Thứ ba, chỉ tiêu phục vụ bình quân và mật độ điện thoại vẫn còn thấp so với các nước trong khu vực, mặc dù mạng bưu chính viễn thông Việt Nam đã được đầu tư phát triển nhanh trong những năm qua. Tình trạng mạng lưới chưa được đồng bộ, nhất là khâu khai thác bưu chính chủ yếu là thủ công, bán tự động làm ảnh hưởng đến chất lượng hoạt động phân phối, bán hàng. Còn thiếu các phương tiện vận chuyển chuyên dùng, đặc biệt là vùng sâu, vùng xa hẻo lánh.
Thứ tư, sản lượng các dịch vụ bưu chính truyền thống tăng chậm, chất lượng dịch vụ còn thấp so với yêu cầu của khách hàng. Quy mô phục vụ của các dịch vụ có chất lượng cao, sử dụng công nghệ hiện đại, dịch vụ giá trị gia tăng còn hạn chế.
Thứ năm, về công tác marketing, các hoạt động tuyên truyền quảng cáo mới tập trung vào việc giới thiệu dịch vụ hoặc hình ảnh của các đơn vị, chưa khai thác được tâm lý hoặc hấp dẫn khách hàng bằng chính sự tiện ích khi sử dụng dịch vụ. Vấn đề nghiên cứu thị trường chưa được thực hiện thường xuyên và thống nhất nên chưa nắm bắt kịp thời và dự báo kịp thời nhu cầu thị trường.
II. Tình hình cạnh tranh của tổng Công ty bưu chính viễn thông Việt Nam trong giai đoạn hoạt động cung cấp các dịch vụ thời gian qua.
1. Tình hình cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của VNPT trong hoạt động cung cấp các dịch vụ viễn thông
Cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ viễn thông là chủ đề được tất cả các nước, các diễn đàn mậu dịch và viễn thông quốc tế cũng như khu vực quan tâm thảo luận nhiều nhất, do đây là một trong các thị trường dịch vụ sinh lợi cao. Theo đánh giá của Liên minh Viễn thông Quốc tế (ITO), hàng năm, các dịch vụ viễn thông đóng góp ít nhất 1,5% GDP của mỗi nước, và cứ đầu tư 1 USD vào viễn thông sẽ sinh ra 3 USD trong các lĩnh vực kinh tế khác. Điều đó lý giải tại sao ngày nay, dịch vụ viễn thông đang trở thành đối tượng đàm phán quan trọng trong các cuộc thương thảo thương mại quốc tế và khu vực.
Các dịch vụ viễn thông được phân thành dịch vụ cơ bản và dịch vụ giá trị gia tăng. Do mỗi lĩnh vực có đặc thù riêng, sức cạnh tranh của VNPT ở các lĩnh vực này cũng thể hiện dưới các mức độ và góc độ khác nhau.
1.1. Cạnh tranh trong cung cấp các dịch vụ giá trị gia tăng
Trong số các dịch vụ giá trị gia tăng, chúng tôi xét đến Internet vì Internet là dịch vụ hiện đang hết sức sôi động kể cả trong việc khai thác của người sử dụng cũng như cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ. Tuy là loại hình dịch vụ viễn thông mới xuất hiện so với các dịch vụ viễn thông cố định và di động, nhưng với những ưu thế vượt trội về khả năng cung cấp thông tin tức thời và đa dạng, chi phí đầu tư thấp hơn nên dịch vụ Internet phát triển ngày càng mạnh mẽ.
Năm 1997 Tổng cục Bưu điện đã cấp 5 giấy phép cung cấp dịch vụ Internet cho VNPT, NETNAM, FPT, SPT và Vietel. Xét dưới góc độ số lượng thuê bao, đến cuối tháng 11/2000 VNPT chiếm 60% thị phần, FPT chiếm 30,3% thị phần, SPT chiếm 5,7% và NETNAM chiếm 4% thị phần còn lại trong khi Vietel vẫn chưa triển khai cung cấp dịch vụ. Từ khi bắt đầu hoạt động cho tới nay, VNPT luôn là doanh nghiệp dẫn đầu trên thị trường dịch vụ Internet. VNPT đạt được ưu thế này do một số nguyên nhân chủ yếu sau:
1. VNPT là doanh nghiệp có bề dày truyền thống trên thị trường, có mạng lưới phát triển rộng khắp trên cả nước với đội ngũ cán bộ công nhân hùng hậu, có khả năng cung cấp dịch vụ trên phạm vi địa lý rộng.
2. Ngoài giấy phép cung cấp dịch vụ Internet (ISP), VNPT còn là nhà cung cấp dịch vụ truy nhập Internet (IAP), chịu trách nhiệm quản lý mạng đường trục Internet. Các ISP khác khi cung cấp dịch vụ phải thê cổng Internet và các kênh của VNPT.
3. VNPT hiện có node truy nhập Internet trực tiếp tại 44 tỉnh, thành nên có nhiều thuận lợi hơn khi phát triển thuê bao Internet vì cơ chế tính cước Internet hiện nay là tính cước sử dụng vấn đề điện thoại riêng, cước truy nhập Internet riêng. Do VNPT có node truy nhập trực tiếp nên chất lượng mạng dẫn đầu, hơn hẳn các ISP khác và khi sử dụng dịch vụ Internet của VNPT ở các tỉnh này, thuê bao chỉ phải trả cước điện thoại nội hạt để truy nhập Internet.
Tuy nhiên, số liệu thống kê từ đầu năm 2000 tới nay cho thấy dù số thuê bao vẫn tăng nhưng thị trường của VNPT đang bắt đầu có xu hướng bị thu hẹp lại (đến 31/10/2000 trung bình mỗi tháng thị phần của VNPT giảm khoảng 0,5%, từ 65% vào cuối năm 1999 hiện còn 60%), trong khi thị phần của FPT lại tăng lên (từ 27% vào cuối năm 1999 lên 30,3% vào 31/10/2000). Thị phần của Netnam giữ ở mức 3,5%-4%, Saigon Postel đang tăng dần (hiện tại chiếm 5,7%). Điều này cho thấy bức tranh cạnh tranh trên thị trường cung cấp dịch vụ Internet đã có những động thái mới. Để lý giải vấn đề này, ta có thể thấy một số nguyên nhân sau:
- Về chính sách quản lý khai thác: Theo quy định tạo quyết định số 4883/1997/QDVT của Tổng giám đốc Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam ban hành "Quy định về quản lý và khai thác dịch vụ Internet", việc quản lý và khai thác dịch vụ Internet của VNPT được phân công giữa các ban chức năng, các Bưu điện tỉnh, thành phố và VDC.
Việc phân công trách nhiệm trong nội bộ VNPT dẫn tới việc các hoạt động tiếp thị và hậu mãi kém năng động và linh hoạt (đây là điểm mà FPT nhận thấy và đầu tư mạnh để giành khách hàng), các đơn vị chưa thực sự chủ động trong phát triển và quản lý thuê bao Internet, trong khi bộ máy kinh doanh của các ISP khác khá gọn nhẹ.
- Về chính sách phát triển dịch vụ: VNPT đã có nhiều biện pháp nhằm tăng số lượng thuê bao Internet thông qua các chiến dịch tiếp thị và khuyến mại, tuy nhiên có thể một phần do dịch vụ Internet được các Bưu điện tỉnh, thành cung cấp đồng thời với nhiều dịch vụ khác nên việc phát triển Internet chưa được quan tâm như đối với các ISP khác, nhất là FPT. Chính vì vậy, giới công nghệ thông tin biết rất rõ về VDC chưa tận dụng triệt để mọi cơ hội để tuyên truyền hình ảnh của mình cho đông đảo khách hàng.
- Về công tác chăm sóc khách hàng: Do việc cung cấp dịch vụ Internet của VNPT không tập trung bào một đầu mối mà được phân chia trách nhiệm nên dẫn đến việc phối hợp giữa các đơn vị chức năng trong hoạt động chăm sóc khách hàng không được nhịp nhàng, chưa làm hài lòng khách hàng khi họ muốn liên hệ với nhân viên phụ trách để giải đáp các thắc măchính sách.
- Về trình độ đội ngũ lao động kỹ thuật: Trình độ đội ngũ lao động kỹ thuật của VDC và FPT thì tương đương nhau hoặc chênh lệch một chút, nhưng về số lượng lao động có tay nghề cao thì giới công nghệ thông tin và giới b áo chí đều đánh giá là FPT nhiều hơn, mạnh hơn VDC. Cung cách làm ăn của VDC chưa linh hoạt và nhạy bén, bằng FPT. Điều dễ dàng nhận thấy là thời gian, số lượng thông tin quảng cáo của FPT thường xuyên, liên tục và lâu dài trên phạm vi rộng (trong nước, một số nước trong khu vực và thế giới). Công tác tiếp thị, khuyến mãi của FPT có sức thu hút, hấp dẫn do đánh đúng vào tâm lý người tiêu dùng như miễn, giảm cước, tặng quà cho khách hàng. Trong khi VDc cũng có nhiều hoạt động lớn nhưng lại được thông tin quảng cáo quá ngắn ngủi, ít ỏi và đơn điệu. Hiệndv Internet Card của FPT (cũng tương tự như điện thoại thẻ) cũng là một hướng thu hút khách hàng tốt.
Như đã nêu ở trên, VCPT hiện đang là doanh nghiệp dẫn đầu trong số các đơn vị cung cấp dịch vụ Internet. Tuy nhiên, việc đánh giá này là dựa vào số lượng thuê bao chứ chưa đánh giá trên doanh thu/lợi nhuận vì VNPT đang thực hiện cơ chế hạch toán chung các dịch vụ và chưa có số liệu chính thức về doanh thu của các ISP khác. Do vậy, toàn cảnh thị phần sẽ có thể có những sai khác đi nếu chúng ta đánh giá dưới góc độ doanh thu/lợi nhuận. Dù sao cũng phải thừa nhận một điều là trong cơ chế thị trường, khách hàng là thượng đế, do đó họ sẽ có xu hướng chuyển sang sử dụng dịch vụ của nhà cung cấp làm vừa lòng họ hơn.
1.2. Cạnh tranh cung cấp các dịch vụ viễn thông cơ bản.
Năm 1998 Tổng cục Bưu điện đã cấp phép thêm cho Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội (Vietel) và Công ty Cổ phần Dịch vụ Bưu chính Viễn thông Sài Gòn (SPT) được cung cấp dịch vụ Internet và 4 loại dịch vụ cơ bản gồm điện thoại mạch vòng vô tuyến nội hạt (WLL), trung kế vô tuyến, nhắn tin di động và gần đây 2 Công ty này cũng đã có giấy phép khai thác dịch vụ đường dài trong nước (đang xin phép đối với dịch vụ quốc tế). Tuy nhiên, do một số nguyên nhân chủ quan và khách quan, trong đó lý do quan trọng nhất là thiếu vốn đầu tư, hai doanh nghiệp này mới chỉ triển khai một số giấy phép. Công ty Điện tử Viễn thông Quân đội ban đầu chỉ cung cấp dịch vụ trung kế vô tuyến, số lượng thuê bao rất ít. Có thể nhận thấy rằng trong tương lai, dịch vụ này có khả năng phát triển được do thị trường không còn nhu cầu vì đối tượng sử dụng dịch vụ chủ yếu là các hãng taxi thì các hãng này đều đã có mạng trung kế riêng. Dịch vụ điện thoại đường dài tuyến Hà nội - thành phố Hồ Chí Minh được thử nghiệm từ tháng 10-2000 của Vietel đang có dấu hiệu tốt (chúng tôi phân tích sâu hơn ở mục 3, phần III, chương này). Điện thoại di động với tính năng vô cùng ưu việt, trên thị trường hiện nay không chỉ sôi động từ phía sử dụng của khách hàng, mà gần đây đang có nhiều biến động đáng chú ý liên quan đến vị thế cạnh tranh của các hãng.
Tính đến thời điểm này, dù có mặt song Call Link dường như không được khách hàng yêu thích do phạm vi phủ sóng hẹp và chất lưoựng chưa tốt. VMS và GPC đang cùng chiếm lĩnh thị trường này và đều có các chiến lược kinh doanh được xây dựng trên cơ sở thị trường còn rất nhiều tiềm năng. Đành rằng là con một nhà song hai anh em họ cũng đang thực sự cạnh tranh với nhau.
Liên doanh với Tập đoàn Comvik, mạng MobiFone thuộc VMS ra đời trước Vinaphone 3 năm và đã chiếm lĩnh hầu hết mảng thị trường ở các đô thị lớn, có mức mua cao nhất. Trước đây, lợi thế của Vinaphone chính là diện phủ sóng lớn (61 tỉnh thành), còn sóng của MobiFone chưa đến được những vùng xa. Chất lượng cuộc gọi của mạng VinaFone trước đây được đánh giá là chưa thực sự bằng với MobiFone. Nhưng với quyết tâm cạnh tranh với nhau, đến nay họ đều tương đương về lợi thế. Hiện tại, tổng số thuê bao cũng như phát triển thuê bao mới của Công ty GPC đều cao hơn VMS. Tính đến cuối tháng 10-2000, mạng VinaFone đã đạt 353.821 thuê bao, còn MobiFone là 305.198 thuê bao, trong đó thuê bao dùng card đều chiếm hơn một nửa. Dễ dàng nhận thấy là việc chăm sóc khách hàng và các hoạt động quảng cáo khuyến mãi của cả hai Công ty đều rất được tập trung và là điển hình nhất trong số các dịch vụ bưu chính, viễn thông hiện nay. VMS và GPC đều chú trọng việc nâng cao chất lượng mạng lưới và cải tiến đưa vào áp dụng các dịch vụ mới, dịch vụ cộng thêm với các tính năng thuận lợi cho khách hàng hơn.
Tuy nhiên, nhiều ý kiến cho rằng, "đại gia" này không cần phải cạnh tranh với nhau, điều này không chỉ bởi VMS và GPC đều là thành viên của VNPT, mà do thị trường điện thoại di động ở nước ta còn đang tăng trưởng rất nhanh. Ví dụ, năm nay, chúng ta dự kiến phát triển thêm 600.000 thuê bao điện thoại, nhưng chỉ đến ngày 18/10/2000 vừa qua đã đạt 622.205 thuê bao, tăng 175% so với cùng kỳ năm trước. Trên thực tế, VNPT để cho hai Công ty này hoạt động độc lập, nhưng thực chất chỉ là sự độc lập tương đối, nên chưa thể nói là đã có các hoạt động cạnh tranh thực sự và bình đẳng. Các Công ty mới chỉ cạnh tranh với nhau về quà khuyến mại, dịch vụ hậu mãi là chủ yếu vì giá cước như nhau do VNPT quy định chung.
Vietel dù có giấy phép nhưng đến nay vẫn chưa triển khai dịch vụ này. Với tiềm lực tài chính hiện giờ, cả Vietel và Saigon Postel (SPT) không thể đầu tư xây dựng mạng lưới hạ tầng viễn thông hoàn hảo để kinh doanh cạnh tranh với VMS và GPC của VNPT. Tuy vậy, SPT đang tiến vào thị trường di động với công nghệ mới - công nghệ CDMA cho phép truyền dữ liệu tốc độ cao và hình ảnh màu khi nói chuyện. Ngày 10/10/2000, Saigon Postel đã ký hợp đồng hợp tác kinh doanh (BCC) với SLD Telecom (Hàn Quốc) về công nghệ CDMA. Việc cạnh tranh giữa 4 mạng điện thoại di động VinaFone, MobiFone, Call Link và SPT sẽ làm cho thị trường sôi động hơn. Và tất nhiên, khách hàng sẽ là những người được lợi.
Trên cơ sở hợp đồng này, hai bên sẽ xây dựng, khai thác và phát triển mạng để cung cấp các dịch vụ di động, dịch vụ vô tuyến cố định và các dịch vụ giá trị gia tăng sử dụng công nghệ CDMA. Kế hoạch phủ sóng bao gồm 2 giai đoạn trong 5 năm và mục tiêu của hợp đồng đặt ra là đạt được 700.000-1.000.000 thuê bao. Theo dự kiến, dịch vụ di động sử dụng công nghệ CDMA sẽ có trong 7 tháng nữa.
Mặc dù là "người đến muộn" trên thị trường di động nhưng SPT lại có ưu thế của công nghệ mới và tiên tiến, có khả năng cung cấp dịch vụ với chất lượng cuộc gọi cao và nhiều dịch vụ cộng thêm cho máy di động. Như vậy, đối thủ cạnh tranh của VNPT đã rõ ràng, những ảnh hưởng của cạnh tranh tất yếu sẽ xảy ra. Mạng SPT lúc đó nếu có mức cước linh hoạt hơn chắc chắc khách hàng sẽ lại bắt đầu đưa sự lựa chọn lên bàn tính.
Vẫn còn sớm để đưa ra nhận định gì, tuy vậy, SPT sẽ phải đối mặt với một số thách thức như: phạm vi phủ sóng nhỏ, chi phí cao và chưa có tên tuổi. Trong khi, ở thế hệ thứ ba GSM (hiện tại GPC và VMS sử dụng công nghệ GSM thế hệ hai) cũng cho phép truyền dữ liệu tốc độ cao và hình ảnh màu. Như vậy, thay vì thay đổi công nghệ CDMA, rất có thể họ chỉ cần nâng cấp lên thế hệ ba GSM mà vẫn đạt được các tiến bộ đó. Tất cả còn phụ thuộc rất nhiều vào người trong cuộc sắp tới SPT. Tuy nhiên, trước sức ép về hội nhập, việc VNPT dần cho phép các công ty trực thuộc được cạnh tranh bình đẳng với nhau là hết sức cần thiết để tự tạo ra lợi thế và kinh nghiệm cạnh tranh riêng cho các Công ty.
Mới đây, Tổng cục Bưu điện cũng cấp giấy phép cho Công ty Điện tử Viễn thông Hàng Hải, nhưng chi được phép khai thác các dịch vụ thông tin ven biển và chưa đi vào hoạt động. Như vậy, hiện tại có thể nói Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam chiếm hầu như toàn bộ thị trường các dịch vụ viễn thông cơ bản và chưa có cạnh tranh thực sự hay mới chỉ bắt đầu trong lĩnh vực này. Điều đó cũng đồng nghĩa với việc VNPT chưa có kinh nghiệm về cạnh tranh trong cung cấp dịch vụ cơ bản.
Một trong những điểm yếu của doanh nghiệp mới là thiếu vốn đầu tư. Tuy nhiên, với tốc độ phát triển công nghệ mạnh mẽ trên toàn cầu như hiện nay, các doanh nghiệp mới sẽ thuận lợi hơn khi triển khai dịch vụ để cung cấp cho khách hàng với chi phí đầu tư thấp hơn, ví dụ như việc ứng dụng công nghệ IP kết hợp với cơ sở hạ tầng mạng hiện có. Với công nghệ này cho phép giá cước rất thấp, hơn nữa các doanh nghiệp sẽ tập trung vào các dịch vụ đa chức năng và tiện lợi hơn hẳn (thậm chí thay thế các dịch vụ cơ bản). Điều đó buộc VNPT phải sớm nghĩ đến và có nhiều biện pháp cụ thể nếu như không muốn để bị thua thiệt.
Với tất cả các xu hướng trên sẽ có tác động nhất định tới sự phân chia lại thị trường và việc cung cấp dịch vụ của VNPT, nhất là đối với các dịch vụ có khả năng hoàn vốn cao như dịch vụ di động, dịch vụ quốc tế...
Đánh giá về khả năng cạnh tranh của ngành viễn thông có những nhận định khác nhau tuỳ theo góc độ nghiên cứu. Tại hội thảo "Nâng cao khả năng cạnh tranh trong bối cảnh tự do hoá thương mại" ngày 5/6/1999, ngành viễn thông được đánh giá là ngành dịch vụ có năng lực cạnh tranh. Nhưng trong "Báo cáo về các sản phẩm dịch vụ có khả năng cạnh tranh" của Bộ Kế hoạch và Đầu tư lại xếp Viễn thông thuộc nhóm có khả năng cạnh tranh có điều kiện. Tuy nhiên, việc xếp loại khác nhau chỉ là tương đối và có tác dụng thông tin tham khảo là chủ yếu.
2. Tình hình cạnh tranh và khả năng cạnh tranh của VNPT trong hoạt động cung cấp các dịch vụ bưu chính.
Không rầm rộ như viễn thông nhưng cạnh tranh trong bưu chính cũng là chủ đề đang được các nước, các tổ chức, diễn đàn thảo luận một cách hết sức sâu sắc. Những năm gần đây, ngành bưu chính thế giới đang phát triển trong môi trường cạnh tranh ngày càng quyết liệt. Do đảm nhiệm vai trò đặc biệt trong chuyển phát vật phẩm, tin tức và cả các dịch vụ có liên quan đến tiền nong, lại có mạng lưới rộng khắp, thông suốt trong mỗi nước và trên toàn thế giới, nên cả trong xã hội có nhiều biến đổi, hiện đại như ngày nay thì bưu chính vẫn được coi là một phần cuộc sống của con người, không thể bị thay thế và sẽ phát triển không ngừng.
Trong phạm vi có hạn của nghiên cứu, chúng tôi chỉ xem xét về tình hình và khả năng cạnh tranh của VNPT trong hoạt động cung cấp dịch vụ chuyển phát nhanh (EMS) và dịch vụ chuyển tiền nhanh (CTN). Đây là hai loại dịch vụ đem lại doanh thu lớn cho bưu chính và có sự cạnh tranh điển hình hơn cả.
2.1. Dịch vụ chuyển phát nhanh:
Sự phát triển kinh tế xã hội đã tạo nhiều cơ hội cho sự phát triển bưu chính. Nhu cầu giao lưu kinh tế, văn hoá thương mại trên mọi miền Tổ quốc và các nước trên thế giới ngày càng tăng. Các dịch vụ chuyển phát nhanh ra đời. Năm 1990, lần đầu tiên người Việt Nam biết đến dịch vụ EMS của Bưu điện Việt Nam. Hiện tại, cạnh tranh với dịch vụ này của VNPT là các hãng nước ngoài khổng lồ như DHL, FedEx, UPS, TNT... mà VNPT đang làm đại lý cho họ. Trong nước, cùng khai thác dịch vụ chuyển phát nhanh còn có Saigon Postel và Vietel.
Theo số liệu thống kê của Ban Giá cước - Tiếp thị về sản lượng và doanh thu của dịch vụ này cho thấy đều tăng qua các năm, kể cả sau khi Tổng Công ty thay đổi (tăng) cước dịch vụ này vào 1/10/1999 thì sản lượng dịch vụ EMS cả trong nước và quốc tế đều tăng. Theo đánh giá của khách hàng, giá cước dịch vụ EMS tương đối rẻ, hoàn toàn có thể chấp nhận được. Dịch vụ này hiện có khoảng 150 khách hàng lớn, mang lại doanh thu khoang 12 tỷ đồng/năm, tương đương 15% doanh thu của cả dịch vụ. Vấn đề mà mọi khách hàng đều quan tâm khi lựa chọn dịch vụ này là chất lượng dịch vụ.
Cạnh tranh mạnh nhất với Tổng Công ty trong khai thác dịch vụ này là FedEx và DHL. Đây là những tập đoàn vận chuyển quốc tế lớn nhất thế giới, với đội ngũ nhân viên tài giỏi và cơ sở vật chất kỹ thuật tiên tiến.
FedEx đã hiện diện tại Việt Nam ngay sau khi lệnh cấm vận của Chính phủ Mỹ được huỷ bỏ. Được thành lập vào ngày 21/1/1994, cho đến nay FedEx đã có hơn 5 năm hoạt động tại Việt Nam và là một trong những Công ty nước ngoài hoạt động có hiệu quả tại Việt Nam. FedEx là Công ty vận tải phát chuyển nhanh duy nhất nhận được giấy chứng nhận chất lượng ISO 9001 về dịch vụ trên toàn cầu vào năm 1994. Cạnh tranh với VNPT, FedEx dã ứng dụng hệ thống COSMOS Tracking - hệ thống hiện đại nhất trong ngành có thể theo dõi mọi thông tin liên quan đến gói hàng - để đảm bảo chất lượng dịch vụ. Bên cạnh đó, nhằm tạo sự tin cậy của khách hàng đối với dịch vụ, FedEx đã áp dụng chương trình hoàn tiền cước phí vận chuyển nếu gói hàng phát chậm. Đây là ưu điểm nổi bật của FedEx so với các Công ty phát chuyển nhanh khác và cũng là tiêu chuẩn làm vừa lòng khách hàng nhất. Ngoài ra, FedEx hay DHL hay TNT đều có những ưu đãi đáng kể cho các khách hàng lớn, khách hàng thường xuyên, chẳng hạn như khi khách hàng gửi khối lượng lớn đề nghị trích hoa hồng thì ngay lập tức các hãng này có thể trích 4-5% ngay tại ghi sê mà không cần có yêu cầu hay xác nhận gì từ khách hàng. Có thể nói, chính sách chăm sóc và thu hút khách hàng của các hãng này hết sức linh hoạt và hấp dẫn. Trong tương lai không xa, nếu Mỹ và Việt Nam ký kết được Hiệp định hàng không nhằm thiết lập đường bay thẳng giữa hai nước và cho phép các hãng vận tải hàng hoá và hành khách của Mỹ đưa máy bay vào Việt Nam và ngược lại, thì có lẽ lợi thế về thời gian hành trình của các hãng phát chuyển nhanh Mỹ ở Việt Nam còn tăng hơn nhiều.
Thời gian qua, một trong những tồn tại gây bất lợi trong cạnh tranh với các hãng nước ngoài của dịch vụ phát chuyển nhanh EMS là chưa có dịch vụ hệ thống định vị bưu phẩm, do đó rất khó khăn trong việc cung cấp thông tin định vị, giải quyết khiếu nại cho khách hàng cũng như gây trở ngại cho công tác khai thác, quản lý. Để tăng sức cạnh tranh bằng khả năng truy tìm, định vị bưu phẩm, tháng 7/1998, sau một thời gian nghiên cứu với sự phối hợp chặt chẽ của các chuyên gia nghiệp vụ Công ty VDC, chương trình "Truy tìm định vị bưu phẩm EMS" đã được thiết kế xong và đưa vào thử nghiệm tại Bưu điện Hà nội và thành phố Hồ Chí Minh. Sau hơn một năm được đưa vào sử dụng, việc trả lời khiếu nại nhanh chóng và thuận lợi, có thể tra cứu trả lời khách hàng ngay hoặc khách hàng tự tra cứu trên Website các thông tin về dịch vụ và truy tì
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- J0060.doc