Đề tài Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ tới

MỤC LỤC

Trang

LờI NóI ĐầU 1

Chương I: Những lý luận chung về đầu tư trực tiếp 2

1. Khái niệm đầu tư trực tiếp: 2

2. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài 3

3. Các hình thức của đầu tư trực tiếp 3

4. Khu chế xuất và khu công nghiệp 5

5. Tác động của đầu tư trực tiếp 6

 

Chương II: Thực trạng và những đánh giá tình hình thu hút, sử dụng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 10

I- Thực trạng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 10

1. Xét về vốn đầu tư 10

2. Xét về ngành nghề đầu tư 11

3. Xét về cơ cấu địa bàn đầu tư 13

4. Xét về hình thức đầu tư 14

II- Đánh giá tình hình thu hút và sử dụng FID của Nhật Bản vào Việt Nam. 16

1. Những thành công 16

2. Những hạn chế và nguyên nhân 19

3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tồn tại trên 20

 

Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI 23

1. Điều đầu tiên chúng ta phải làm là nhận thức đúng đắn vai trò và định hướng rõ ràng về vấn đề thu hút FDI của Nhật Bản. 23

2. Về môi trường đầu tư 23

 

Kết luận 27

Danh mục tài liệu tham khảo 28

 

doc29 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1786 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả FDI của Nhật Bản vào Việt Nam trong thời kỳ tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
những nhân tố này có tác động mạnh mẽ đến hoạt động kinh doanh của các nhà đầu tư. Không ít các nhà đầu tư do không xem xét kỹ các yếu tố nêu trên đã thất bại trong việc đầu tư kinh doanh ở nước ngoài như: do bất ổn về chính trị làm cho các doanh nghiệp bị quốc hữu hoá; do nghiên cứu không kỹ về môi trường văn hoá dẫn tới những xung đột trong lĩnh vực quản lý nhân sự; hay sản phẩm không phù hợp với thị trường nước sở tại... b. Tác động tới nước tiếp nhận đầu tư - Tác động tích cực Tác động tích cực lớn nhất đối với các nước tiếp nhận đàu tư có thể kể đến là nó tạo điều kiện cho các nước này thu hút được kỹ thuật và công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý của nước ngoài vì các nước phát triển thường có công nghệ tiên tiến và trình độ quản lý cao trong khi các nước đang phát triển lại cần có công nghệ và trình độ quản lý cao để phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá , hiện đại hoá của mình. Khi đó cách tốt nhất là kêu gọi đầu tư bởi phương pháp này giúp họ từ từ tiếp nhận được các công nghệ đó, tránh được những rủi ro khi mua nó. Tạo điều kiện cho nước sở tại khai thác một cách có hiệu quả nguồn tài nguyên thiên nhiên. Do sự kém phát triển về công nghệ, không đáp ứng được những yêu cầu của việc khai thác tài nguyên thiên nhiên, nhất là đối với những ngành đòi hỏi dây chuyền công nghệ tiên tiến như: dầu khí, khai khoáng nên các nước đang phát triển gặp không ít khó khăn trong việc khai thác nguồn tài nguyên thiên nhiên phục vụ cho sự phát triển đất nước. Vì vậy họ phải hợp tác với các nhà đầu tư nước ngoài để tránh lãng phí. Một tác động nữa đó là giúp các nhà đầu tư của nước sở tại sử dụng có hiệu quả đồng vốn, mở rộng tích luỹ và góp phần nâng cao tốc độ phát triển kinh tế. Do có hoạt động đầu tư mà vốn của các nhà đầu tư nước sở tại được sử dụng có hiệu quả hơn vì họ được áp dụng các công nghệ hiện đại, được tiếp cận với phương thức quản lý mới khoa học hơn. Chính điều này đã tạo điều kiện cho họ sử dụng đồng vốn một cách có hiệu quả. - Tác động tiêu cực Bên cạnh những tác động tích cực trên thì đầu tư trực tiếp cũng có một số tác động tiêu cực đến phía tiếp nhận đầu tư, cụ thể như: Nếu nước sở tại mà không có một quy hoạch đầu tư cụ thể và khoa học thì có thể dẫn tới sự đầu tư tràn lan và kém hiệu quả. Như vậy thì tài nguyên thiên nhiên bị khai thác quá mức dẫn đến lãng phí, môi trường bị ô nhiễm nặng nề. Hạn chế này đã xảy ra ở các nước đang phát triển như Việt Nam. Khi chúng ta chưa có một qui hoạch tổng thể cho các ngành, các lĩnh vực đầu tư đã dẫn đến tình trạng khai thác tài nguyên một cách lãng phí gây ra hậu quả nghiêm trọng về môi trường và khan hiếm về tài nguyên. Một tác động nữa thường xảy ra với phía tiếp nhận đầu tư là: khi tiếp nhận, do trình độ năng lực của nước sở tại trong việc thẩm định công nghệ chuyển giao có hạn nên dẫn tới việc chuyển giao những công nghệ lạc hậu vào trong nước, gây ảnh hưởng tới quá trình sản xuất và ô nhiễm môi trường. Khi môi trường chính trị không ổn định thì dẫn tới hạn chế nguồn FDI và nước sở tại thường khó chủ động trong việc bố trí cơ cấu đầu tư theo ngành và lãnh thổ vì nó còn phụ thuộc nhiều vào phía đối tác nước ngoài. Chương II: Thực trạng và những đánh giá tình hình thu hút, sử dụng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam I- Thực trạng FDI của Nhật Bản vào Việt Nam 1. Xét về vốn đầu tư Sau khi luật đầu tư của Việt Nam được ban hành ngày 29/12/1987 đã có một lượng lớn các dự án đầu tư trực tiếp của các công ty Nhật Bản đổ vào Việt Nam. Đầu tiên là dự án đầu tư liên doanh chế tạo thiết bị cảng của công ty Kansaikyodo ở Hải Phòng năm 1989 với số vốn đăng ký là 50 triệu USD và vốn thực hiện là 35,92 triệu USD, doanh thu là 28,108805 triệu USD. Tính đến hết ngày 27/01/2001 Nhật Bản đã đầu tư khoảng 299 dự án với tổng số vốn là 3,85 tỷ USD, Nhật Bản đã đứng thứ ba về vốn đăng ký nhưng với 177 dự án với tổng số vốn là 2,4 tỷ USD đã đi vào sản xuất kinh doanh thì Nhật Bản đã trở thành nước đứng đầu trong việc thực hiện vốn đầu tư trực tiếp tại Việt Nam - trên Đài Loan(2,1 tỷ USD ) và Singapore ( 1,8 tỷ USD ) Biểu 1: Bảng số liệu về đầu tư trực tiếp của Nhật Bản vào Việt Nam từ 01/10/1989 đến 01/06/2000 ( Nguồn từ: Project Management Departmment Ministry of Planning and Investment ) ( Đơn vị 1000 USD ) Năm Số dự án Vốn đăng ký Vốn thực hiện 01/01/89-31/12/89 1 50 35,920000 01/01/90-31/12/90 4 1,504939 2,064910 01/01/91-31/12/91 5 75,274000 48,575811 01/01/92-31/12/92 9 113,150489 247,862143 01/01/93-31/12/93 15 111,271662 86,199395 01/01/94-31/12/94 30 285,505774 244,139228 01/01/95-31/12/95 62 1043,985713 768,480215 01/01/96-31/12/96 66 716,550247 254,843361 01/01/97-31/12/97 57 398,911013 134,092129 01/01/98-31/12/98 20 215,579680 4,439283 01/01/99-31/12/99 13 46,968809 9,5 01/01/00-01/06/00 11 26,262 17,484 Nhìn vào bảng số liệu trên ta thấy từ năm 1989 đến 1996 thì mỗi năm số dự án đăng ký tăng thêm đáng kể nhất là từ 1994 đến 1996 trung bình mỗi năm có khoảng 30 dự án được đăng ký thêm. Về vốn: nhìn vào bảng ta thấy khoảng thời gian từ 1989 đến 1993 thì tổng số vốn đầu tư mỗi năm của Nhật Bản chỉ đạt mức trung bình.Trong khi Nhật Bản đứng đầu vế viện trợ mậu dịch thì họ lại chỉ giữ một vị trí khiêm tốn về đầu tư trực tiếp. Nguyên nhân phải kể đến đó là nền kinh tế Nhật Bản gặp khó khăn, mặt khác hoạt động đầu tư của các công ty Nhật Bản ở nước ngoài bị giảm sút, thứ nữa là ngoài Việt Nam thì Nhật Bản còn rất nhiều thị trường khác để lựa chọn Từ năm 1993 đến 1996, ta thấy, số dự án đăng ký thêm mỗi năm tăng lên đáng kể và với số vốn cũng rất lớn.Mỗi năm có trung bình từ 15 đến 34 sự án được đăng ký với số vốn đăng ký từ 111,271622 triệu USD ( 1993 ) lên đến 716,550247 triệu USD (1996 ), và số vốn thực hiện là từ 86,199395 trệu USD ( 1993 ) lên đến 254,843361 triệu USD (1996 ). Nguyên nhân của sự tăng lên này là do môi trường đầu tư của Việt Nam có sức hấp dẫn đối với các nhà đầu tư Nhật Bản như: môi trường luật pháp được sửa đổi; lệnh cấm vận của Mỹ đối với Việt Nam bị bãi bỏ làm cho các nhà đầu tư của Nhật không bị ràng buộc khi đầu tư vào Việt Nam.Mặt khác lúc này nền kinh tế Nhật Bản cũng đã dần lấy lại được thế cân bằng và ngoài ra còn nhiều nguyên nhân khác nữa... Từ năm 1996 đến 01/06/2000 thì ta thấy mỗi năm số dự án tăng thêm ngày càng giảm, như năm 1997 có 57 dự án đăng ký với số vốn là 398,911013 triệu USD và vốn thực hiện là 254,843361 triệu USD thì đến tháng 6/2000 số dự án đăng ký là 11 dự án với tổng số vốn là 26,262 triệu USD và trong các năm từ 1996 đến 2000, số dự án đăng ký thêm tiếp tục giảm. Nguyên nhân của sự giảm sút này là do bị ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ ở khu vực châu á và sự cạnh tranh gay gắt về thu hút vốn đầu tư của các nước trong khu vực Đông Nam á, môi trường đầu tư của Việt Nam so với một số nước trong khu vực còn kém hấp dẫn. 2. Xét về ngành nghề đầu tư Thời kỳ đầu, để tạm thời thu được nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài nên chúng ta có phần ít chú ý đến việc lựa chọn các dự án đầu tư sao cho phù hợp với yêu cầu xây dựng cơ cấu kinh tế. Về sau, yêu cầu này được đặt ra ngày càng nghiêm ngặt hơn. Theo luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam, những lĩnh vực mà Nhà nước khuyến khích đầu tư là: thực hện theo các chương trình kinh tế lớn; sản xuất hàng nhập khẩu thay thế hàng xuất khẩu; sử dụng kỹ thuật cao, công nghệ lành nghề, đầu tư theo chiều sâu để khai thác và vận dụng công suất các cơ sở kinh tế hiện có; sử dụng nguồn lao động, nguồn tài nguyên sẵn có của Việt Nam; xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng, dịch vụ ngoại tệ như du lịch, sửa chữa tàu, sân bay cảng và dịch vụ các loại. Từ 1989 đến 1995, sau khi ban hành luật đầu tư, các công ty Nhật Bản chủ yếu quan tâm đến các dự án về tài nguyên thiên nhiên và dịch vụ ( dầu khí, khách sạn, du lịch... ) hơn là các ngành công nghiệp chế tạo. Số vốn đầu tư vào ngành dầu khí chiếm 32,2%, khách sạn du lịch chiếm 20,6%. Sau đó đầu tư của Nhật Bản đã dần dần mở rộng ra các ngành khác như chế biến thực phẩm, điện tử dầu khí. Các công ty Nhật Bản đã lập 11 liên doanh chế biến từ Thái Lan sang Việt Nam như các hãng điện tử Matsushita đã đầu tư xây dựng nhà máy Victor sản xuất 1,2 triệu tivi mỗi năm chiếm 50% thị trường tivi màu ở Việt Nam trong những năm 1993, 1994 Biểu 2 : Vốn đầu tư vào các ngành ( nguồn: theo thống kê của thông tấn xã Việt Nam 27/01/2001 ) Các ngành Số dự án ( % ) Số vốn ( tỷ ) ( % ) Công nghiệp nặng 117 39,1 % 1,88 47,0 % Công nghiệp vật liệu 14 4,7% 0,423 % 12 % Công nghiệp nhẹ 59 19,7 % 0,341 10,5% Ngành khác 109 36,4 % 1,281 30,5 % Thời kỳ từ 1996 đến nay, các nhà đầu tư Nhật Bản đã tham gia một cách tích cực vào nhiều lĩnh vực của các ngành kinh tế như xây dựng cơ sở hạ tầng khu công nghiệp bưu chính viễn thông, vận tải, dầu khí, khách sạn, văn phòng. Tuy nhiên các nhà đầu tư Nhật Bản đã tập trung phần lớn vào các ngành công nghiệp cụ thể ở biểu 2. Ta có thể thấy các nhà đầu tư Nhật Bản tập trung phần lớn vào các ngành công nghiệp nặng, các ngành này chiếm phần lớn số vốn và số dự án, tiếp theo là đến các ngành công nghiệp nhẹ, công nghiệp vật liệu. Trong khi đó, chính những ngành công nghiệp này chúng ta lại đang rất cần để tiếp thu học hỏi phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Nhật Bản đã tập trung vào lĩnh vực sản xuất hàng xuất khẩu, xây dựng cơ sở hạ tầng và các cơ sở công nghiệp then chốt và đã bắt đầu tập trung vốn lớn ở Việt Nam. Hầu hết các tập đoàn kinh tế thương mại hàng đầu Nhật Bản như Sony, Mitsubishi, Toyota, Honda, Suzuki... đều bắt tay vào xây dựng các dự án có qui mô khá lớn, trong số đó cần phải kể đến dự án xây dựng khu công nghiệp Hải Phòng của tập đoàn Nomura. Nói tóm lại là trong thời gian vừa qua thì việc các nhà đầu tư của Nhật Bản đã đầu tư vào những ngành nghề chủ chốt mà chúng ta đang cần là phù hợp với chiến lược công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Mặt khác, hiện giờ chúng ta đang có cơ hội thu hút được lượng vốn đầu tư của Nhật Bản nói riêng và của nước ngoài nói chung, nhưng không vì thế mà chúng ta thu hút một cách tràn lan mà chúng ta phải thu hút nó một cách có chọn lọc, đúng ngành nghề mà chúng ta đang cần. 3. Xét về cơ cấu địa bàn đầu tư Cơ cấu đầu tư đã có những chuyển biến tích cực từ năm 1995 cho tới nay. Về thời kỳ trước 1996 thì đầu tư của Nhật Bản chủ yếu tập trung vào các tỉnh phía Nam, nhưng tính đến hết ngày 27/1/2001 thì Nhật Bản đã đầu tư vào hơn 29 tỉnh, thành phố đặc biệt là các tỉnh thành phố lớn như Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Thanh Hoá, Hải Phòng. Biểu 3 : Bảng số liệu về đầu tư của Nhật Bản tại 5 tỉnh, thành phố lớn ( nguồn: thông tấn xã Việt Nam 27/01/2001) Khu vực Số dự án Số vốn ( triệu ) Hà Nội 59 668 Thành phố HCM 118 745 Đồng Nai 28 279 Thanh Hoá 2 373,6 Hải Phòng 195 Nhìn vào biểu trên ta thấy xu hướng đầu tư của Nhật Bản vào Việt Nam trong những năm qua đã có những sự chuyển biến từng bước phù hợp với cơ cấu đầu tư nói chung và phù hợp với nhu cầu xây dựng và phát triển đất nước trong những năm qua và trong thời gian tới. Tuy nhiên việc tiếp nhận vốn đầu tư trực tiếp của nước ngoài nói chung và của Nhật Bản nói riêng vẫn còn mang tính tự nhiên, xuất phát từ sự quan tâm gợi ý của các nhà đầu tư nước ngoài và từ công tác điều hành của các cơ quan quản lý Nhà nước về đầu tư nước ngoài hơn là từ chính địa phương. Nguyên nhân chính của tình trạng này là do chúng ta chưa có một qui hoạch chi tiết về thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, định hướng còn chung chung, nhiều điểm còn chưa phù hợp với thực tế. Mặt khác chính sách ưu đãi có phân biệt chưa đủ hấp dẫn, lôi kéo được các chủ đầu tư theo sự sắp xếp của nước chủ nhà. Về khu công nghiệp và khu chế xuất, tính cho đến ngày 27/01/2001, Nhật Bản đã đầu tư vào ba khu công nghiệp gồm : khu công nghiệp Nomura ( ở Hải Phòng ) có số vốn đầu tư khoảng 163 triệu USD hiện đã xây dựng hoàn thiện cơ cấu cơ sở hạ tầng với diện tích là 153 triệu ha đạt chất lượng cao với các công trình phụ trợ như nhà máy điện, nước, tuy nhiên diện tích đất cho thuê còn giảm; khu công nghiệp Thăng Long ( Hà Nội ) có số vốn đầu tư là 53 triệu USD, hiện nay đã hoàn chỉnh cơ sở hạ tầng và là một địa chỉ hấp dẫn cho các nhà đầu tư; khu công nghiệp Long Bình ( Đồng Nai ) có số vốn đầu tư là 41 triệu USD, hiện đang xây dựng giai đoạn một với diện tích 50 ha. 4. Xét về hình thức đầu tư Theo như luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam quy định có 3 hình thức đầu tư chủ yếu là: xí nghiệp liên doanh, xí nghiệp 100 % vốn nước ngoài, và hợp tác kinh doanh trên cơ sở hợp đồng hợp tác kinh doanh. - Hình thức liên doanh Tổng số các xí nghiệp liên doanh được cấp giấy phép đầu tư tính đến tháng 12/1998 là 141 dự án với số vốn đăng ký là 2,68 tỷ USD (chiếm 68% ). Chính hình thức liên doanh là một trong những hình thức được các nhà đầu tư Nhật Bản ưa chuộng nhất vì một số nguyên nhân như hạn chế bớt rủi ro, tranh thủ được sự hỗ trợ của đối tác Việt Nam khi mà thị trường còn chưa quen biết. Chính hình thức liên doanh làm cho các nhà đầu tư Nhật Bản dễ dàng hơn trong việc mở rộng đầu tư sang các ngành khác. Về phía đối tác Việt Nam, khi tham gia liên doanh có tới 98% là các doanh nghiệp nhà nước còn 2% là doanh nghiệp ngoài quốc doanh đây chính là điều đặc biệt so với các nước khác. Chính vì lẽ đó mà cơ quan Nhà nước đã can thiệp quá sâu vào quá trình tổ chức sản xuất kinh doanh của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, điều này gây trở ngại không ít đến các hoạt động đầu tư. Chính vì thế mà trong thời gian gần đây các nhà đầu tư Nhật Bản đang có xu hướng giảm dần đầu tư vào hình thức liên doanh và họ muốn chuyển sang hình thức 100 % vốn nước ngoài. - Hình thức 100% vốn nước ngoài Vào thời gian đầu thì các dự án đầu tư vào để thành lập các doanh nghiệp 100% vốn Nhật Bản không nhiều. Song từ năm 1996 trở lại đây thì xu hướng gia tăng vào hình thức này ngày càng mạnh mẽ. Nó được chứng minh từ 1989 đến 1990 các dự án loại này chiếm 6% đến 7% trong tổng số các dự án được cấp giấy phép, nhưng thời gian từ 1998 đến 2000 thì nó đã chiếm 18% - 22% ( theo Vietnam Economic Times Jan – 2000). Xu hướng tăng lên này là do một số nguyên nhân như: + Các nhà đầu tư Nhật Bản muốn giữ bí quyết công nghệ, bí mật kinh doanh. + Do các nhà đầu tư Nhật Bản đã hiểu được thị trường Việt Nam nên họ không cần phải liên doanh. + Những hạn chế do sự can thiệp quá sâu của cơ quan Nhà nước Việt Nam vào hoạt động kinh doanh của họ. + Các nhà đầu tư Nhật Bản muốn tự mình điều hành quản lý doanh nghiệp mà không muốn bị lệ thuộc, chi phối trong các quyết định của mình. Các dự án theo hình thức này thường là các dự án vừa và nhỏ (chiếm khoảng 60% trong tổng số dự án thuộc hạng 100% vốn của Nhật Bản ). Đối với hình thức này về trước mắt thì thấy có lợi cho phía Việt Nam, nhưng về lâu dài thì ít có lợi hơn so với các hình thức khác, lý do chính là vì chúng ta không được tham gia vào các quyết định trong sản xuất, kinh doanh dẫn đến khó quản lý. - Hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh Đây là một hình thức xuất hiện sớm ở Việt Nam, nhưng đáng tiếc cho đến nay vẫn chưa hoàn thiện được các qui định pháp lý, vì thế nên nó ít được các nhà đầu tư quan tâm. Tuy nhiên nếu xét kỹ hình thức này thì ta thấy có nhiều ưu điểm đối với cả bên đi đầu tư và bên tiếp nhận đầu tư vì hình thức này có sự phối hợp sản xuất các sản phẩm kỹ thuật cao đòi hỏi phải có sự kết hợp của nhiều công ty ở nhiều quốc gia khác nhau. ở Việt Nam, tính đến năm 1999 đã có 336 triệu USD đầu tư theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh, trong số đó thì các dự án thăm dò khai thác dầu khí chiếm tối đa. Mặc dù loại hình này chỉ chiếm khoảng 9 % trong tổng số vốn đầu tư vào các dự án nhưng hình thức này được coi như một xu hướng tương lai gần, xu hướng của phân công lao động, chuyên môn hoá sản xuất trên phạm vi quốc tế. ii- Đánh giá tình hình thu hút và sử dụng FID của Nhật Bản vào Việt Nam. 1. Những thành công Từ khi ban hành luật đầu tư nước ngoài tới nay thì các công ty lớn có tên tuổi ở Nhật đã đầu tư vào Việt Nam và cho đến nay vẫn làm ăn rất có hiệu quả như: Honda, Sanyo, Mitsubishi...và tính đến hết tháng 12/1999 thì đã có hơn 100 doanh nghiệp có vốn đầu tư Nhật Bản đi vào hoạt động sản xuất kinh doanh với tổng doanh thu trên 700 triệu USD và thu hút hơn 2 vạn lao động, đạt giá trị xuất khẩu hơn 60% Ta có thể đơn cử ra một vài ví dụ về các dự án khá thành công ở thị trường Việt Nam: Đầu tiên là công ty máy tính Fujitsu Việt Nam (FCV) thành lập năm 1995 có vốn đầu tư ban đầu là 78 triệu USD.Sau hai năm hoạt động số vốn này đã tăng lên 198 triệu USD. Việc tăng vốn lên chứng tỏ các nhà đầu tư khá tin tưởng vào thị trường và các chính sách của Việt Nam và quyết tâm làm ăn lâu dài với chúng ta. FCV được tập đoàn Fujitsu đầu tư 100% vốn. Fujitsu là tập đoàn lớn thứ 2 thế giới về máy tính, có 25 chi nhánh, 450 công ty,và hơn 160 nghìn nhân viên ở nhiều nước,doanh thu mỗi năm vài chục tỷ USD. FCV luôn coi chất lượng sản phẩm và uy tín là điều tối quan trọng. Bởi thế, họ đã đầu tư các dây chuyền sản xuất hiện đại như dây chuyền hàn gắn không lửa, đó là công nghệ tiên tiến nhất hiện nay và tất cả các dây chuyền hàn đều được trang bị máy dò trở kháng, máy thử chức năng tự động đi kèm. Thứ hai là công ty Rorze Robotech 100% vốn Nhật Bản cũng là một trong những địa chỉ đầu tư được phía Việt Nam đánh giá cao và mới đây bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường thay mặt Chính phủ Việt Nam cấp giấy phép chứng nhận là “ Doanh nghiệp công nghệ kỹ thuật cao’’ và đang là doanh nghiệp chuyên sản xuất các loại rôbôt dùng trong lĩnh vực điện tử bán dẫn để lắp ráp các thiết bị tinh vi mà bàn tay con người không thể với tới được. Theo ông Nakamura, giám đốc công ty, cho biết toàn bộ những chi tiết bằng kim loại của rôbôt đều được các công nhân Việt Nam sản xuất và sau đó xuất khẩu 100% sang các nước phát triển như: Hoa Kỳ Singapore, Đài Loan...và tất cả sản phẩm của công ty đều đạt kỹ thuật hoàn hảo. Thứ ba là lĩnh vực sản xuất phân bón. Đây là lĩnh vực rất cần thiết đối với chúng ta. Nhận thức được điều này, các hãng Nisho Iwai, Central Class đã xúc tiến đầu tư hợp tác với công ty phân bón miền Nam cho ra đời liên doanh “ Công ty phân bón Việt – Nhật ”, đây được đánh giá là nhà máy phân bón PNK hiện đại nhất ở Việt Nam với công suất là 35000 tấn /năm được đặt tại huyện Long Thành, tỉnh Đồng Nai,có tổng số vốn là 40 triệu USD.Theo như các chuyên gia trong ngành thì với sự ra đời của nhà máy này thì Việt Nam sẽ không phải nhập khẩu loại phân bón NPK nữa kể từ năm 1999 Biểu 5: Kết quả thực hiện các dự án FDI của Nhật Bản tại Việt Nam trong thời kỳ 1989 – 2000 (nguồn: Project Management Department Ministry of Planning and Investment ) Năm Số dự án Doanh thu ( triệu ) Xuất khẩu (triệu ) Lao động 01/01/89-31/12/89 1 28,108805 0 102 01/01/90-31/12/90 4 17,794303 16,378602 684 01/01/91-/31/12/91 5 41,059046 0,373576 245 01/01/92- 31/12/92 9 230,259273 12,444515 623 01/01/93-31/12/93 15 123,525236 52,717719 25 01/01/94-31/12/94 30 421,358312 76,974882 193 01/01/95-31/12/95 62 1344,870710 1029,174574 23 01/01/96-31/12/96 66 371,323861 60,434258 20 01/01/97-31/12/97 57 37,364251 8,290108 170 01/01/98-31/12/98 20 1,296491 0,220166 25 01/01/99-31/12/99 13 0 0 0 01/01/00-01/06/00 11 0 0 0 Thứ tư: Công ty Ajinomoto Việt Nam Co.Ltd là liên doanh giữa công ty công nghiệp thực phẩm với hai công ty của Nhật Bản là Ajinomoto Co. Ltd và Broderwek Co.Ltd.Liên doanh có tổng số vốn đầu tư là 40,94 triệu USD, trong đó phía Việt Nam đóng góp 10,84 triệu USD năm 1996 và 12,26 triệu USD 1997. Thành công này có được một phần là do đội ngũ quản lý có trình độ. Vì vậy mà liên doanh đã được uỷ ban nhân dân tỉnh đồng nai xếp hàng đầu trong số 180 doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài ở địa bàn tỉnh về các mặt như: thực hiện đúng quy định về lao động, đóng góp cho ngân sách quốc gia... và liên doanh cũng được huy chương vàng của liên minh châu Âu cho sản phẩm Ajinomoto sản xuất tại Việt Nam. Thứ năm là về ngành công nghệ chế biến thực phẩm chúng ta có công ty Vifon Acecook Co.Ltd (VAC). Đây là công ty liên doanh đầu tiên giữa Việt Nam và Nhật Bản trong lĩnh vực chế biến thực phẩm. Việt Nam góp 40 % vốn, phía Nhật gồm 3 đối tác là Acecook Co. Ltd; Marubem Corp ; và Japan International Development Organization Ltd góp 60%. Liên doanh này chính thức đi vào hoạt động từ tháng 6/1995 và hiện tại thị trường tiêu thụ là thị trường trong nước. Năm 1997 công ty đã tiêu thụ 46 triệu gói phở ăn liền, mì ăn liền, bột gia vị đạt doanh thu 59 tỷ đồng và trong 5 tháng đầu năm 1998 đã tiêu thụ 30 triệu gói sản phẩm. Hiện tại VAC có một dây chuyền sản xuất 2 ca/ngày với 200 công nhân thu nhập bình quân 1 triệu đồng /tháng. Bắt đầu từ năm 1998 VAC sản xuất 3 ca/ngày và đến lúc đó mỗi năm nó sẽ đạt 150-200 triệu gói sản phẩm. Trên đây chỉ là 5 trong tổng số 177 dự án đã đi vào hoạt động của Nhật, và đó là những dự án hoạt động khá thành công và được nhiều tổ chức biết đến, ngoài ra còn có rất nhiều dự á nữa làm ăn rất có hiệu quả nhưng do khuôn khổ bài viết có hạn nên không thể kiệt kê hết được. Xét về tổng quát, theo thông tấn xã Việt Nam 27/01/2001 thì Nhật Bản hiện có 318 dự án đã đăng ký, trong đó có 177 dự án với tổng số vốn đăng ký là 3,85 tỷ USD và số vốn thực hiện là 2,4 tỷ USD, đã đem lại cho Việt Nam rất nhiều lợi ích và họ là những nhà đầu tư lớn thứ ba sau Đài Loan và Singapore. Các dự án của Nhật đã đem lại doanh thu hàng năm khoảng 1932 triệu USD trong đó xuất khẩu đạt hoảng 950 triệu USD và như vậy hiệu suất doanh thu trên vốn thực hiện của Nhật cao hơn nhiều so với mức chung của toàn khối đầu tư nước ngoài. Trong số các dự án của Nhật Bản có tới 42% là các dự án theo hình thức 100 % ( tính đến 27/012000- Thông tấn xã Việt Nam). Mặc dù vốn thực hiện đạt khoảng 400 triệu USD nhưng doanh thu đạt 56 triệu USD chứng tỏ hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài đạt hiệu quả khá cao. Nhóm các dự án liên doanh chiếm khoảng 52% số dự án và 621 tổng số vốn đầu tư với tổng số vốn thực hiện là 1400 triệu USD và doanh thu khoảng 1100 triệu USD, như vậy hiệu suất doanh thu trên vốn thực hiện cũng khá lớn. Ngoài ra còn phải kể đến nhóm các dự án hợp doanh theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh. Nhóm các dự án này đã đóng góp vào nền kinh tế rất nhiều thành tựu. Số dự án của Nhật Bản bị giải thể rất ít, cho tới nay mới có 24 dự án bị giải thể với tổng số vốn đầu rư gần 170 triệu USD chiếm 8% về số dự án trên, và 4% tổng số vốn đầu tư của Nhật tại Việt Nam. 2. Những hạn chế và nguyên nhân Tuy đánh giá cao về tiềm năng của Việt Nam nhưng Nhật Bản vẫn chưa thực sự tích cực triển khai FDI.Như đã phân tích ở biểu 1 thì ta thấy số vốn đăng ký so với số vốn thực hiện còn thấp. Mặc dù từ 1996-1998 cả số dự án lẫn số vốn đăng ký đều tăng nhưng tỷ lệ giữa vốn đăng ký và vốn thực hiện vẫn chỉ ở con số thấp ( khoảng 30 % ) và tính đến hết ngày 27/1/2001, theo thông tấn xã Việt Nam, cho dù Nhật dã dăng ký 299 dự án với số vốn là 3,85 tỷ USD nhưng chỉ có 177 dự án đi vào sản xuất kinh doanh với số vốn là 2,4 tỷ USD và nếu chia ra thì số dự án thực hiện chỉ chiếm khoảng 50% và số vốn thực hiện so với số vốn đăng ký chỉ bằng 60%,vậy còn lại các dự án đã đăng ký là khoảng 122 dự án với số vốn là 1,45 tỷ USD thì liệu có thể đi tới giai đoạn triển khai và đi vào sản xuất, kinh doanh được không ? Đây là câu hỏi đặt ra cho các nhà lãnh đạo, các nhà quản lý của chunngs ta.Bên cạnh các dự án chưa triển khai, thì đối với các dự án đã đi vào hoạt động vẫn càn tồn tại nhiều bất cập như việc nghiên cứu không kỹ về môi trường văn hoá giữa Việt Nanm và Nhật Bản đã dẫn tới những xung đột về văn hoá dẫn đến tình trạng quản lý người Nhật đánh công nhân Việt Nam, hay việc không tìm hiểu kỹ nhu cầu thị trường trong quá trình hoạt động cũng khiến nhiều doanh nghiệp gặp phải không ít khó khăn khi bám trụ lại như: Công ty ôtô Mekong, đầu tư rất lớn vào cả hai miền Nam –Bắc nhưng cho đến nay vẫn chưa tìm riêng được thị phần cho mình trên thị trường; hay như nhà máy xi măng Nghi Sơn – Thanh Hoá quy mô đầu tư khá nhưng do nghiên cứu khu vực địa lý không kỹ đã dẫn nhà máy đến bờ vực phá sản. Điều này không những làm ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của cả hai bên mà còn làm ảnh hưởng đến uy tín của Việt Nam trên trường quốc tế. Cái đáng nói nữa là khi các liên doanh đi vào hoạt động thì thị phần của chúng ta thấp, lượng vốn dự trữ lại không có nên các nhà đầu tư Nhật Bản thường lấn át chúng ta trong các quyết định và chúng ta thường bị rơi vào những mưu mô kinh doanh của họ và do ít vốn nen chúng ta dễ bị họ thâu tóm toàn quyền để trở thành doanh nghiệp 100% vốn hay là làm lợi cho hộ và gây thiệt hại cho ta. Vậy những tồn tại ở trên xuất phát từ những nguyên nhân nào ? và đâu là nguyên nhân chính dẫn tới những tồn tại đó ? Để trả lời được câu hỏi đó thì chúng ta phải đi vào xem xét từng khía cạnh, từng vấn đề. 3. Nguyên nhân dẫn đến những tồn tồn tại trên Thứ nhất: Xuất phát từ môi trương pháp lý Môi trường pháp lý của Việt Nam chưa ổn định,luật lệ và chính sách

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc62410.doc
Tài liệu liên quan