Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm

Lời nói đầu

CHƯƠNG I: HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1

1.1 KHÁI QUÁT CHUNG VỀ NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 1

1.1.1. NHTM và vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế 1

 1.1.1.1.Khái niệm 1

 1.1.1.2.Vai trò của NHTM đối với sự phát triển của nền kinh tế 5

1.1.2 Các nghiệp vụ cơ bản của Ngân hàng thương mại 7

 1.1.2.1 Nghiệp vụ huy động vốn 7

 1.1.2.2.Nghiệp vụ sử dụng vốn 8

 1.1.2.3.Nghiệp vụ trung gian khác 10

1.2. VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 10

1.2.1. Khái niệm về vốn của Ngân hàng thương mại 10

1.2.2. Cơ cấu vốn của Ngân hàng thương mại 11

 1.2.2.1. Vốn chủ sở hữu 11

 1.2.2.2. Vốn huy động 12

 1.2.2.3. Vốn đi vay 14

 1.2.2.4. Vốn khác 15

1.2.3. Vai trò của hoạt động huy động vốn của Ngân hàng thương mại 15

 1.2.3.1.Đối với toàn bộ nền kinh tế 15

 1.2.3.2.Đối với hoạt động kinh doanh của ngân hàng thương mại 16

1.3. CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA NGÂN HÀNG THƯƠNG MẠI 17

1.3.1. Phân loại căn cứ theo thời gian 18

1.3.2. Phân loại căn cứ theo đối tượng huy động 19

1.3.3. Phân loại theo bản chất các nghiệp vụ huy động vốn 20

1.4. CÁC YẾU TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA NHTM 24

1.4.1. Yếu tố khách quan 24

 1.4.1.1. Pháp luật, chính sách của nhà nước 24

 1.4.1.2. Tình hình chính trị – kinh tế – xã hội trong và ngoài nước 25

 1.4.1.3. Tâm lý thói quen tiêu dùng của người gửi tiền 26

1.4.2. Yếu tố chủ quan 27

 1.4.2.1. Chiến lược kinh doanh của ngân hành 27

 1.4.2.2. Năng lực và trình độ của cán bộ ngân hàng 27

 1.4.2.3. Uy tín của ngân hành 28

 1.4.2.4. Trình độ công nghệ ngân hành 28

 

CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NGÂN HÀNG CÔNG THƯƠNG HOÀN KIẾM 30

2.1. KHÁI QUÁT SỰ HÌNH THÀNH VÀ PHÁT TRIỂN CỦA NHCT

 HOÀN KIẾM 30

2.2.THỰC TRẠNG HUY ĐỘNG VỐN TẠI NHCT HOÀN KIẾM 32

2.2.1.Tình hình huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm 33

 2.2.1.1.Về nguồn huy động vốn 35

 2.2.1.2.Về kỳ hạn huy động vốn 38

 2.2.1.3.Về chi phí huy động vốn 39

2.2.2.Các hình thức huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm 40

 2.2.2.1.Huy động vốn từ các quỹ 40

 2.2.2.2.Huy động vốn từ các khoản tiền gửi 41

 2.2.2.3.Huy động vốn qua đi vay 53

 2.2.2.4.Huy động vốn từ các nguồn khác 55

2.2.3.Đánh giá chung về tình hình huy động vốn của NHCT Hoàn

Kiếm 56

 

doc92 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1224 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm tăng cường huy động vốn tại Ngân Hàng Công Thương Hoàn Kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
, năm đầu của kế hoạch 5 năm (2001- 2005), nhận thức được những thời cơ và thách thức khi mở cửa, hội nhập kinh tế với nước ngoài. Ngân hàng đã cùng doanh nghiệp suy nghĩ, tháo gỡ những khó khăn, đưa ra các loại hình dịch vụ mới, đáp ứng một cách tốt nhất cho doanh nghiệp về thanh toán, bảo lãnh... Chính vì vậy trong con mắt của các tổ chức kinh tế, Ngân hàng là một người bạn đáng tin cậy, có thể chia sẻ, giúp đỡ doanh nghiệp trong kinh doanh. Không thụ động ngồi chờ khách hàng tìm đến với mình, Ngân hàng luôn chủ động tìm kiếm các khách hàng mới. Có rất nhiều các khách hàng lớn như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện Lực Việt Nam, Công ty Đầu tư Phát triển nhà Hà Nội, Công ty Phát triển hạ tầng... với số dư tiền gửi ở Ngân hàng lên tới hàng trăm tỷ đồng. Ngoài ra phần lớn khách hàng là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, các hộ cá thể. Tiền gửi của khu vực dân cư bao gồm tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi của dân cư qua các năm vẫn tăng song có xu hướng giảm dần về tỷ trọng. Nếu như năm 2000, số dư tiền gửi là 530 tỷ và chiếm tỷ trong là 22,71% thì các con số tương ứng trong năm 2001 là 602 tỷ và 14,04%. Như vậy về số tuyệt đối là tăng gần 1/5 so với năm trước song về tỷ trọng lại giảm gần một nửa. Đây là do năm 2001, chi nhánh ngoài huy động vốn từ dân cư đã đẩy mạnh thu hút từ nhiều nguồn khác và đạt được nhiều thắnh lợi. Tiếp đà năm 2001, đến năm 2002. nguồn vốn huy động vẫn tăng song tỷ trọng lại giảm. Điều này cho thấy đi đôi với việc tăng tổng nguồn vốn thì cần phải rất chú trọng và cải thiện việc huy động tiền gửi từ dân cư. Về phát hành các công cụ nợ. Thực ra việc phát hành này cũng là huy động từ khu vực dân cư. Ngân hàng phát hành các kỳ phiếu, trái phiếu theo định hướng chung của NHCT Việt Nam. Đây là khu vực mà có tốc độ tăng ngoạn mục nhất. Năm 2000, việc phát hành các công cụ nợ của Ngân hàng chỉ thu được vỏn vẹn 3 triệu đồng. Một con số quá khiêm tốn. Đến năm 2001 đã nhảy vọt lên 17 tỷ và năm 2002 là hơn một trăm tỷ. Ngoài ra nguồn vốn đi vay của chi nhánh cũng rất lớn, vào các năm 2000 và 2001 chiếm hơn 50% tổng nguồn vốn. Song đến năm 2002 nguồn vay này chỉ chiếm không đáng kể trong tổng nguồn vố. Đây là do trong năm, Ngân hàng có nhiều hợp đồng tín dụng và nguồn vốn từ các đơn vị khác trong hệ thống do không có đầu ra nên được điều chuyển về. Nguồn vốn khác của Ngân hàng cũng rất lớn , trong năm 2000 và năm 2001 chỉ chiếm vài % nhưng đến năm 2002 chiếm tới hơn 50% tổng nguồn vốn. Ngân hàng cho vay được nhiều, đầu tư có hiệu quả nên các ngân hàng khác, chi nhánh khác có nguồn vốn nhiều không cho vay được đã uỷ thác cho Ngân hàng sử sụng. Nguồn vốn uỷ thác này rất lớn thể hiện được uy tín và vị thế của chi nhánh trên thương trường. 2.2.1.2. Về kỳ hạn huy động vốn Xét về mặt thời gian Ngân hàng huy động vốn theo hai loại : không kỳ hạn và có kỳ hạn. Hình thức có kỳ hạn của Ngân hàng rất đa dạng, đáp ứng được mọi nhu cầu của người gửi. Năm 2002, chi nhánh mở thêm thời hạn huy động mới là 2 tháng và hiện nay Ngân hàng đang huy động với các thời hạn sau: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng và trên 12 tháng. Thời hạn đa dạng đã đáp ứng mọi mục đích của người gửi tiền: gửi với mục đích sinh lợi, gửi với mục đích thanh toán, gửi với mục đích an toàn... Ngân hàng tạo mọi thuận lợi cho người gửi tiền. Ngân hàng cũng nhận được sự tán thưởng, đánh giá cao của khách hàng thể hiện qua kết quả huy động: Bảng 2.4. Nguồn vốn huy động theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) Vốn không kỳhạn 166.108 7,12 353.416 8,22 464.485 9,18 Vốn ngắn hạn 1.785.224 76,42 3.566.086 82,97 3.889.729 76,86 Vốn trung và dài hạn 384.564 16,46 378.490 8,81 706.475 13,96 Tổng 2.335.896 100 4.297.992 100 5.060.689 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồng vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Nguồn huy động không kỳ hạn của Ngân hàng qua các năm đều tăng. Tỷ trọng trong tổng nguồn vốn ngày càng được tăng cường một cách khá đều đặn. Trong cơ cấu của nguồn tiền gửi không kỳ hạn này thì chủ yếu là tiền gửi của các tổ chức kinh tế, chiếm khoảng 95%. Nguồn tiền gửi của khu vực dân cư rất ít. Nó phản ánh đặc điểm của nguồn tiền gửi không kỳ hạn. Nguồn tiền gửi không kỳ hạn chủ yếu được các tổ chức kinh tế sử dụng với mục đích phục vụ cho việc thanh toán. Còn đối với dân cư, mục đích chủ yếu là để lấy lãi, nên họ gửi vào các khoản mục có kỳ hạn. Trong tổng nguồn vốn huy động của Ngân hàng tính theo thời gian, thì nguồn vốn ngắn hạn luôn rất lớn, chiếm khoảng 75 - 80% tổng nguốn vốn. Nguồn vốn ngắn hạn này huy động từ dân cư, doanh nghiệp và được các ngân hàng khác điều chuyển đến. Ngày nay các doanh nghiệp cũng có xu hướng gửi tiền vào các khoản mục ngắn hạn: 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng... thay vào chỉ gửi vào tiền gửi không kỳ hạn như trước kia. Các doanh nghiệp đã tính toán kỹ lưỡng chu kỳ kinh doanh của mình, từ đó tìm ra giải pháp tối ưu để tối đa hoá lợi nhuận. Khoản tiền huy động từ nguồn trung và dài hạn là quan trọng đối với bất cứ Ngân hàng nào. Đây là nguồn chủ yếu để Ngân hàng tiến hành cho vay trung và dài hạn. Lãi suất cho vay trung và dài hạn rất cao, từ đó Ngân hàng kiếm dược nhiều lợi nhuận. Lấy nguồn huy động trung và dài hạn để cho vay trung và dài hạn là một cách để giảm bớt rủi ro thanh khoản và rủi ro lãi suất. Nguồn vốn trung và dài hạn của Ngân hàng không nhiều, chiếm một tỷ trọng nhỏ. Năm 2001 nguồn này còn bị giảm sút so với năm 2000 và có tăng trong năm 2002. Tuy nhiên so với các khoản cho vay trung và dài hạn thì không tương xứng. Tỷ lệ cho vay trung và dài hạn của chi nhánh ngày càng tăng và đến năm 2002 đạt mức cao hơn so với cho vay ngắn hạn. Ngân hàng đã áp dụng việc chuyển hoán kỳ hạn nguồn. Đây là một con dao hai lưỡi và Ngân hàng phải hết sức quan tâm tới an toàn tín dụng. 2.2.1.3. Về chi phí huy động vốn Trên con đường hội nhập và phát triển, nguồn vốn cần cho đầu tư, phát triển kinh tế là luôn cần thiết. Trong khi các đơn vị khác, việc huy động vốn gặp khó khăn và để tăng sức cạnh tranh, họ luôn tăng lãi suất huy động. NHCT Hoàn Kiếm với lãi suất huy động không cao hơn, song lại huy động được một nguồn vốn lớn, đã chứng tỏ được uy tín của mình đối với khách hàng, tạo vị thế phát triển vững chắc. Chi phí huy động bao gồm ngoài phần lãi phải trả còn có những khoản khác như: lương nhân viên, trang bị máy đếm tiền, máy soi tiền, tiền thuê trụ sở, các chi phí hành chính khác... Trong đó phần lãi phải trả là bộ phận chủ yếu của chi phí huy động. NHCT Hoàn Kiếm huy động vốn theo khung lãi suất do Tổng giám đốc NHCT Việt Nam quy định trong từng thời kỳ. Khác với các Ngân hàng cổ phần, chi nhánh Ngân hàng nước ngoài, lãi suất luôn được điều chỉnh theo kiểu phá giá. Lãi suất huy động của chi nhánh không cao hơn song vẫn thu hút được đông đảo khách hàng. Chi nhánh luôn nghiên cứu tìm ra các biện pháp để giảm các chi phí khác trong chi phí huy động. Mục tiêu đặt ra là phải làm sao để tốc độ tăng của lợi nhuận phải lớn hơn tốc độ tăng cuả chi phí. Và Ngân hàng đã thực hiện một cách xuất sắc mục tiêu trên. Kết quả là, năm 2000 lợi nhuận hạch toán là 23 tỷ đồng và đến năm 2002 là 42,2 tỷ đồng. Ngân hàng xác định thế mạnh trong cạnh tranh sẽ là ở khâu dịch vụ. Từ đó Ngân hàng nâng cao chất lượng các dịch vụ, hấp dẫn, lôi cuốn đuợc nhiều khách hàng mới đồng thời luôn quan tâm, giữ chân các khách hàng truyền thống. 2.2.2. Các hình thức huy động vốn tại NHCT Hoàn Kiếm 2.2.2.1. Huy động vốn từ các quỹ NHCT Hoàn Kiếm là một trong số 115 chi nhánh trên toàn quốc của NHCT Việt Nam. Là một Ngân hàng thuộc sở hữu Nhà Nước, NHCT Việt Nam có vốn pháp định do Nhà Nước cấp. ở cấp chi nhánh song hàng năm NHCT Hoàn Kiếm vẫn có những khoản vốn huy động được từ chính các quỹ tại đơn vị. Ngân hàng trích lập các quỹ từ lợi nhuận sau thuế như: quỹ dự trữ bổ xung vốn điều lệ, quỹ dự phòng tài chính, quỹ phúc lợi, quỹ đào tạo, quỹ khen thưởng... Nguồn huy động từ các quỹ này có ý nghĩa rất lớn. Đây là nguồn của chính đơn vị, đơn vị sử dụng nên không phải trả lãi như các nguồn huy động khác. Hơn nữa nguồn này còn thể hiện tình hình hoạt động kinh doanh hiệu quả của đơn vị. Tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm, nguồn vốn huy động từ các quỹ trong các năm qua như sau: Bảng 2.5. Nguồn vốn huy động từ các quỹ (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Nguồn vốn huy động từ các quỹ 129 275 417 Lượng vốn gia tăng giữa các năm +146 +142 Tỷ lệ gia tăng giữa các năm (%) 113,17 49,81 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp So sánh với tổng nguồn vốn huy động, vốn huy động từ các quỹ tại chi nhánh chỉ chiếm một phần rất nhỏ. Tuy nhiên nguồn vốn này đang ngày càng gia tăng với tốc độ khá nhanh. Năm 2002, nguồn vốn huy động từ cac quỹ tăng hơn gấp đôi năm 2000 (khoảng 113,17%) . Năm 2002, vốn huy động từ các quỹ lại tăng gấp rưỡi so với năm 2001. ở đây ta chưa xét đến khía cạnh tuyệt đối mà chỉ nói đến khía cạnh tương đối. Nó chứng tỏ một điều rằng NHCT Hoàn Kiếm đang kinh doanh rất có lãi. Bởi nguồn của các quỹ này là từ lợi nhuận sau thuế, Ngân hàng dùng khoản này để kinh doanh vừa kinh tế lại vừa an toàn cho chính Ngân hàng. Hơn nữa ta thấy tốc độ gia tăng của các quỹ khác này rất đáng kể. Điều này chứng tỏ ngoài việc cố gắng hết sức việc huy động vốn từ bên ngoài, Ngân hàng cũng hết sức chú ý việc phát huy nội lực của chính mình. Đây là một điều đúng với tất cả các doanh nghiệp. Đặc biệt với Ngân hàng, việc kinh doanh gặp nhiều rủi ro không lường trước được thì lại càng quan trọng. 2.2.2.2. Huy động vốn từ các khoản tiền gửi a. Tiền gửi thanh toán Đứng ở cấp độ một chi nhánh, có thể nói NHCT Hoàn Kiếm là một chi nhánh đứng hàng đầu trong việc quan hệ với các khách hàng lớn. Đây không phải là ngẫu nhiên mà là kết quả của một chiến lược huy động vốn lâu dài, trong đó rất coi trọng đến các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế. Các khách hàng lớn là những tổng công ty, các tổ chức kinh tế có tình hình tài chính lành mạnh, quy mô làm ăn lớn. Có thể kể ra như: Tổng công ty Than Việt Nam, Tổng công ty Điện lực Việt Nam, các tổng công ty 90, 91, công ty đầu tư và phát triển Nhà Hà Nội, Điện lực Hà Nội... Ngoài ra số lượng khách hàng là các công ty vừa và nhỏ rất nhiều: Công ty thương mại và dịch vụ Thái Dương, HTX bốc xếp Đồng Xuân, Công ty Quyết Thắng CCB, Công ty TNHH Liên Thao... Đây là những tổ chức kinh tế đóng góp phần lớn nguồn tiền gửi không kỳ hạn cho Ngân hàng. Ta xem bảng sau: Bảng 2.6. Nguồn tiền gửi thanh toán theo đối tượng (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) Tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế 158.391 95,36 344.273 97,42 455.168 98 Tiền gửi thanh toán của dân cư 7.717 4,64 9.143 2,58 9.317 2 Cộng 166.108 100 353.416 100 464.485 100 Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Qua bảng ta có thể thấy được nguồn tiền gửi thanh toán tại Ngân hàng hầu như là của các tổ chức kinh tế. Điều này là phù hợp với đặc điểm của nguônd. Các tổ chức kinh tế trong quá trình kinh doanh của mình, nguồn tiền đến và đi rất bất chợt, khó đoán trước. Các tổ chức kinh tế thay vì giữu tiền tại cơ quan, họ mang đến gửi Ngân hàng. Tại đây họ thực hiện các dịch vụ thanh toán của Ngân hàng, tiết kiệm thời gian cho mình. Đồng thời họ vẫn được hưởng một khoản lãi nhỏ (hiện nay Ngân Hàng quy định lãi suất không kỳ hạn đối vơí VND là 0,2%/tháng). Điều này giải thích vì sao nguồn tiền gửi thanh toán chủ yếu là của các tổ chức kinh tế. Tiền gửi thanh toán của dân cư chủ yếu là của một số ít hộ dân buôn bán cá thể (các hộ buôn bán ở chợ Đồng Xuân, một số cửa hàng vàng, bạc trên địa bàn quận). Các hộ này cũng có nhu cầu như các tổ chức kinh tế song qua ccác năm, số này nhỏ dần trong tỷ trọng. Năm 2000 chiếm 4,64% nhưng đến năm 2002 chỉ còn 2%. Trong khi đó tiền gửi của các tổ chức kinh tế ngày càng tăng, đến năm 2002, chiếm 98% tổng tiền gửi thanh toán. Đây có lẽ là xu hướng chung cho một nền kinh tế mở cửa, khi mà quá trình lưu thông hàng hoá giữa các vùng, giữa các nước ngày càng được mở rộng, thúc đẩy mạnh mẽ. Trong cơ cấu tiền gửi thanh toán chủ yếu là đồng nội tệ, đồng ngoại tệ chiếm một tỷ trọng nhỏ: Bảng 2.7. Nguồn tiền gửi thanh toán theo loạI tiền (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) 1.VND 156.221 94.04 344.485 97,47 455.631 98,09 2.Ngoại tệ 9.887 5,96 8.931 2,53 8.854 1,91 Tổng 166.108 100 353.416 100 464.485 100 Nguồn số liệu: Phòng kinh doanh NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Đồng nội tệ trong tiền gửi thanh toán có xu hướng tăng qua các năm. Về số tuyệt đối thì tăng khoảng gấp rưỡi, còn về tỷ trọng thì tăng từ 94,04% năm 2000 lên 98,09% vào năm 2002. Đồng ngoại tệ thì ngày càng giảm đi về tỷ trọng từ 5,96% năm 2000 xuống còn 1.91% vào năm 2002. Điều này đặt ra cho Ngân Hàng một vấn đề lớn: Ngân Hàng phải tăng cường quan hệ với các công ty liên doanh, công ty có vốn đầu tư nước ngoài...Ngân Hàng cũng phải tìm kiếm, thu hút những doanh nghiệp XNK. Bởi nếu khách hàng là những người làm ăn với nước ngoài nhiều thì Ngân Hàng sẽ có một số lượng lớn ngoại tệ trong tay, sử dụng vào các mục đích của mình. Đây là cách huy động ngoại tệ rấy hay lại đỡ tốn kém hơn các hình thức khác. Nguồn tiền gửi thanh toán của chi nhánh ngày càng có vai trò quan trọng. Số lượng tăng lên rất nhanh. Đó là do các dịch vụ của Ngân Hàng được thực hiện rất tốt. Việc thanh toán được thực hiện theo phương châm: Nhanh- chính xác- an toàn. Để nguồn tiền gửi thanh toán tăng trưởng một cách vững chắc , trong thời gian tới Ngân Hàng cần quan tâm nhiều đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hoàn thiện mọi dịch vụ để thực sự trở thành: "Kho giữ tiền" của mọi doanh nghiệp trên điạ bàn quận. b. Tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và các tổ chức xã hội Nguồn tiền gửi này xét về mặt tiện ích thì không bằng tiền gửi thanh toán, song lại có lãi cao hơn hẳn. Người gửi tiền ở đây khôngđược quyền rút tiền bất cứ lúc nào mà chỉ được rút tiền khi đến hạn. Các doanh nghiệp, tổ chức xã hội có nhu cầu chi trả tiền theo một chu kỳ xác định: 1 tháng, 2 tháng... Họ có thể gửi vào khoản mục này vừa đáp ứng cho nhu cầu của mình vừa có lãi cao. Ngày nay các doanh nghiệp chuyển bớt từ khoản mục tiền gửi thanh toán sang tiền gửi ngắn hạn ngaỳ càng nhiều. Kết quả là các Ngân Hàng thu được nguồn này rất lớn, cụ thể tại chi nhánh như sau: Bảng 2.8. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trong (%) Số dư Tỷ trọng (%) 1.Ngắn hạn (dưới12 tháng) 213.171 99,85 720.538 99,95 1.000.463 99,95 2.Trung, dài hạn (trên12tháng) 285 0,14 347 0,05 571 0,05 Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Tiền gửi có kỳ hạn, kỳ hạn càng dài thì lãi suất càng cao song trong cơ cấu của nguồn này thì gần như toàn bộ là ngắn hạn. Đây là một điều dễ giải thích. Doanh nghiệp là doanh nghiệp, có nghĩa là vốn có được phải được dùng để sản xuất kinh doanh chứ không đơn thuần là chỉ để gửi Ngân Hàng lấy lãi. Tỷ suất lợi nhuận bình quân trong kinh doanh lớn hơn lãi suất của Ngân Hàng. Các khách hàng của chi nhánh, ví dụ như tổng công ty Điện Lực Việt Nam gửi ngắn hạn sau đó họ lấy từng tháng để trả lương. Đây lầ một hình thức vô cùng thuận tiện. Với hình thức này Ngân hàng đã khắc phục được yếu điểm của tiền gửi thanh toán. Đó là nguyên nhân vì sao chỉ sau một năm, từ 2000 đến 2001, nguồn tiền gửi ngắn hạn của doanh nghiệp đã tăng 3,38 lần từ 213 tỷ lên 720 tỷ đồng. Năm 2002 nguồn này đạt hơn 1000 tỷ đồng. Có thể khẳng địng đây sẽ là xu hướng trong thời gian tới. Các doanh nghiệp sẽ vừa kinh doanh, vừa tính toán sao cho đạt được lợi nhuận tối đa với nguồn vốn của mình. Đây cũng khẳng định uy tín của chi nhánh với các doanh nghiệp trên địa bàn. Trên quận Hoàn Kiếm, trụ sở của các Ngân Hàng, các chi nhánh Ngân Hàng khác rất nhiều nhưng các doanh nghiệp vẫn tìm đến với Ngân Hàng thể hiện qua số dư tiền gửi của doanh nghiệp ngày càng tăng. Năm 2002 so với năm 2001 tăng 38,86% và so với năm 2000 tăng hơn 5 lần. Quả thật là một con số trong mơ đối với nhiều chi nhánh, đơn vị khác. Số dư tiền gửi trung và dài hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội không lớn. Số dư này chủ yếu là của một số công ty do trong năm không tìm được hướng đầu tư, để tránh tìng trạng ứ đọng vốn, đã gửi vào Ngân Hàng. Nguồn này tuy cũng tăng qua các năm song tỷ trọng ngày càng nhỏ dần. Năm 2000 chiếm 0,14% nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, tổ chức xã hội. Năm 2001 chiếm 0,05% và năm 2002 cũng vậy. Đứng ở địa vị Ngân Hàng thì Ngân Hàng mong ngày càng có nhiều nguồn này. Bởi vì Ngân Hàng có thể sử dụng một cách dễ dàng do kỳ hạn cố định. Hơn nữa số tiền nay lại ở trong một số ít các công ty, không phức tạp nhỏ lẻ như tiền gửi tiết kiệm nên có điều kiện làm giảm các chi phí khác trong chi phí huy động. Trong các năm qua Ngân Hàng ngày càng tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các doanh nghiệp. Tiền gửi có kỳ hạn có lãi suất cao hơn so với tiền gửi thanh toán. các doanh nghiệp đã tận dụng điều này và đã nghiên cứu, tính toán chu kỳ kinh doanh của mình để chuyển một phần tiền gửi thanh toán sang tiền gửi có kỳ hạn. Ngân hàng có một lượng tiền để có thể sử dụng một cách ổn định hơn và doanh nghiệp có lãi hơn. Đây là một trong nhiều cách thức nhằm đa dạng hoá hình thức huy động, thu hút thật nhiều nguồn vốn của chi nhánh. Tỷ trọng tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp, tổ chức xã hội trong tổng nguồn vốn huy động tăng lên rất nhanh. Năm 2000 trong tổng nguồn vốn huy động 2.335.896 triệu đồng thì tiền gửi có kỳ hạn của doanh nghiệp chiếm 9,13%. Năm 2001 con số này là 16,77%, năm 2002 là 19,78%. điều đáng nói ở đây là trong khi tổng nguồn vốn huy động tăng lên gấp hơn hai lần tử năm 2000 đến năm 2002 thì tỷ trọng cũng tăng lên hơn hai lần. Điều này càng khẳng định tầm quan trọng của nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp, các tổ chức xã hội. Tuy nhiên cũng như tiền gửi thanh toán, nguồn tiền gửi này lại có sự chênh lệch rất lớn giữa các loại tiền. Bảng 2.9. Nguồn tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp và tổ chức xã hội theo loại tiền (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trong (%) Số dư Tỷ trong (%) 1.VND 188.368 88,24 690.873 95,84 962.916 96,20 2.Ngoại tệ 25.088 11,76 30.012 4,16 38.118 3,8 Tổng 213.456 100 720.885 100 1.001.034 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Trong số khách hàng- doanh nghiệp của chi nhánh, hầu hết là các doanh nghiệp có môi trường làm ăn ở trong nước. Các khách hàng lớn như tổng công ty Điện lực Việt Nam cũng ít làm ăn với nước ngoài. Điều này được thể hiện qua tiền gửi có kỳ hạn của các doanh nghiệp chủ yếu là nội tệ. Tỷ trọng này tăng nhanh trong năm 2001 và dần ổn định ở mức cao trong năm 2002 (96,2%). Ngoại tệ thì ngày càng nhỏ đi từ 11,76% năm 2000 đến 4,16% năm 2001 và 3,8% năm 2002. Để thu hút nguồn ngoại tệ nhiều hơn nữa, Ngân Hàng phải chú ý đến các đối tượng thuộc thành phần kinh tế ngoài quốc doanh. Một điều thuận tiện cho Ngân Hàng là trên địa bàn có rất nhiều cửa hàng vàng bạc, rất nhiều khách du lịch nước ngoài. Ngân Hàng nếu lôi cuốn đựoc hầu hêt số khách này thì chắc hẳn sẽ có một nguồn ngoại tệ dồi dào dư sức đáp ứng cho các khách hàng là những đơn vị XNK. Đi đôi với tăng nguồn ngoại tệ thu hút mạnh hơn nữa nguồn nội tệ cũng rất quan trọng. Ngân Hàng phải đề ra các chính sách về giao tiếp khuếch trương, chính sách về Marketing ngân hàng. ít nhất Ngân Hàng cũng phải thắng trên sân nhà, tức là phải thu hút được hầu hết các công ty, doanh nghiệp trên địa bàn làm khách hàng của chi nhánh. Làm được điều này trong một môi trường có đọ cạnh tranh rất cao như địa bàn Hoàn Kiếm là rất khó. Song có như vậy Ngân Hàng mới thu hút được khoản tiền gửi có kỳ hạn của một lượng doanh nghiệp, tổ chức xã hội rất lớn trên địa bàn. Từ đó chi nhánh có một nguồn vốn dồi dào để thực hiện các hoạt động đầu tư, cho vay, gia tăng mức lợi nhuận cho mình. c. Tiền gửi tiết kiệm Có thể nói nghiệp vụ huy động tiền gửi tiết kiệm là nghiệp vụ có đầu tiên của bất cứ Ngân hàng nào từ xưa đến nay. Các tầng lớp dân cư đều có khoản thu nhập tạm thời chưa sử dụng (các khoản tiền tiết kiệm). Trong điều kiện có khả năng tiếp cận với Ngân hàng, họ đều có thể gửi tiết kiệm nhằm thực hiện các mục tiêu bảo toàn và sinh lời đối với các khoản tiết kiệm, đặc biệt là nhu cầu bảo toàn. Nhằm thu hút ngày càng nhiều tiền tiết kiệm, các Ngân hàng đều cố gắng khuyến khích dân cư thay đổi thói quen giữ vàng và tiền mặt tại nhà bằng cách mở rộng mạng lưới huy động, đưa ra các hình thức huy động đa dạng và lãi suất cạnh tranh hấp dẫn (ví dụ như tiền gửi với các kỳ hạn khác nhau, tiết kiệm bằng ngoại tệ, bằng vàng...). Chính vì vậy đây là khu vực có mức độ cạnh tranh cao nhất giữa các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng khác. Hiện nay, NHCT Hoàn Kiếm có 11 quỹ tiết kiệm, các quỹ này trực thuộc phòng Nguồn vốn và được phân bố dải rác trên địa bàn. Ngay từ đầu chi nhánh đã hết sức coi trọng công tác đặc biệt này. Nó được thể hiện qua việc các quỹ tiết kiệm đều được ưu tiên trang bị các máy móc thiết bị, môi trường sạch đẹp, khang trang... Ngay trong phòng Nguồn vốn về mặt nhân sự có 54 người thì chỉ có 6 người làm trên phòng, còn lại tất cả đều xuống các quỹ tiết kiệm. Ngân hàng thường xuyên tổ chức tập huấn, đào tạo trình độ nghiệp vụ cho các nhân viên ở các quỹ tiết kiệm. Về các mặt lương thưởng, trợ cấp... chi nhánh cũng đều hết sức quan tâm, chú ý. Kết quả của những việc làm trên là nguồn tiền gửi tiết kiệm ngày càng tăng, phát triển với một sự vững chắc ổn định qua từng năm. Bảng 2.10. Tiền gửi tiết kiệm (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 1999 Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 1.Tiền gửi tiết kiệm 358.717 530.686 602.946 625.621 2.Lượng TGTK gia tăng giữa các năm + 171.969 + 72.260 + 22.675 3.Tỷ lệ gia tăng giữa các năm 47,94 13,61 3,71 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân hàng là rất quan trọng. Nguồn này đáp ứng phần lớn cho hoạt động tín dụng. Qua các năm nguồn tiền gửi tiết kiệm của Ngân Hàng đều tăng song tốc độ tăng chậm dần. Nếu như năm 2000 so với năm 1999 tăng đến 47,94% thì năm 2002 so với năm 2001 chỉ tăng 3,76%. Điều này phản ánh môi trường huy động tiền gửi tiết kiệm ngày càng khó khăn. Những năm 2000 đổ về trước việc huy động tiền gửi tiết kiệm của Ngân Hàng tương đối dễ dàng, đối thủ cạnh tranh của Ngân Hàng còn ít. Càng về sau với sự tham gia của nhiều tổ chức tín dụng trên địa bàn như: Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Nông Nghiệp, chi nhánh Citibank...đã làm cho sự cạnh tranh ngày càng tăng. Tốc độ gia tăng tiền gửi tiết kiệm của chi nhánh có giảm song về số tuyệt đối thì vẫn ở mức cao. Ngân hàng vẫn khẳng định được vị thế vững chắc của mình trên địa bàn quận Hoàn Kiếm. Nếu xét về tỷ trọng trong tổng nguồn vốn huy động thì tiền gửi tiết kiệm có xu hướng ngày càng giảm dần. Năm 2000, tỷ trọng tiền gửi tiết kiệm trong tổng nguồn vốn là 22,71%. Năm 2001, tỷ lệ này còn 14,02% và năm 2002 là12,36%. Như vậy tốc độ tăng của tiền gửi tiết kiệm không tăng nhanh hơn tốc độ của nguồn vốn huy động. Đây là một vấn đề cần xem xét lại. Để rõ hơn ta tìm hiểu về tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn: Bảng 2.11. Tiền gửi tiết kiệm theo kỳ hạn (đơn vị: triệu đồng) Chỉ tiêu Năm 2000 Năm 2001 Năm 2002 Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) Số dư Tỷ trọng (%) 1.TGTK không kỳ hạn 7.717 1,46 9.143 1,53 9.317 1,5 2.TGTK từ 1 đến 6 tháng 74.882 14,11 104.670 17,35 117.552 18,79 3.TGTK từ 6 đến 9 tháng 223.498 42,11 223.337 37,04 219.196 35,03 4.TGTK từ 12 tháng trở lên 224.589 42,32 265.796 44,08 279.556 44,68 Tổng 530.686 100 602.946 100 625.621 100 Nguồn số liệu: Phòng nguồn vốn NHCT Hoàn Kiếm cung cấp Kỳ hạn của các khoản tiền gửi mà Ngân hàng đưa ra khá phong phú. Hiện nay tại chi nhánh có các kỳ hạn sau: tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm có kỳ hạn 1 tháng, 2 tháng, 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng, 12 tháng, 18 tháng, 24 tháng. Về tiền gửi tiết kiệm không kỳ hạn, thực chất đây là khoản tiền gửi tiết kiệm thông thường. Nguồn này có số dư không lớn và ít biến động qua các năm ( khoảng 1,5% tiền gửi tiết kiệm). Hầu hết mục đích của người gửi tiền vào đây là để lấy lãi nên họ gửi với kỳ hạn dài (thời hạn càng dài lãi suất càng cao). Tiền gửi tiết kiệm từ 1- 3 tháng có xu hướng tăng qua các năm. Năm 2000 đạt 14,11% tổng số tiền gửi tiết kiệm. Năm 2002 đạt khoảng 18,7%. Điều này là kết quả của việc đa dạng các kỳ hạn gửi tiền. Năm 2001, tiền gửi tiết kiệm không có kỳ hạn 2 tháng. Năm 2002, Ngân hàng mở thêm kỳ hạn này và đã được khách hàng rất hoan nghênh. Nhờ đó nguồn tiền gửi tiết kiệm đã tăng lên. Ta thấy tốc độ tăng khá đều đã khẳng định xu thế của nguồn này sẽ tăng trong tương lai. Đối với tiền gửi tiết kiệm kỳ hạn 6- 9 tháng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0470.DOC
Tài liệu liên quan