Đề tài Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam

Lời nói đầu 1

Phần I: Tổng quan về thị trường BHNT 2

I. Lịch sử hình thành và phát triển của thị trường BHNT 2

II. Tổng quan về thị trường BHNT 5

1. Khái niệm về BHNT và thị trường BHNT 5

2. Đặc trưng của thị trường BHNT 6

2.1. Cung cầu về BHNT luôn luôn biến động 6

2.2. Giá BHNT phụ thuộc vào nhiều yếu tố 6

2.3. Cạnh tranh và liên kết diễn ra liên tục 7

2.4. Thị phần của các doanh nghiệp BHNT luôn thay đổi 8

3. Các loại hình của BHNT cơ bản 10

3.1. Bảo hiểm tử kỳ 10

3.2. Bảo hiểm sinh kỳ 14

3.3. Bảo hiểm hỗn hợp 14

Phần II: Thị trường của thị trường BHNT ở Việt nam 16

I. Tổng quan về thị trường BHNT Việt nam 16

II. Những kết quả đạt được 17

1. Thị trường BHNT Việt nam đạt được tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được 17

2. Thị trường BHNT ngày càng sôi động, cạnh tranh ngày càng gay gắt và hoàn thiện 20

3. sản phẩm BHNT ngày càng đa dạng, dịch vụ khách hàng phong phú, chất lượng dịch vụ ngày càng cao 21

4. Trình độ của đội ngũ cán bộ và đại lý được nâng cao 24

5. Thị trường BHNT đã trở thành một kênh huy động và cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế thúc đảy kinh tế - xã hội phát triển 25

6. Tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động 26

III. Những thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển của thị trường BHNT Việt nam. 26

1. Những thuận lợi cho sự phát triển của thị trường BHNT Việt nam 26

1.1. Nhu cầu về BHNT của người dân ngày càng tăng 26

 

doc45 trang | Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 900 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm phát triển thị trường bảo hiểm nhân thọ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
970, 1971 ở miền Nam công ty bảo hiểm Hưng Việt đã triển khai một số loại hình bảo hiểm như BHNT trọn đơì, bảo hiểm tử kỳ thời hạn 5 năm, 10 năm, song những hoạt động này mới chỉ ở giai đoạn đầu nên chưa có kết quả rõ nét. Năm 1987, Tổng công ty Bảo hiểm Việt Nam (tiền thân của công ty Bảo việt ngày nay) đã tổ chức nghiên cứu đề tài "Lý thuyết về BHNT và sự vận dụng vào kinh tế ở Việt Nam " đã được Bộ Tài chính công nhận là đề tài cấp Bộ . Đề tài này đã tổng hợp những lý thuyết cơ bản về BHNT, đồng thời phân tích những điều kiện triển khai trong tình hình kinh tế - xã hội trong những năm cuối thập kỷ 80. Thực tế trong thời gian đó chúng ta chưa đủ điều kiện cần thiết để triển khai BHNT do tình hình nền kinh tế . Đến năm 1996 qua việc phân tích các điều kiện kinh tế - xã hội Việt Nam, Bộ Tài chính và Tổng công ty BHVN đã ra quyết định số 281/TC ngày 20/3/1996 theo quyết định số 568/TC/QĐ/TCCB của Bộ trưởng Bộ Tài chính Bảo việt là đơn vị đầu tiên triển khai BHNT ở Việt Nam . Bảng 1: Các doanh nghiệp BHNT ở Việt Nam Doanh nghiệp Năm bắt đầu triển khai Xuất xứ Loại hình doanh nghiệp Vốn (điều lệ) ban đầu Vốn hiện nay 1. Tổng công ty BH Việt Nam 1996 Việt Nam Nhà nước 779 tỷ đ (năm 96) 879 tỷ đ (vốn CSH năm 2000) 2. Công ty liên doanh TNHH BH Bảo Minh - CMG 1999 Việt Nam + úc Liên doanh 2 triệu USD 10 triệu USD 3. Công ty TNHH BH Manulife (trước kia là Chinfon - Manulife) 1999 Canada 100% vốn nước ngoài 5 triệu USD 10 triệu USD 4. Công ty TNHH BH Prudential Việt Nam 1999 Anh 100% vốn nước ngoài 14 triệu USD 61 triệu USD (từ 6/10) 5. Công ty BH quốc tế Mỹ (AIA) 2000 Mỹ 100% vốn nước ngoài 5 triệu USD 25 triệu USD Nguồn: Tạp chí BH số 1/2002 Tháng 8/1996, HĐ BHNT đầu tiên được Bảo Việt phát hành, đánh dấu sự ra đời của thị trường BHNT Việt Nam và tháng 8/2001 vừa qua những hợp đồng đầu tiên đã đúc hạn, ghi nhận sinh nhật lần thứ 5 của thị trường . Cho đến giữa năm 1999 thì chỉ có Bảo Việt "một mình một sân chơi" và cũng đã thu được những kết quả đáng nể, đến nay trên thị trường đã có 5 doanh nghiệp: Bảo Việt, Bảo Minh - CMG, Manulife, Prudential và AIA. Từ khi có sự góp mặt thêm của 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài - những tên tuổi lớn, đã có kinh nghiệm hoạt động ở nước ngoài làm theo cơ chế TC, thù lao linh hoạt, thị trường BHNT Việt Nam đã thực sự bước vào một giai đoạn mới - giai đoạn sôi động, cạnh tranh toàn diện và phát triển với tốc độ cao. II. Những kết quả đạt được Mặc dù mới có tuổi đời hơn 6 năm nhưng thị trường BHNT đã đạt những kết quả đáng tự hào trên nhiều mặt. Cụ thể. 1. Thị trường BHNT Việt Nam đạt được tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu phí và số hợp đồng khai thác được. Nếu như năm 1996 Bảo Việt mới triển khai thí điểm BHNT ở một số tỉnh thành và đạt được kết quả khá khiêm tốn với trên 1200 hợp đồng và doanh thu phí chưa đến 1 tỷ đồng thì đến năm 2000 doanh thu phí BHNT của toàn thị trường đạt gần 1300 tỷ đồng và gần 1 triệu hợp đồng có hiệu lực. 0,95 17,5 203 492 1292 2786 4615 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 5000 4500 4000 3500 3000 2500 2000 1500 1000 500 Nguồn: Thông tin thị trường BH - TBH số 1/2003 Năm 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Tốc độ tăng doanh thu phí (so với năm trước) 1742,1% 1042,1% 142,4% 162,6% 115,6% 66,0% Đặc biệt năm 2001 là năm đáng ghi nhớ nhất của thị trường BHNT Việt Nam với doanh thu phí đạt 2.786 tỷ đồng (tương đương 0,55% GDP) vượt khá xa doanh thu phí BH PNT của toàn thị trường và tăng hơn gấp đối doanh thu phí cả năm 2000, số hợp đồng có hiệu lực đến cuối năm 2001 đạt khoảng 1,6 triệu hợp đồng (tương đương 2% dân số) trong đó số đơn BH khai thác mới trong năm đạt hơn 700.00 đơn. Tăng 55% so với năm 2000. So với năm 2000 tốc độ tăng doanh thu phí BH năm 2001 đạt 115,6% trong đó doanh thu phí của các hợp đồng mới đạt trên 89%. Nếu tính từ khi mới bắt đầu triển khai, tốc độ tăng doanh thu bình quân đạt trên 250%/năm, còn nếu tính từ năm 1999 - năm bắt đầu có sự gia nhập của các DN BHNT khác ngoài Bảo Việt tốc độ tăng doanh thu phí bình quân đạt trên 135%/năm. (cao hơn tốc độ tăng GDP rất nhiều). Đây là tốc độ tăng trưởng rất cao phản ánh sự trưởng thành nhanh chóng của thị trường BHNT Việt Nam. Theo thống kê sơ bộ, năm 2002 tổng doanh thu phí BHNT toàn thị trường là 4.615 tỷ đồng, đạt mức tăng trưởng hơn 66% so với năm 2001, thấp hơn so với tốc độ tăng trưởng của những năm trước.Mặc dù vậy ,mức tăng trưởng trong quý IV/2002 với doanh thu chiếm tới 30% doanh thu cả năm cũng báo hiệu môt tương lại khả quan cho thị trường BHNT trong năm 2003. Tuy nhiên năm 2002 lại là năm có mức tăng trưởng kỷ lục về số lượng hợp đồng khai thác . Tính đến cuối năm số hợp đồng có hiệu lực đạt được gần 3 triệu hợp đồng. Trong đó hợp đồng khai thác mới là 1,3triệu hợp đồng tăng 58% so với năm trước . Cùng với tốc độ tăng trưởng, chất lượng khai thác cũng được nâng lên đáng kể, biểu hiện qua STBH bình quân, số phí bảo hiểm bình quân /hợp đồng ngày càng cao, công tác đánh giá rủi ro được chú trọng hơn (thông qua việc áp dụng đánh giá rủi ro sức khoẻ, tài chính, mục đích tham gia quyền lợi có thể được bảo hiểm) tỷ lệ huỷ bỏ hợp đồng của toàn thị trường dưới 6% (thấp hơn nhiều so với các thị trường khác). Thị phần của các công ty BHNT theo doanh thu phí bảo hiểm Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Bên cạnh đó thị phần của các công ty BHNT cũng có sự thay đổi đáng kể, bắt đầu từ năm 1999 khi có sự ra nhập của các công ty BH khác, còn trước đó Bảo Việt độc quyền trên thị trường BHNT Việt Nam dẫn đầu trên thị trường hiện nay vẫn là Bảo Việt - doanh nghiệp Nhà nước và là doanh nghiệp duy nhất không có vốn đầu tư nước ngoài với thị phần 46,47%, là doanh nghiệp duy nhất có mạng lưới đại lý phủ khắp các tỉnh thành. Các doanh nghiệp khác cũng đạt được kết quả rất tốt, đặc biệt là Prudential đã đạt được kết quả ngoạn mục - chỉ trong vòng hơn 3 năm Prudential đã vươn lên vị trí thứ hai với gần 35% thị phần, trở thành đối thủ cạnh tranh lớn đối với Bảo Việt. Trong năm 2002 doanh thu BH của Prudential đạt được là 1295 tỷ VNĐ, tổng số đại lý từ 281 đại lý năm 1999 lên tới 32.472 đại lý năm 2002. Trên thị trường AIA, Manulife, BM - CMG trong năm 2002 cũng đã gia tăng thị phần, tuy nhiên tính đến thời điểm này thì các công ty này vẫn chiếm thị phần khá nhỏ. Với đặc điểm khách hàng chủ yếu là các cá nhân, số lượng các doanh nghiệp ngày càng tăng có thể nhận định rằng trong thời gian tới, thị trường BHNT Việt Nam sẽ thêm sôi động cạnh tranh thêm sâu sắc trên tất cả các mặt theo hướng có lợi cho khách hàng, đồng thời chứa đựng nhiều yếu tố bất ngờ. 2. Thị trường BHNT ngày càng sôi động, cạnh tranh ngày càng gay gắt và hoàn thiện. Do nhu cầu khách quan của nền kinh tế thị trường đòi hỏi nước ta phải mở cửa hội nhập vào nền kinh tế thế giới. Kể từ khi mở cửa thị trường Bảo Hiểm (1994) đến cuối năm 1999 đầu năm 2000 thị trường BHNT Việt Nam đã có 5 Công ty BHNT. Từ khi có sự góp mặt thêm của 4 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài thị trường BHNT Việt Nam đã thực sự bước vào giai đoạn mới - giai đoạn sôi động, cạnh tranh toàn diện và phát triển với tốc độ cao. Tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt có thể thấy rõ ở các thị trường lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Năng Sự cạnh tranh thể hiện trên tất cả các mặt như thu hút khách hàng, thu hút đại lý (qua chính sách thù lao) sản phẩm, dịch vụ, địa bàn hoạt động, quảng cáo khuyến mại.Nếu như mới bắt đầu hoạt động Prudential, Manulife, AIA chỉ tập trung triển khai ở hai địa bàn lớn như Hà Nội, TP Hồ Chí Minh và chủ yếu hướng vào các khách hàng có thu nhạp trung bình khá trở lên, thì đến nay các công ty này đã tích cực mở rộng phạm vi hoạt động sang các địa bàn còn lại và hướng tới cả những khách hàng có thu nhập trung bình. Thị trường BHNT đã phát triển trên toàn quốc, đi vào từng huyện xã của các tỉnh, thành phố. Bảo việt là doanh nghiệp đã thành lập 61 công ty BHNT thành viên hạch toán độc lập và khoảng 200 văn phòng phục vụ khách hàng chuyên kinh doanh BHNT theo từng Quận, huyện, Bảo Minh - CMG đã có mặt ở khoảng 30 tỉnh, Prudential cũng đã mở rộng mạng lưới trên khắp các tỉnh thành phố lớn với 20 trung tâm phục vụ khách hàng, các công ty khác như Manulife, AIA cũng đã có mặt trên 15 tỉnh thành phố và đang thành lập thêm các trung tâm tư vấn dịch vụ khách hàng tại 1 số địa bàn mới. Các đường dây nóng được thiết lập để trả lời và tư vấn cho khách hàng. Đến nay hầu hết các công ty đã có trang Web riêng trên mạng, trực tiếp giới thiệu tư vấn sản phẩm qua Internet.Đến thời điểm này các doanh nghiệp đều lấy mục tiêu tăng trưởng, mở rộng thị trường là mục tiêu hàng đầu. Xét về mặt tích cực, thị trường thực sự trở thành một nhân tố quan trọng thúc đẩy thị trường phát triển. Chính nhờ sự hoạt động mạnh mẽ của các doanh nghiệp đã giúp dân chúng nhận thức rõ hơn về BHNT giúp đưa dịch vụ BHNT đến tận nhà khách hàng. Cũng nhờ thị trường, các doanh nghiệp đã nâng cao chất lượng dịch vụ khách hàng, chất lượng khai thác, đa dạng hoá sản phẩm, đồng thời thúc đẩy việc hoàn thiện điều khoản, quy trình nghiệp vụ (như in bản miêu tả quyền lợi, bảo hiểm tạm thời, đánh giá rủi ro), bổ sung các dịch vụ giá trị (cho vay phí tự động, cho vay theo hợp đồng, khôi phục hiệu lực hợp đồng ) hoàn thiện mô hình tổ chức và hoạt động, trong đó đáng chú ý là mở hàng đại lý, chế độ thù lao cho đại lỳ theo hướng hiệu quả hơn, phù hợp hơn với đặc điểm của kinh doanh BHNT. Cạnh tranh cũng đã thúc đẩy các doanh nghiệp tìm các giải pháp nâng cao hiệu quả kinh doanh như ứng dụng tin học đa dạng hoá các kênh phân phối . Thời gian qua các doanh nghiệp BHNT rất tích cực ứng dụng công nghệ thông tin vào hầu hết các công việc như phát hành và quản lý hợp đồng, in hoá đơn, kế toán thống kế, quảng cáo, giới thiệu sản phẩm. Sự hoạt động mạnh mẽ của thị trường BHNT thời gian qua còn tạo ra sự cạnh tranh liên ngành, trong đó rõ rệt nhất là cạnh tranh giữa hệ thống ngân hàng, bưu điện với ngành BHNT trong việc thu hút tiền vốn nhàn rỗi từ công chúng . Gần đây, ngành Ngân hàng (điển hình như Ngân hàng Đầu tư và phát triển, ngân hàng Sài Gòn thương Tín ) đã đưa ra các công cụ cạnh tranh trực tiếp với BHNT như tiết kiệm trả góp, (cho phép gửi tiền tiết kiệm) trả góp (cho phép gửi tiền tiết kiệm định kỳ với những khoản tiền nhỏ), tiết kiệm dài hạn (tối đa là có thể 15 năm). Mặc dù là lĩnh vực kinh doanh chậm có lãi, đến thời điểm này chỉ duy nhất Manulife công bố có lãi còn các doanh nghiệp khác đều chưa có lãi. Nhưng BHNT là một lĩnh vực kinh doanh mầu mỡ và bền vững, hấp dẫn các nhà đầu tư nhất là các nhà đầu tư nước ngoài. Có thể nhận định rằng cùng với chính sách hội nhập của Việt Nam cũng như việc thực hiện Hiệp định thương mại Việt - Mỹ, trong thời gian tới chắc chắn sẽ xuất hiện nhiều gương mặt mới trên thị trường BHNT Việt Nam làm cho thị trường thêm sôi động. Cùng với việc tăng quy mô và phạm vi hoạt động, năm 2002 cũng là năm mà hầu hết các công ty BHNT thực hiện tăng vốn hoạt động. Tổng số vốn đăng ký thêm của các công ty so với mức vốn đăng ký ban đầu đã lên đến 57,3 triệu USD. Prudential hiện nay đã có mức vốn điều lệ lên 61 triệu USD, AIA có vốn là 25 triệu USD, Bảo Minh - CMG và Manulife là 10 triệu USD. Việc tăng vốn này đã giúp các công ty có thêm tiềm lực tài chính, mở rộng hoạt động quan hệ khách hàng và đầu tư. 3. Sản phẩm BHNT ngày càng đa dạng, dịch vụ khách hàng phong phú, chất lượng dịch vụ ngày càng cao. Khi Bảo Việt triển khai thí điểm BHNT, chỉ có 3 sản phẩm được đưa ra thị trường là BHNT hỗn hợp 5 năm, thời hạn 10 năm và an sinh giáo dục. Cùng với sự phát triển của thị trường, số lượng sản phẩm đưa ra thị trường đã tăng lên nhanh chóng và ngày càng đa dạng. Đến nay trên thị trường đã có sự hiện diện của tất cả các chủng loại BHNT truyền thống như hỗn hợp, sinh kỳ, tử kỳ, trọn đời, các sản phẩm BHNT cách tân ( modified life inssure), các sản phẩm BH hưu trí (niên kim nhân thọ) đồng thời nhiều sản phẩm bổ trợ (Rider) cũng đã có mặt. Tính đa dạng còn thể hiện ở chỗ, trong số các sản phẩm BHNT đang bán trên thị trường có sản phẩm chia lãi (Participating polycy) như An Khang Thịnh Vượng, tử kỳ nhóm của Bảo Việt, Phú - Tích luỹ - An khang của Prudential, Bảo hiểm hỗn hợp của Manulife, cũng có sản phẩm không chia lãi (Non Participating polycy) như An Gia Thịnh Vượng của Bảo Việt, BHNT hỗn hợp của AIA, có sản phẩm Bảo hiểm cá nhân lại có sản phẩm Bảo Hiểm theo nhóm; có sản phẩm "trọn gói" cũng có sản phẩm đơn lẻ; có sản phẩm có STBH cố định lại có sản phẩm có STBH tăng dần như An Gia Thịnh Vượng của Bảo Việt, BHNT hỗn hợp dự tính có điều chỉnh của AIA; có sản phẩm trả tiền Bảo Hiểm đáo hạn một lần nhưng cũng có sản phẩm Bảo Hiểm trả tiền Bảo Hiểm nhiều lần;có sản phẩm đóng phí định kỳ lại có cả sản phẩm đóng phí 1 lần, vừa có sản phẩm ngắn hạn vừa có sản phẩm trung và dài hạn. Giữ vị trí đứng đầu về thị phần, năm 2001 Bảo Việt đã tiến hành cải tiến hoàn thiện các sản phẩm hiện hành cho phù hợp với tình hình mới, với luật kinh doanh bảo hiểm mới ban hành và các quy định liên quan khác của pháp luật, đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường. Ví dụ như các sản phẩm bảo hiểm của bệnh viện đã mở riêng điều khoản cho phép cả người nước ngoài tham gia mua bảo hiểm nhân thọ thay vì chỉ có người Việt Nam mới được mua như trước đây. Nội dung các điều khoản đã được cụ thể hoá giúp cho việc giải thích và giải quyết quyền lợi bảo hiểm được dễ dàng hơn. Phương thức chia lãi cũng được cải tiến cho phép khách hàng có thể lựa chọn cho mình cách thức chia lãi thích hợp. Trong nỗ lực lớn nhằm đa dạng hoá các loại sản phẩm bảo hiểm, đến cuối năm 2001 bệnh viện đã tung ra thị trường sản phẩm An Gia Thịnh Vượng, là một loại hình bảo hiểm hàng hoá có số bảo hiểm tăng dần (5%) và tới đây là bảo hiểm an bình hưu trí đảm bảo lương hưu cho mọi người tham gia và kèm theo bảo hiểm cho một số bệnh hiểm nghèo. Sản phẩm này sẽ được bệnh viện chính thức đưa ra thị trường vào đầu năm 2002. Manulife cũng đã đưa ra thị trường hai sản phẩm mới trong quý 3/2001, đó là bảo hiểm hỗn hợp chăm sóc toàn diện và bảo hiểm hàng hoá chăm sóc phụ nữ toàn diện. Đây là loại sản phẩm đầu tiên có mặt tại thị trường Việt Nam. Khách hàng mua bảo hiểm bệnh lý đến 80 tuổi, phụ nữ được bảo hiểm các bệnh của phụ nữ đến 80 tuổi. Khi hai sản phẩm mới này được đưa ra thị trường đã thu hút được số lượng lớn khách hàng. Trong vòng 1 tháng doanh số phí thu của hai sản phẩm này đã lên đến 15 tỷ đồng. Cùng với sự phát triển của các công ty khác trên thị trường, AIA cũng đã đưa ra thị trường sản phẩm bảo hiểm tăng trưởng, theo đó quyền lợi bảo hiểm và giá trị hợp đồng sẽ tăng trưởng tỷ lệ thuận với lãi suất đầu tư và lãi suất kinh doanh của công ty và gần đây nhất là sản phẩm BHNT nhóm, nhằm đa dạng hoá và tăng tính cạnh tranh của công ty trên thị trường. Bảo Minh-CMG cũng đã đưa ra các sản phẩm mới BHNT nhóm phục vụ cho các doanh nghiệp và bảo hiểm bệnh hiểm nghèo trọn đời bảo hiểm cho 25 bệnh hiểm nghèo thường gặp. Với sự đa dạng về chủng loại, các sản phẩm BHNT đã đáp ứng ngày càng tốt hơn nhu cầu đa dạng, phong phú và toàn diện của nhân dân về BHNT. Số liệu triển khai cho thấy, sản phẩm hỗn hợp (kết hợp giữa bảo hiểm và tiết kiệm) đặc biệt là bảo hiểm trẻ em là những sản phẩm bán chỵ nhất (chẳng hạn tại bệnh viện doanh thu phí của sản phẩm mang tính tiết kiệm trên 95%), các sản phẩm mang tính bảo vệ đơn thuần như bảo hiểm tử kỳ, bảo hiểm trọn đời, bảo hiểm tai nạn, bảo hiểm chi phí y tế ít được ưa chuộng. Điều này cho thấy, thị trường Việt Nam vẫn đang ở trong giai đoạn “ưa tiết kiệm” đồng thời cũng phản ánh truyền thống tiết kiệm, hiếu học, đức tính hy sinh vì con cháu của người Việt Nam, tuy nhiên nó cũng cho thấy BHNT chưa thực sự trở thành tập quán ở Việt Nam . Thêm vào đó các sản phẩm bảo hiểm ngắn hạn vẫn chiếm tỉ trọng lớn, phản ánh tâm lý lo sợ lạm phát, e ngại đầu tư dài hạn của công chúng. Gần đây các doanh nghiệp đưa ra các sản phẩm dài hạn hơn và những sản phẩm bổ trợ mang tính bảo vệ như bảo hiểm bệnh hiểm nghèo, bảo hiểm chăm sóc phụ nữ toàn diện cho thấy những tín hiệu ban đầu về sự chuyển dịch sản phẩm. Bên cạnh đó sản phẩm bảo hiểm niên kim còn chiếm tỉ trọng rất thấp mà đây là một thị trường đầy tiềm năng, khi mà bảo hiểm xã hội bắt buộc (hiện nay mới chỉ có khoảng 7% dân số được hưởng) và bảo hiểm xã hội “tự nguyện” hiện mới là dự thảo trên giấy, chưa đáp ứng được nhu cầu của xã hội. Thông qua việc mua bảo hiểm niên kim hưu trí người được bảo hiểm có thể lựa chọn và chủ động lập quỹ hưu trí cho mình. Nắm bắt được nhu cầu thực tế đó, nhiều công ty bảo hiểm đã chú trọng vào khai thác thị trường tiềm năng còn bỏ ngỏ này. Bảo việt đã tung ra các sản phẩm An hưởng hưu trí, An bình hưu trí, Bảo Minh-CMG và AIAcũng có các sản phẩm bảo hiểm hưu trí tương ứng. Hiện nay số khách hàng trong bảo hiểm hưu trí tại các công ty BHNT mới đạt khoảng 10.000 người nhưng dự đoán trong tương lai không xa, thị trường bảo hiểm niên kim sẽ được khách hàng quan tâm và phát triển nhanh chóng. Ngoài BHNT. các doanh nghiệp còn cung cấp thêm các loại hình dịch vụ khác cho khách hàng tham gia BHNT như tư vấn du học cho khách hàng vay theo hợp đồng (policy loan), thẻ giảm giá, phiếu mua hàng Với những nỗ lực của các doanh nghiệp, công ty dịch vụ BHNT ngày càng được nâng cao và mang tính toàn diện. Kết quả triển khai thời gian qua cho thấy, khách hàng tham gia BHNT rất đa dạng, thuộc nhiều tầng lớp, nghề nghiệp và thu nhập rất khác nhau. Xét thêo yếu tố thu nhập có khách hàng thuộc tầng lớp các khách hàng của tầng lớp có thu nhập cao, thu nhập khá, thu nhập trung bình, do vậy có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm chỉ 5 triệu đồng nhưng cũng có những hợp đồng có số tiền bảo hiểm tới vài tỷ. Nếu xét theo nghề nghiệp những người làm công ăn lương, kinh doanh (có thu nhập ổn định) chiếm phần lớn, khách hàng là nông dân còn chiếm tỷ tọng khá nhỏ. 4.Trình độ của đội ngũ cán bộ, đại lý được nâng cao Công tác đào tạo đội ngũ nhân viên và đại lý chuyên nghiệp của các công ty cũng rất được quan tâm và đầu tư lớn nhằm mục tiêu ngày càng nâng cao chất lượng phục vụ khách hàng. Với mục tiêu chiếm lĩnh thị trường công ty Prudential đã đưa công tác đào tạo và phát triển đội ngũ đại lý và công tác chăm sóc khách hàng lên hàng đầu. Đội ngũ nhân viên và đại lý chuyên nghiệp được đào tạo liên tục. Tốc độ tăng trưởng đội ngũ đại lý của Prudential là lớn nhất trên thị trường hiện nay. Công ty đang đào tạo và sử dụng một đội ngũ lãnh đạo gồm có trên 15.000 người trong đó gần 1000 người là nhân viên và hơn 14.000 đại lý. Các dịch vụ vhăm sóc khách hàng ngày càng được tiến hành tốt hơn. Hiện nay công ty đã có 12 trung tâm phục vụ khách hàng ở các tỉnh thành phố. Trong chiến dịch khuyếch trương bán hàng, công ty đã phát hành hơn 300.000 thẻ ưu đãi cho những khách hàng mua sản phẩm của công ty. Phải nói rằng hiện nay Prudential là công ty có chương trình chăm sóc khách hàng tốt nhất trên thị trường theo số liệu đến cuối năm 2001, về doanh thu chi phí Prudential đã chiếm tới gần 30% thị phần BHNT ở Việt Nam. Còn Manulife với phương châm phát triển vững chắc, bài bản và lâu dài, đã chú trọng vào công tác đào tạo, nâng cao chất lượng hệ thống nhân viên và đại lý của công ty. Đặc biệt, công ty đã đầu tư rất nhiều vào việc đào tạo nhân viên, khuyến khích nâng cao trình độ chuyên môn. Đến nay hơn 100 nhân viên của công ty đang theo học các chương trình về BHNT LOMA và theo học các khoa học về định phí BH. Theo số liệu thống kê từ các công, số lượng đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp năm 2001 đã đạt con số hơn 40 ngìn người bằng 2,35 lần so với số lượng đại lý tính đến cuối năm 2000. Riêng số đại lý tuyển mới trong năm của các công ty là 23.000 người. Tính đến cuối năm 2002 số lượng đại lý/ chuyên viên tư vấn BHNT đã lên tới hơn 70.000 người. Tuy vậy các công ty BHNT vẫn tiếp tục phát triển mạng lưới đại lý, liên tục mở các khoá huấn luyện đại lý BHNT. Phân phối các sản phẩm BH thông qua mạng lưới đại lý vẫn là phương thức chủ yếu trong giai đoạn đầu phát triển của thị trườngBHNT Việt nam. Như vậy, trong vòng 3 năm trở lại đây,BHNT đã trở thành một trong những ngành thu hút nhiều lãnh đạo nhất, tạo côngăn việc làm với mức thu nhập tương đối ổn định cho một lực lượng liên doanh đông đảo trong xã hội. Các đại lý ngày càng mang tính chuyên nghiệp và liên tục được đào tạo, đào tạo lại nhằm nâng cao kỹ năng, kiến thức về BHNT cũng như cập nhật các thông tin, sản phẩm mới đưa ra thị trường của các công cụ BH. Biểu đồ tăng trưởng đại lý BHNT (theo công ty) năm 2001 Sự phát triển đội ngũ đại lý BHNT của thị trường Việt Nam (Tính đến cuối năm 2002) 5. Thị trường BHNT đã trở thành một kênh huy động và cung cấp vốn lớn cho nền kinh tế, thúc đẩy kinh tế-xã hội phát triển. Với chức năng gom nhặt và tập chung những khoản tiền nhỏ, nhàn rỗi nằm rải rác trong dân cư, BHNT đã hình thành một quỹ đầu tư lớn, cung cấp vốn cho nền kinh tế đặt biệt là nguồn vốn trung và dài hạn, phục vụ đắc lực cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá, góp phần phát triển kinh tế-xã hội. So với ngành ngân hàng, BHNT Việt Nam tuy mới có thâm niên hoạt động còn rất ngắn nhưng đã thực sự trở thành một kênh huy động và phân phối hữu hiệu cho nền kinh tế. Với số tài sản được tích luỹ (dưới hình thức quỹ dự phòng) ngày càng lớn, cho phép các doanh nghiệp BHNT thực hiện các khoản đầu tư lớn dưới hình thức như gộp vốn lao động, mua cổ phiếu, cho vay, tham gia các dự án đầu tư, mua trái phiếu, tín phiếu kho bạc Nhà nước, gửi tiết kiệm ngân hàng Trong năm 2001, tổng số phí BHNT toàn thị trường đạt 2.786 tỷ đồng, chiếm 0,55% GDP và như vậy tính đến thời điểm này tổng số vốn mà các doanh nghiệp BHNT có thể cung cấp được cho nền kinh tế lên tới trên 4000 tỷ đồng (chủ yếu là quỹ dự phòng được tích tụ qua các năm) hoạt động đầu tư tài chính cũng trở thành xương sống nâng đỡ cho hoạt động kinh doanhBHNT, tạo tiền đề và điều kiện để các doanh nghiệp BHNT tham gia vào thị trường tài chính, tạo lập các quỹ đầu tư. Trên thực tế, các doanh nghiệp BHNTđã tham gia vào rất nhiều dự án đầu tư, là cổ đông lớn trong nhiều công ty cổ phần đồng thời cũng là thành viên thường xuyên trong các cuộc đấu thầu tín phiếu, trái phiếu kho bạc và cũng là những “người chơi” lớn trên thị trường chứng khoán. Năm 1999 Bảo Việt thành lập công ty Chứng khoán Bảo Việt- công ty chứng khoán đầu tiên ở Việt Nam, tạo tiền đề để trở thành tập đoàn Bảo hiểm-tàichính tổng hợp hàng đầu ở Việt Nam. 6.Tạo ra một khối lượng lớn công ăn việc làm cho người lao động. Trong thời gian qua ngành BHNT đã thu hút, tạo công ăn việc làm cho một lực lượng đông đảo lao động dưới hình thức đại lý chuyên nghiệp, đại lý bán chuyên nghiệp và công trác viên. Đến cuối năm 2001, tổng số đại lý chuyên nghiệp của toàn thị trường đã tới con số 40.000 người (trong đó, Bảo Việt có 1200 người) . Với những đặc trưng nổi bật: hoàn toàn độc lập tự chủ về thời gian, đòi hỏi tính tự giác cao, hưởng thù lao theo công lao động, tự hạch toán độc lập (có thể coi mỗi đại lý là một “doanh nghiệp”, trên thực tế có nhiều đại lý là một “doanh nghiệp” thực thụ), không yêu cầu quá cao về bằng cấp, nghề đại lý (tư vấn)BHNT đã thực sự trở thành một nghề có tính chuyên nghiệp, được xã hội thừa nhận và là nghề có thu nhập khá cao ở Việt Nam hiện nay. Đồng thời, BHNT cũng đã tạo ra chỗ làm việc cho hàng nghìn người với tư cách là cán bộ, nhân viên của các doanh nghiệp BHNT, ngoài ra còn tạo việc làm cho các ngành khác có liên quan như công nghệ thông tin, ngân hàng in vấn, quảng cáo III. Những thuận lợi và khó khăn cho sự phát triển của thị trường- BHNT Việt Nam . 1/Những thuận lợi cho sự phát triển của thị trường- BHNT Việt Nam. 1.1.Nhu cầu về BHNT của người dân ngày càng tăng -Do xu hướng dân số già đi thu nhập được tăng thêm, khách hàng cũng có quan tâm nhiều hơn đến vấn đề tài chính của họ trong những năm hưu trí, chăm sóc sức khoẻ đẫn tới nhu cầu về sản phẩm bảo hiểm tích luỹ tử kỳ, niên kim sẽ có nhiều triển vọng tăng trưởng. Việc quan tâm hơn của khách hàng tới những loại sản phẩm này cũng thể hiện xu hướng quan tâm phòng chống rủi ro tài chính do khả năng biến đổi nhanh chóng của kinh tế. Bên cạnh đó với sự phát triển của cuộc sống hiện đại, một số loại bệnh tật dễ mắc phải và là nguyên nhân tử vong chính cho con người cũng làm phát sinh nhu cầu loại hình bảo hiểm cho các bệnh hiểm nghèo. -Do nhận thức ngày càng cao về sản phẩm BH, khách hàng có yêu cầu được lựa chọn những sản phẩm tinh vi hợp với nhu cầu của mình. Khách hàng có yêu cầu cá nhân hoá dịch vụ- mua các sản phẩm được lắp ghép và thiết kế theo nhu cầu cá nhân của khách hàng, được hưởng các dịch vụ theo sự lựa chọn của cá nhân. -Do sự phát triển của thị trường chứng khoán, quỹ đầu tư và giá trị phát triển doanh nghiệp bảo hiểm theo hướng chuyên nghiệp hoá trong lĩnh vực đầu tư cho phép doanh nghiệp BHNT phát triển các sản phẩm bảo hiểm-đầu tư (unvestment-link products). Khách hàng cũng có hiểu biết hơn về đầu tư tài chính và có nhu cầu sử dụng một tỷ lệ tài sản của mình tham gia vào các hoạt động đầu tư hấp dẫn nhằm tăng giá trị của hợp đồng BH. Bên cạnh đó do quá trình gắn kết ngày càng chặt chẽ của khách hàng với các trung gian tài chính trong các ho

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVV211.doc
Tài liệu liên quan