Lời nói đầu
Phần I : Lý luận chung về thanh tra, giám sát của NHTƯ đối với
các NHTM quốc doanh.
1. Tầm quan trọng của hoạt động thanh tra đối với các NHTM
2. Nội dung hoạt đông thanh tra của NHTƯ đối với các NHTM
3. Phương thức thanh tra của NHTƯ đối với các NHTM
Phần II :Thực trạng hoạt động của thanh tra NHNN Việt nam
trong thời gian qua
1. Thực trạng về tổ chức và hoạt động của thanh tra NHNN
đối với các NHTM quốc doanh
2. Kết quả thanh tra, giám sát của NHTƯ đối với các NHTM
quốc doanh
3. Những hạn chế trong công tác thanh tra của NHNN đối với
các NHTM quốc doanh
4. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác tranh tra của
NHTƯ đối với các NHTM quốc doanh
Phần III:Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực của thanh tra
NHNN Việt Nam đối với các NHTM quốc doanh
I/. Một số giải pháp chung mang tính xuyên suốt toàn bộ hoạt
động của hệ thống thanh tra ngân hàng
II/. Đổi mới nội dung và phương pháp thanh tra của NHNN
đối với các NHTM quốc doanh
1. Đổi mới và hoàn thiện phương thức giám sát từ xa
2. Đổi mới và hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ
Kết luận
23 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1204 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường hiệu lực của thanh tra ngân hàng nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng thương mại quốc doanh, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h phố và hệ thống các tổ chức tín dụng gồm các ngân hàng thương mại quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, hợp tác xã tín dụng, chi nhánh ngân hàng nước ngoài,... Cũng trong thời gian này, Hội đồng Nhà nước ban hành pháp lệnh thanh tra, pháp lệnh khiếu nại, tố cáo của công dân, mở ra một thời kỳ mới của công tác thanh tra ở nước ta nói chung và công tác thanh tra ngân hàng nói riêng. Trên cơ sở các pháp lệnh nói trên, vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ, tổ chức bộ máy và phương thức hoạt động của Thanh tra ngân hàng đã có những đổi mới mạnh mẽ.
Tính đến ngày 31/12/1999, số cán bộ thanh tra toàn hệ thống NHNN là 620 người (riêng NHTƯ có 104 người); trong đó thanh tra viên cao cấp (cấp III)có một người, chiếm tỉ lệ 0, 16%; thanh tra viên cấp II có 120 người, chiếm tỉ lệ 21%; thanh tra viên cấp I có 300 người, chiếm 48% trong tổng số thanh tra, còn gần 30% chưa được bổ nhiệm vào ngạch thanh tra viên.
Hiện tại, thanh tra Ngân hàng Trung ương có 9 phòng, gồm:
- Văn phòng thanh tra.
- Phòng thanh tra các ngân hàng quốc doanh.
- Phòng thanh tra các ngân hàng cổ phần.
- Phòng thanh tra các ngân hàng nước ngoài và liên doanh.
- Phòng thanh tra các tổ chức phi ngân hàng.
- Phòng thanh tra quỹ tín dụng nhân dân.
- Phòng giám sát và phân tích.
- Phòng chống tham nhũng.
- Phòng xét các khiếu tố.
Thực tế trong nhiều năm qua cho thấy, thanh tra ngân hàng đã được sự quan tâm của các cấp lãnh đạo NHNN, sự phối kết hợp giữa vụ, cục trong ngành cùng với sự nỗ lực phấn đấu, hệ thống thanh tra chuyên trách ngân hàng đã thực sự đổi mới, nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ, góp phần tích cực vào thành tích chung của ngành trong việc thực hiện các chủ trương của Đảng và Nhà nước về hoạt động tiền tệ, tín dụng và ngân hàng qua các thời kì.
2. Kết quả thanh tra giám sát của NHTƯ đối với các NHTM quốc doanh:
a-Những tồn tại và khuyết điểm trong quản lý và kiểm soát các NHTM:
Qua thanh tra công tác tín dụng ở các NHTM quốc doanh cho thấy, các NHTM chưa chú trọng đến quản lý và phòng ngừa rủi ro trong kinh doanh, nhất là việc thu thập các thông tin về kinh doanh và tình hình tài chính của khách hàng, chưa chú ý đào tạo bồi dưỡng cán bộ cả nghiệp vụ chuyên môn và phẩm chất đạo đức. Do vậy, đã dẫn đến hoạt động của các NHTM quốc doanh trong những năm qua đã phát sinh nợ quá hạn lớn. Cụ thể, theo nguồn tài liệu báo cáo của NHNN Việt nam như sau:
Số nợ quá hạn (% so tổng dư nợ)của các NHTM Quốc doanh qua các năm (1990 - 1999)
đơn vị:tỷ đồng
1990
1991
1992
1993
1994
1995
1996
1997
1998
1999
1. NQH ngắn hạn
% so dư nợ
1, 620
11, 2
1. 180
12, 74
2. 100
12, 4
2. 350
13, 3
1. 464
6, 6
1. 554
4, 76
2. 581
6, 1
6. 506
13, 15
2. 908
4, 26
3. 75
6, 08
2. NQH trung, dài hạn
%so dư nợ
120
7, 18
97
5, 2
142
4, 98
273
7, 4
248
1, 9
366
2, 28
662
4, 17
1. 352
7, 12
620
2, 9
1. 56
4, 33
3. NQH cho vay khác
%so dư nợ
60
1, 62
85
2, 06
82
2, 00
87
2, 13
106
7, 5
1. 5
0, 34
2
0, 06
47
0, 57
28
0, 30
0
0
Tổng NQH
% so tổng dư nợ
1. 782
9. 08
1. 992
9, 87
2. 324
9, 74
2. 743
10, 5
1. 859
5, 17
1. 923
3, 91
3. 248
5, 2
7. 576
9, 98
3. 556
3, 60
5. 32
5, 33
Nguyên nhân chủ quan dẫn đến nợ quá hạn chủ yếu là:
+Do cấp quản trị điều hành quyết định sai, hoặc không căn cứ vào hiệu quả kinh tế(30-40%).
+Do không tổ chức kiểm tra, kiểm soát khách hàng sử dụng vốn vay(25-35%).
+Do cán bộ ngân hàng thực hiện không đầy đủ các quy chế và quy trình nghiệp vụ(20-25%);do cán bộ ngân hàng thoái hoá, biến chất(15-20%).
Nguyên nhân khách quan thường dẫn đến dư nợ quá hạn có vấn đề và nợ khó đòi chủ yếu là:
+Do khách hàng vay bị phá sản, do kinh doanh thua lỗ, do cố ý lừa đảo(60-70%)
+Do thiên tai bão lũ, do Nhà nước thay đổi cơ chế chính sách (30-40%).
b-Những tồn tại và khuyết điểm trong việc chấp hành các qui chế ngân hàng:
Công tác thanh tra các NHTM quốc doanh trong những năm qua, cho thấy:
Thực hiện bảo lãnh L/C nhập hàng trả chậm, các NHTM quốc doanh và doanh nghiệp đã không chấp hành đúng quy định, với mục đích và động cơ khác nhau nhằm mục đích kiếm lời; dẫn đến giá trị L/C quá hạn với nước ngoài không ngừng tăng lên.
Hùn vốn liên doanh góp cổ phần phổ biến là vượt tỷ lệ quy định góp vốn vào các doanh nghiệp không phải là tổ chức tín dụng lớn, chiếm 35-45% tổng số hùn vốn , trong đó có nhiều trường hợp góp vốn vượt quá 10% theo quy định tại pháp lệnh ngân hàng. Một số trường hợp hùn vốn liên doanh, hùn vốn mua cổ phần với các đối tác chưa chấp hành đầy đủ các thủ tục quy định tại các văn bản hướng dẫn của Bộ Tài chính và một số sai phạm trong công tác kế toán tài chính, công tác huy động vốn.
Bên cạnh những nguyên nhân chủ quan trên còn có một số nguyên nhân khách quan: Các văn bản hướng dẫn cụ thể hoạt động hùn vốn liên doanh, mua cổ phần chưa được ban hành kịp thời hoặc còn nhiều thiếu sót, các khái niệm về hùn vốn liên doanh, mua cổ phần chưa được hiểu đúng do vậy việc thực hiện ở nhiều cấp ngân hàng còn sai lệch v. v
3. Những hạn chế trong công tác thanh tra của NHNN đối với các NHTM quốc doanh:
Bên cạnh nhưng kết quả đã đạt được, hoạt động thanh tra ngân hàng vẫn còn những hạn chế, đó là :
a)Hạn chế trong công tác giám sát từ xa:
+Chương trình giám sát chưa chuẩn, quá trình thực hiện có bổ sung sửa đổi nhưng vẫn chưa hoàn thiện.
+Sự phối kết hợp giữa giám sát từ xa và thanh tra tại chỗ còn ít và yếu kém. Mục tiêu của giám sát từ xa là phân tích, tìm ra vấn đề chỉ điểm cho thanh tra tại chỗ; tuy có nêu được vấn đề nhưng vẫn chưa khai thác được vấn đề một cách triệt để mà mới chỉ dừng lại ở việc cung cấp số liệu cho thanh tra tại chỗ.
+Chưa thực hiện được việc phân loại và công bố các chỉ tiêu tài chính để khuyến khích các NHTM quốc doanh chấp hành tốt các quy chế và kinh doanh có hiệu quả.
+Tuy nội dung, thời gian báo cáo đã được thanh tra NHNN quy định và quản lý chặt chẽ, nhưng do các NHTM quốc doanh thường gửi chậm, số liệu thiếu hoặc không chính xác; do vậy, kết quả phân tích giám sát gặp nhiều hạn chế, ảnh hưởng đến công tác quản lý và điều hành hoạt động ngân hàng.
b)Hạn chế trong công tác thanh tra tại chỗ:
+Tuy đã thực hiện sửa chữa và bổ sung và soạn thảo tài liệu hướng dẫn các đoàn thanh tra của NHNN tiến hành theo một trật tự song chúng ta vẫn chưa có một quy trình thanh tra thống nhất, các bộ phận vẫn làm theo cách riêng rẽ.
+Nội dung đề cương thanh tra rộng, không cụ thể trong khi lực lượng thanh tra, thời gian thanh tra có hạn. Nhiều nội dung cần phải thanh tra làm rõ, xử lý dứt điểm nhưng yêu cầu thanh tra lại tập trung vào việc khác. Đồng thời bên cạnh đó cũng có những đề cương thanh tra với nội dung thanh tra cục bộ khi các NHTM cấn đánh giá toàn diện, tổng thể để có kết luận, định hướng kinh doanh đúng, có hiệu quả phù hợp với pháp luật.
+Lực lượng trong các đoàn thanh tra ít, trong đoàn có 5 thành viên thì chỉ 1-2 thành viên là thanh tra viên, còn lại là chuyên viên thanh tra hoặc chuyên viên các phòng hay ban nghiệp vụ khác được trưng dụng.
+Phương pháp thanh tra, tiếp cận đối tượng thanh tra chưa khoa học, thiếu tính thực tiễn; cán bộ thanh tra chưa có kinh nghiệm, trình độ nghiệp vụ chuyên môn thấp.
+Kết luận thanh tra mang tính chung chung, thiếu trách nhiệm; xử lý, quy trách nhiệm không đúng người, đúng việc, không xác định rõ dược nguyên nhân; kết quả những kiến nghị sau thanh tra chưa chú trọng đúng mức,...
Qua những tồn tại và hạn chế nêu trên, công tác thanh tra còn nhiều yếu kém cả về phương pháp kỹ thuật tiến hành cũng như trong chỉ đạo diều hành, năng lực và trình độ nghiệp vụ của cán bộ thanh tra.
4. Nguyên nhân của những hạn chế trong công tác thanh tra của NHNN đối với các NHTM:
- Đội ngũ cán bộ của hệ thống Thanh tra Ngân hàng rất ít lại yếu về trình độ chuyên môn, kinh nghiệm, đào tạo thiếu chiều sâu nên gặp rất nhiều khó khăn trong khi thực hiện nhiệm vụ. Một số cán bộ có trình độ, năng lực được đào tạo cơ bản hoặc đã học các lớp bồi dưỡng nâng cao kiến thức về nghiệp vụ ngân hàng, thanh tra, quản lý Nhà nước...thì bị điều chuyển vào làm ở các bộ phận khác.
Số cán bộ học Đại học chiếm 90% biên chế của hệ thống ngân hàng song số được thực sự đào tạo theo chiều sâu của nghiệp vụ thanh tra lại rất ít; toàn hệ thống thanh tra Ngân hàng mới có một cán bộ đạt học vị tiến sĩ, bốn thạc sĩ kinh tế, hai thạc sĩ luật, chưa có đội ngũ chuyên gia giỏi.
- Cơ chế điều hành thiếu tập trung, chồng chéo, không phân chia rõ ràng về quyền hạn và trách nhiệm.
-Thanh tra Ngân hàng bị chi phối bởi nhiều nguyên nhân khác không thuộc chức năng thanh tra; một số công việc thuộc thanh tra, giám sát lại bị phân tán về quyền hạn và trách nhiệm.
- Các quy chế về thanh tra của NHNN phục vụ cho công tác thanh tra, giám sát chưa đầy đủ, đồng bộ, thiếu chính xác và chặt chẽ dẫn đến công tác thanh tra gặp nhiều khó khăn, gây trở ngại cho việc triển khai và thực hiện công tác của hệ thống thanh tra NHNN.
Đây là một vấn đề cấp bách cần được NHNN và Chính phủ quan tâm xem xét, tập trung giải quyết để đưa ra biện pháp thích hợp, nhanh chóng khắc phục những hạn chế, yếu kém bất cập và khuyết điểm để vững bước đi lên nhằm đạt được mục tiêu của thanh tra Ngân hàng đã được luật pháp khẳng định là duy trì được sự ổn định, an toàn của hệ thống ngân hàng, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, phục vụ chính sách tiền tệ quốc gia.
PHầN III
Một số giải pháp tăng cường hiệu lực thanh tra CủA NHNN Việt nam đối với các NHTM:
Những năm gần đây, cùng với sự đổi mới của nền kinh tế nói chung và của ngành ngân hàng nói riêng đã đạt được nhữngthành tựu bước đầu đáng khích lệ, tình hình kinh tế –xã hội đã dần ổn định, đời sống nhân dân từng bước được cải thiện, nhưng các tiêu cực xã hội như tệ tham nhũng, buôn lậu, lãng phí, vi phạm pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ ngân hàng vẫn đang diễn ra phức tạp và chưa bị đẩy lùi.
Trong các năm qua, có nhiều vụ án lớn liên quan đến ngành ngân hàng, liên quan đến trách nhiệm tập thể và cá nhân của cán bộ ngành ngân hàng cũng như của thanh tra ngân hàng. Đứng trước tình hình đó, công tác thanh tra, giám sát của hệ thống thanh tra ngân hàng được khẳng định là một khâu trọng yếu, hết sức cần thiết của công tác quản lý và lãnh đạo điều hành, cần được đổi mới mạnh mẽ và tăng cường cả về tổ chứcvà phương thức hoạt động.
Sau hơn 10 năm thực hiện trọng trách mới, với vị thế pháp lý mới, Thanh tra Ngân hàng đã có những bước đi ban đầu đáng khích lệ. Song những gì đạt được trong sự đổi mới của công tác thanh tra Ngân hàng trong 10 năm qua cũng chỉ là bước khởi đầu, vẫn còn nhiều khó khăn và nhiều mặt hạn chế. Giờ đây hơn lúc nào hết, hệ thống thanh tra Ngân hàng phải chỉ ra và nhìn thẳng vào những mặt yếu kém, những hạn chế, bất cập để nhanh chóng khắc phục và vươn lên.
I. Một số giải pháp chung mang tính xuyên suốt toàn bộ hoạt động của hệ thống Thanh tra Ngân hàng:
Để tiếp tục thực hiện đổi mới về tổ chức và hoạt động thanh tra, giám sát của NHNN đối với các NHTM, toàn thể cán bộ, thanh tra viên trong hệ thống thanh tra Ngân hàng phải tập trung thực hiện những nội dung chủ yếu sau:
Một là, tiếp tục đổi mới nhận thức, đặc biệt là nhận thức về vai trò, vị thế pháp lý mới của thanh tra Ngân hàng theo Luật ngân hàng, theo Nghị định số 91 của Chính phủ quy định về tổ chức và hoạt động của thanh tra Ngân hàngtrong điều kiện mới là rất quan trọng, làm cơ sở, nền móng cho các phương pháp, giải pháp trong chỉ đạo, điều hành và thực thi nhiệm vụ. Tuy nhiên, phải xác định bước đi thích hợp, tháo gỡ dần từng vấn đề, việc nào trước, việc nào sau, việc nào cho những năm tiếp theo.
Hai là, đổi mới về phương thức chỉ đạo điều hành hoạt động thanh tra ngân hàng.
Nội dung này đòi hỏi sự quan tâm đến vấn đề trách nhiệm và quyền hạn của các cấp Thanh tra Ngân hàng ở NHTƯvà ở địa phương, tránh chồng chéo đùn đẩy trách nhiệm, nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động giám sát, thanh tra đối với mỗi tổ chức tín dụng cũng như các chi nhánh của tổ chức tín dụng trong cả nước.
Ba là, đổi mới về phương thức hoạt động của công tác thanh tra tại NHNN và chi nhánh ngân hàng Nhà nước tỉnh, thành phố theo hướng tăng cường, đề cao vai trò trách nhiệm thanh tra chi nhánh theo quy định của Thống đốc ngân hàng. Đổi mới, điều chỉnh phương tiện làm việc, xử lý và phân tích thông tin nhằm phát hiện ngăn chặn và xử lý nhanh nhạy các vi phạm pháp luật trong hoạt động ngân hàng.
Bốn là, tiếp tục tuyên truyền sâu rộng trong ngành ngân hàng những nội dung của Luật khiếu nại, Tố cáo, Nghị định 67/NĐ của Chính phủ hướng dẫn thực hiện việc khiếu nại, Tố cáo và những quy định của Thống đốc, Pháp lệnh chống tham nhũng, tiếp tục triển khai thực hiện chương trình quốc gia phòng chống tội phạm trong ngành ngân hàng. Tăng cường kiểm tra đôn đốc các cấp, các đơn vị trong ngành giả quyết kịp thời đúng pháp luật về khiếu nại, tố cáo, giải quyết dứt điểm các đơn thư khiếu nại còn tồn đọng, vụ việc nổi cộm lâu ngày tại các chi nhánh và đơn vị trong ngành.
Năm là, tăng cường đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ, để có được đội ngũ cán bộ thanh tra ngân hàng có đủ phẩm chất, năng lực, trình độ để trở thành những cán bộ giỏi, đủ sức tiếp cận với công nghệ mới trong hoạt động ngân hàng theo cơ chế thị trường, an tâm với nghề thanh tra, nhằm duy trì được hệ thống thanh tra ngân hàng đủ sức để đảm đương nhiệm vụ. Đối với cán bộ thanh tra viên ngân hàng cần có chế độ đãi ngộ cụ thể.
Để thực hiện được tốt những nội dung trên, ngành ngân hàng cần phải hoàn thiện một cách đồng bộ và ổn định hệ thống pháp lý. Trước hết là hệ thống tổ chức, phân định rõ vai trò, chức năng của các cấp quản lý trong hoạt động thanh tra, giám sát ngân hàng. Hoàn thiện hệ thống quy phạm pháp luật, các văn bản pháp quy phù hợp của Thanh tra Ngân hàng cũng như của đối tượng thanh tra ngân hàng. Phân định rõ ràng và rành mạch chức năng quản lý và chức năng kinh doanh trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh tra giám sát ngân hàng nói riêng.
Bên cạnh đó, thực tế hoạt động tiền tệ ngân hàng đang đặt ra cho thanh tra ngân hàng những thời cơ và thách thức phải vượt qua. Do vậy, công tác thanh tra ngân hàng cần phải nhanh chóng đổi mới nội dung và phương pháp thanh tra cho phù hợp với vị thế pháp lý mới của Thống đốc ngân hàng; nhằm góp phần thực hiện mục tiêu giữ cho hệ thống ngân hàng hoạt động ổn định, an toàn và hiệu quả, bảo vệ lợi ích hợp pháp của người gửi tiền, góp phần thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia; qua đó, góp phần đảm bảo nền kinh tế quốc dân phát triển ổn định, đưa hệ thống ngân hàng nước ta phát triển vững mạnh nhanh chóng hội nhập với các nước và cộng đồng thế giới.
II. Đổi mới nội dung và phương pháp thanh tra của NHNN đối với các NHTM quốc doanh:
1. Đổi mới và hoàn thiện phương thức giám sát từ xa:
Để đổi mới hoạt động giám sát từ xa của thanh tra ngân hàng hiện nay thành công nghệ thanh tra phòng ngừa một cách thường xuyên, kịp thời nhằm đảm bảo an toàn hoạt động của các NHTM quốc doanh và giữ uy tín với khách hàng, Thanh tra ngân hàng Nhà nước cần thiết lập một hệ thống chỉ tiêu giám sát chuẩn, qua đó có thể đánh giá ngay tình trạng ổn định hay bất ổn định, hoạt động kinh doanh có lãi hay không, có nguy cơ mất vốn, phá sản của một ngân hàng.
a-Thiết lập những chỉ tiêu xác định và đánh giá rủi ro tín dụng:
Trong kinh doanh ngân hàng có rất nhiều rủi ro, nhưng rủi ro tín dụng là lớn nhất, có ảnh hưởng đến quyết định, đến khả năng thanh toán của ngân hàng, đến lòng tin đối với người gửi tiền và ảnh hưởng đến hoạt động tài chính của NHTM. Vì vậy, phòng ngừa rủi ro trong hoạt động ngân hàng trước hết là phòng ngừa rủi ro về tín dụng với một số biện pháp: thực hiện phân tán rủi ro và xác định mức độ dẫn đến rủi ro để có biện pháp kịp thời xử lý.
b-Xác định chỉ tiêu đảm bảo khả năng thanh toán. Phân nhóm tài sản có trích lập và xử dụng quỹ dự phòng để xử lý rủi ro.
Nhóm 1, tỷ lệ trích lập dự phòng là 0% đối với những khoản:
+Những khoản cho vay chưa đến hạn trả nợ(kể cả kỳ hạn nợ gia hạn).
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá ngắn hạn khác chưa đến hạn thanh toán.
+Những khoản cho thuê tài chính chưa đến hạn trả tiền thuê.
Nhóm 2, tỷ lệ trích lập dự phòng là 20% đối với những khoản:
+Những khoản cho vay có đảm bảo quá hạn trả nợ dưới 180 ngày, những khoản cho vay không có đảm bảo quá hạn trả nợ dưới 90 ngày.
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán trong thời gian dưới 30 ngày.
+Số tiền trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được trong thời gian dưới 30 ngày.
+Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê trong thời gian dưới 180 ngày.
Nhóm 3, tỷ lệ trích lập dự phòng là 50% đối với những khoản:
+Những khoản cho vay có đảm bảo đã quả hạn trả nợ từ 180 ngày đến dưới 360 ngày;những khoản cho vay không có đảm bảo đã quá hạn trả nợ từ 90 ngày đến dưới 180 ngày.
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và giấy tờ có giá khác dẫn quá hạn thanh toán từ 30 ngày đến dưới 90 ngày.
+Số tiền đã trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được trong thời gian từ 70 ngày đến dưới 90 ngày.
+Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền từ 180 ngày đến dưới 360 ngày.
Nhóm 4, tỷ lệ trích lập là 100% đối với những khoản:
+Những khoản cho vay có bảo đảm đã quá hạn trả nợ từ 360 ngày trở lên; những khoản cho vay không có bảo đảm đảm đã quá hạn trả nợ từ 180 ngày trở lên.
+Những khoản tiền chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá ngắn hạn khác đã quá hạn thanh toán từ 90 ngày trở lên.
+Số tiền được trả thay cho người được bảo lãnh nhưng chưa thu hồi được từ 90 ngày trở lên.
+Những khoản cho thuê tài chính mà bên thuê không trả được tiền thuê từ 360 ngày trở lên.
Nhóm 5, tỷ lệ trích lập là 0, 1% đối với những khoản “Có” các dịch vụ thanh toán của khách hàng.
( Nội dung này được quy định tại quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN 5, ngày 25/8/1999 của Thống đốc NHNN ban hành quy định về việc phân loại tài sản “ Có ” trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro trong hoạt động ngân hàng của các Tổ chức tín dụng).
c-Những chỉ tiêu thực hiện dự trữ bắt buộc:
Dự trữ bắt buộc là một trong những công cụ chủ yếu thực hiện chính sách tiền tệ của NHNN trong giai đoạn hiện nay. Vì vậy, phải kiểm soát chỉ tiêu này một cách thường xuyên, chặt chẽ và phải có thái độ kịp thời khi NHTM quốc doanh không chấp hành đúng quy định đự trữ bắt buộc. Việc tính toán theo chỉ tiêu này thực hiện theo điều 20 Luật NHNN, cụ thể là: “NHNN quy định tỷ lệ dự trữ bắt buộc đối với từng loại hình Tổ chức tín dụng và từng loại tiền gửi với mức quy định từ 0%-20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi tổ chức trong từng thời kỳ”.
2. Đổi mới và hoàn thiện phương thức thanh tra tại chỗ:
a-Đổi mới phương thức thanh tra tại chỗ:
Chất lượng thanh tra tại chỗ có ý nghĩa quyết định đến hiệu quả của toàn bộ hoạt động Thanh tra Ngân hàng, qua hoạt động này có thể thấy được toàn bộ những ưu, nhược điểm và tồn tại trong việc chấp hành những cơ chế, quy chế, luật pháp, đánh giá tình trạng của một Tổ chức tín dụng trong một thời gian nhất định.
Do vậy, cần phải đổi mới phương pháp, cải tiến nội dung, tăng cường và nâng cao chất lượng của hoạt động thanh tra tại chỗ ở những nội dung sau:
Một là, đổi mới phương thức tiến hành thanh tra tại chỗ:
-Thanh tra định kỳ quy định tiến hành một năm tổ chức một lần, trường hợp không đủ thời gian và lực lượng có thể hai năm tiến hành một lần, năm nào không tổ chức thanh tra có đề cương yêu cầu NHTM quốc doanh đó báo cáo kết quả tự kiểm tra. Nội dung thanh tra không nhất thiết phải toàn diện, mà căn cứ vào thời gian, lực lượng thanh tra, căn cứ vào yêu cầu thực tế phải thanh tra làm rõ và xử lý một hoặc một vài lĩnh vực hoạt động của NHTM quốc doanh đó đặt ra trong năm sẽ thanh tra để xây dựng đề cương thanh tra.
-Thanh tra đột xuất, không phải xây dựng đề cương, không phải thông báo bằng văn bản trước cho đối tượng thanh tra, mà phải căn cứ vào những chỉ tiêu chủ yếu, qua phân tích hoạt động kinh doanh, hoặc qua những thông tin khác. Thanh tra đột xuất chỉ có quyết định lồng nội dung thanh, tiến hành thanh tra trong thời gian ngắn, có thể là một vài ngày.
Hai là, hoàn thiện quy trình thanh tra tại chỗ, nghĩa là xây dựng một quy trình tuần tự các bước cần phải thực hiện chung cho tất cả đoàn thanh tra.
b-Hoàn thiện nội dung thanh tra tại chỗ:
Như đã nêu trên, Thanh tra NHNN thực hiện giám sát và thanh tra với pháp nhân các NHTM quốc doanh. Do vậy, đề cương thanh tra các NHTM quốc doanh trong thời gian qua vẫn còn một số nội dung chưa được đề cập, hoặc đã đề cập nhưng chưa sâu, chưa toàn diện và ở một số nghiệp vụ chưa có nội dung thanh tra thống nhất cho tất cả các đoàn thanh tra, nội dung thanh tra còn tuỳ tiện theo ý chủ quan của từng đoàn. Những đoàn có đề cương thanh tra cụ thể, hợp lý sẽ có kết quả thanh tra tốt, kết luận chính xác. Những đoàn có đề cương chưa sâu, chưa cụ thể sẽ mất nhiều thời gian, kết quả thanh tra bị hạn chế, có trường hợp không đưa ra được kết luận cuối cùng.
Để khắc phục những nhược điểm này, ngoài việc bổ xung thêm nội dung thanh tra còn phải xây dựng và thống nhất đề cương thanh tra cho một số nghiệp vụ như:
*Kiểm tra hoạt động điều hành. Mục đích của việc này là nhằm xem ban lãnh đạo các NHTM quốc doanh có hoàn thành nhiệm vụ và trách nhiệm một cách thích ứng với toàn bộ các điều luật và quy chế, với các chương trình và chỉ tiêu được cấp trên giao phó hay không? Đánh giá các điều kiện phục vụ quản trị kinh doanh và hiệu lực của công tác quản trị điều hành. Cụ thể tập trung thanh tra các nội dung cơ bản sau:
+Về quản trị : xem xét, đánh giá tính pháp lý, tính thực tiễn và hiệu lực thi hành của việc ban hành các chủ trương, nghị quyết và các văn bản khác về quản trị và kiểm soát, hoạt động của ban kiểm soát trong việc xây dựng chương trình kiểm tra, kiểm soát, báo cáo hội đồng quản trị theo định kỳ hàng quý, năm và theo các vụ việc thuộc thẩm quyền,...
+Về điều hành : xem xét, đánh giá việc ban hành các văn bản hướng dẫn, các quy định nội bộ, quy trình tín dụng bảo lãnh, kinh doanh ngoại tệ, việc bố trí và tổ chức các mạng lưới, chi nhánh;việc bố trí sử dụng cán bộ vào các bộ phận nghiệp vụ..., qua đó ghi nhận những khó khăn vướng mắc dể có giải pháp xử lý kịp thời.
Thanh tra để đánh giá công tác quản lý là một việc làm khó, yêu cầu cần phải kết hợp được nhiều yếu tố của bản thân các nhà quản lý và những công việc mà họ đang tiến hành. Kết quả được biểu hiện rõ nét nhất là việc tuân thủ nghiêm túc các quy chế ngân hàng, hoạt động kinh doanh ổn định có lãi và có xu hướng phát triển.
*Kiểm tra về vốn và các quỹ:
+Vốn điều lệ của NHTM quốc doanh bao gồm vốn được Nhà nước giao tại thời điểm thành lập; vốn được Nhà nước bổ xung hàng năm, quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ và các nguồn vốn khác theo quy định của pháp luật.
Các NHTM quốc doanh không được sử dụng vốn điều lệ vào mục đích trái với quy định của pháp luật.
+Kiểm tra việc trích lập và sử dụng các quỹ tập trung.
*Kiểm tra tồn quỹ tiền mặt, vàng và các giấy tờ có giá đang bảo quản. Việc kiểm tra được tiến hành sau khi kết thúc họp thông báo thanh tra Kết quả thanh tra có chênh lệch thừa, thiếu, thanh tra lập biên bản chi tiết. Các NHTM có trách nhiệm tìm rõ nguyên nhân, quy trách nhiệm, báo cáo đoàn thanh tra.
*Phân loại tín dụng theo đối tượng vay và theo thời hạn vay vốn. Thực chất của công việc nàylà nhằm mục đích đánh giá chất lượng tài sản có, xác định những khoản cho vay kém hiệu quả, xem xét và chấp hành quy chế và mức độ rủi ro ban hành để có biện pháp chấn chỉnh và phòng ngừa thích hợp.
*Thu thập hồ sơ các vụ việc về hoạt động kinh doanh ngân hàng của các NHTM như :các đơn khiếu nại của khách hàng hoặc trong nội bộ có liên quan đến tổ chức và hoạt động của ngân hàng đang được điều tra xử lý; các vụ việc có liên quan đến những phiên toà sắp xét xử...
Hồ sơ chính của các vụ việc trên được sao chụp và nằm trong hồ sơ của Đoàn thanh tra.
Bên cạnh một số giải pháp về đổi mới nội dung và phương pháp thanh tra của NHNN đối với các NHTM quốc doanh thì việc tổ chức lại bộ máy về công tác đào tạo và cơ chế điều hành của thanh tra NHNN cũng rất cần thiết. Cụ thể:
- Do thanh tra NHNN là thanh tra chuyên ngành về ngân hàng thuộc bộ máy của NHNN. Bộ máy của NHNN được tổ chức thành một bộ máy tập trung, thống nhất từ Trung ương xuống các chi nhánh tỉnh, thành phố. Do vậy, tổ chức thanh tra của NHNN đối với các NHTM quốc doanh cũng cần được bố trí thuộc bộ máy NHNN từ Trung ương đến các chi nhánh NHNN tỉnh, thành phố.
-Về đổi mới công tác đào tạo, phổ cập những kiến thức cơ bản trong công tác thanh tra những năm gần đây đã có nhiều chuyển biến, góp phần trang bị cho cán bộ kiến thức pháp luật, quản lý Nhà nước, vi tính, ngoại ngữ...để có điều kiện nắm bắt kịp những khoa học kĩ thuật công nghệ mới. Tuy nhiên, kết quả sau đào tạo vẫn chưa thực sự khả quan;do vậy vẫn tiếp tục m
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0583.doc