MỤC LỤC
Chương 1: Đầu tư quốc tế và vai trò của FDI đối với sự phát triển kinh tế của mỗi quốc gia. 1
I. Lý luận về đầu tư quốc tế: 1
1. Khái niệm đầu tư quốc tế: 1
2. Các hình thức đầu tư quốc tế: 1
2.1 Đầu tư gián tiếp: 1
2.2 Đầu tư trực tiếp (FDI): 2
2.3 Khu vực tập trung FDI 3
3. Nguyên nhân của đầu tư quốc tế: 4
II. Vai trò của đầu tư trực tiếp FDI đối với nước nhận đầu tư và nước đi đầu tư: 4
1. Vai trò đối với nước nhận đầu tư 4
1.1. Tác động tích cực: 4
1.2. Tác động tiêu cực: 7
2. Vai trò của FDI đối với nước đi đầu tư: 8
III. Đặc điểm và xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới hiện nay: 9
1. Đặc điểm của đầu tư trực tiếp nước ngoài: 9
2. Xu hướng của đầu tư trực tiếp nước ngoài trên thế giới: 10
IV. Kinh nghiệm của Trung Quốc: 12
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM 14
I. Tác động của hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến đầu tư FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam 14
1. Nội dung chủ yếu về hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ theo tinh thần Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ: 14
2. Đánh giá tác động 17
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN FDI CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM 19
1. Quy mô vốn đầu tư 19
2. Vốn đầu tư phân theo ngành 24
3. Đầu tư của Hoa kỳ theo hình thức đầu tư 27
III. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp cùa Hoa Kỳ khi gia nhập tổ chức WTO: 28
1. Những cơ hội mở ra cho Việt Nam: 29
2. Những thách thức Việt Nam phải đối mặt: 30
Chương 3: Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ trong thời gian tới. 32
I. Mục tiêu và đinh hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung và thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ nói riêng: 32
1. Mục tiêu và định hướng thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung: 32
1.1 Mục tiêu thu hút vốn đầu tư trực tiếp nói chung: 32
1.2 Định hướng thu hút đầu tư trục tiếp nói chung: 33
2. Mục tiêu và định hướng thu hút đầu tư trực tiếp từ Hoa Kỳ vào Việt Nam nói riêng: 33
II. Giải Pháp nhằm thu hút đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam: 34
1. Tăng cường các hoạt động xúc tiến đầu tư với Hoa Kỳ: 34
2. Hoàn thiện môi trường đầu tư ở Việt Nam: 36
44 trang |
Chia sẻ: lynhelie | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thu hút vốn đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ trong thời gian tới, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nghiệp đã đầu tư vào Viêt Nam thì cần phải cải thiện môi trường đầu tư để không thua kém so với Trung Quốc và các nước trong khu vực.
CHƯƠNG 2: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM
I. Tác động của hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ đến đầu tư FDI của Hoa Kỳ vào Việt Nam
1. Nội dung chủ yếu về hoạt động đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ theo tinh thần Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ:
Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ (BTA) có hiệu lực tháng 12.2001
Những nội dung chủ yếu về quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ được trình bày trong Chương 4 gồm 15 điều của Hiệp định. Ngoài ra, nội dung về quan hệ đầu tư còn được trình bày ở Phụ lục H và I; các thư trao đổi của đại diện 2 phía tham gia ký kết hiệp định thương mại về chế độ cấp giấy phép đầu tư; và ở Điều 1, Điều 4 Chương 7 của Hiệp định.
Nội dung về quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Hoa Kỳ thể hiện trong Hiệp định là hai Bên cam kết dành thuận lợi cho các nhà đầu tư được hoạt động kinh doanh đầu tư trên thị trường của nhau phù hợp với các thông lệ và quy định của quốc tế. Theo đó, Việt Nam phải bảo đảm môi trường đầu tư mang tính minh bạch: các luật lệ, chính sách, thủ tục hành chính có liên quan đến hoạt động đầu tư phải được đăng công khai.
Cam kết chung
- Dành bảo hộ không bị sung công đối với đầu tư Mỹ ở Việt Nam
- Quyền giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư với nhà nước, quyền được chọn nhân sự điều hành cao cấp
- Cho phép tự do chuyển tiền trên cơ sở đãi ngộ quốc gia
Các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại (TRIMs)
Việt Nam sẽ loại bỏ dần các biện pháp đầu tư liên quan đến thương mại không phù hợp với WTO (ví dụ yêu cầu về hàm lượng nội địa) trong 5 năm, và các TRIMs khác (yêu cầu xuất khẩu sản phẩm) trong khung thời gian tương tự.
Đãi ngộ quốc gia
- Việt Nam cam kết dành đãi ngộ quốc gia chung, có một số ngoại lệ.
Phân luồng đầu tư
- Sẽ dần dần loại bỏ hoàn toàn cho hầu hết các lĩnh vực trong thời hạn 2, 6, hoặc 9 năm (tuỳ thuộc vào ngành đầu tư, ví dụ đầu tư vào khu công nghiệp hoặc đầu tư vào lĩnh vực chế tạo), nhưng Việt Nam bảo lưu quyền phân luồng đầu tư trong một số ngành.
- Bỏ hạn chế góp vốn trong liên doanh.
- Sau 3 năm sẽ xoá bỏ yêu cầu Mỹ trong liên doanh phải đạt tối thiểu 30%, xoá bỏ yêu cầu bán phần góp vốn của Mỹ cho đối tác Việt Nam và thay bằng quyền được mua trước.
Hoạt đông của liên doanh.
- Sau 3 năm sẽ xoá bỏ yêu cầu một số thành viên Hội đồng Quản trị phải là người Việt Nam, và hạn chế số vấn đề cần phải đạt được sự đồng thuận trong Hội đồng Quản trị (tức là những vấn đề mà thành viên Việt Nam được quyền phủ quyết).
Phân biệt giá.
- Loại bỏ dần mọi phân biệt về giá đối với các nhà đầu tư hoặc cá nhân Mỹ (về điện nước, giao thông, thuê nhà cửa, v.v...) ngay hoặc sau 2-4 năm tuỳ theo loại giá.
Quan hệ đầu tư giữa hai Bên Hoa Kỳ và Việt Nam về cơ bản được thiết lập dựa trên 2 nguyên tắc: Đối xử quốc gia và đối xử Tối huệ quốc.
Ø Nguyên tắc Đối xử quốc gia trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác, mỗi Bên dành cho Bên khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu tư của công dân hoặc công ty của nước mình. Điều đó có nghĩa là các doanh nghiệp trong nước được hưởng những quyền lợi và nghĩa vụ nào trong hoạt động đầu tư thì các nhà đầu tư nước ngoài cũng có những nghĩa vụ và quyền lợi tương tự, hay nói cách khác, các nhà đầu tư Việt Nam được hưởng những ưu đãi và thuận lợi nào trong hoạt động đầu tư thì cũng phải dành cho công dân và các công ty Mỹ những ưu đãi và điều kiện tương tự (thực hiện bình đẳng giữa các nhà đầu tư trong và ngoài nước).
Ø Nguyên tắc Tối huệ quốc trong hoạt động đầu tư được hiểu là các khoản đầu tư như: việc thành lập, mua lại, mở rộng, quản lý, điều hành, vận hành, bán hoặc định đoạt đầu tư bằng các cách khác mỗi Bên dành cho Bên kia khi họ hoạt động đầu tư trên đất nước mình sự đối xử không kém thuận lợi hơn sự đối xử dành cho các khoản đầu tư của công dân hoặc công ty của nước thứ ba trên lãnh thổ của mình. Điều đó có nghĩa là Việt Nam đã dành những ưu đãi thuận lợi nào cho công dân hoặc công ty của một nước thứ ba khi họ đầu tư vào Việt Nam, thì cũng phải dành những ưu đãi tương tự cho công dân và các công ty Hoa Kỳ.
Tuy nhiên, ở Khoản 2 Điều 2 Chương 4 của Hiệp định cũng cho phép mỗi Bên có thể ban hành hoặc duy trì những ngoại lệ trong một số các lĩnh vực hoặc một số vấn đề nêu rõ trong Phụ lục H.
Các quy định áp dụng cho một số lĩnh vực cụ thể được tóm tắt như sau:
Quy định về bãi bỏ chế độ thẩm định cấp giấy phép đầu tư nước ngoài tại Việt Nam:
TRỪ một số ngoại lệ, Việt Nam cam kết chuyển từ chế độ cấp giấy phép đầu tư sang chế độ đăng ký hoạt động đầu tư đối với các dự án đầu tư của phía Hoa Kỳ vào Việt Nam, theo lộ trình tính từ ngày Hiệp định Thương mại Việt – Mỹ có hiệu lực như sau:
Các dự án của Hoa Kỳ đầu tư vào Việt Nam
Thời hạn áp dụng kể từ HĐ có hiệu lực
1. Các dự án đầu tư vào khu công nghiệp và khu chế xuất; các dự án có vốn đầu tư đến 5 triệu USD
Sau 2 năm
2. Các dự án đầu tư vào sản xuất có vốn đầu tư đến 20 triệu USD
Sau 6 năm
3. Mọi dự án đầu tư nước ngoài TRỪ những dự án ngoại lệ nêu trong Phụ lục H
Sau 9 năm
2. Đánh giá tác động
Đánh giá tác động sau 5 năm thực hiện Hiệp định Thương mại song phương Việt Nam - Hoa Kỳ đối với thương mại, đầu tư và cơ cấu kinh tế của Việt Nam, các chuyên gia của Viện Nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương, Cục Đầu tư nước ngoài, Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Cơ quan Phát triển quốc tế Hoa Kỳ (USAID) nhận định, đầu tư trực tiếp nước ngoài đã tăng mạnh, nhất là trong những lĩnh vực mà Việt Nam có thể mạnh xuất khẩu.
Chuyên gia Steve Perker của Dự án Hỗ trợ thúc đẩy thương mại (Star - Việt Nam) của USAID cho biết, tác động kinh tế trực tiếp nhất của BTA là việc trao Quy chế quan hệ thương mại bình thường (MFN) cho hàng Việt Nam. Thị trường Hoa Kỳ vừa được mở cửa là một lối thoát cho lợi thế cạnh tranh bị dồn nén của Việt Nam, khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài và trong nước đầu tư vào các ngành nghề có nhiều khả năng xuất khẩu sang Hoa Kỳ. Minh chứng cho làn sóng đầu tư này là ngay khi Hiệp định được kấ nháy ở cấp độ kỹ thuật vào năm 1999, lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đổ vào các lĩnh vực này đã tăng mạnh. Riêng trong giai đoạn 1999 - 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài vào ba lĩnh vực quần áo và hàng dệt may, giày dép, chế biến gỗ và đồ gỗ đã tăng bảy lần, từ 120 triệu USD trong năm 1999 lên tới 851 triệu USD trong năm 2005 và sau đó tăng gần gấp đôi lên 1,5 tỷ USD trong năm 2006. Tỷ lệ của các lĩnh vực này trong tổng vốn đầu tư được đăng kấ tăng từ chỉ 3% trong năm 2006 lên đỉnh điểm là 27% trong năm 2003, trước khi quay trở về mức 12% trong năm 2006, khi đầu tư trực tiếp nước ngoài vào các lĩnh vực khác bắt đầu tăng trưởng mạnh hơn, cũng là khi tác động chung của Hiệp định và các hoạt động cải cách khác bắt đầu có tác dụng đối với toàn bộ nền kinh tế.
Chuyên gia của Star - Việt Nam cũng cho rằng, thời điểm của sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài rất quan trọng. Do hậu quả của cuộc khủng hoảng tại châu á, sự gia tăng đầu tư trực tiếp nước ngoài liên quan đến BTA bắt đầu trở nên mạnh mẽ vào năm 1999, chiếm gần như toàn bộ sự tăng trưởng trong tổng đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam trong các giai đoạn từ 1999 đến 2003 và đó là một nguồn kích thích cực kỳ quan trọng đối với đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam nói chung. Trong giai đoạn từ 2000 đến 2005, đầu tư trực tiếp nước ngoài trong ba lĩnh vực này chiếm 16% trong tổng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài được đăng ký, so với mức 5% của năm 1999.
Sự tăng trưởng của đầu tư trực tiếp nước ngoài đã góp phần tác động mạnh mẽ đến cơ cấu hàng xuất khẩu của Việt Nam. Kim ngạch xuất khẩu của hàng Việt Nam sang Hoa Kỳ đã tăng 8 lần trong giai đoạn 2001 - 2006, trong đó đáng chú ý là tỷ lệ tăng trưởng này là nhờ đa dạng hoá các nhóm hàng chế tác. Năm 2001, khi chưa có Hiệp định, 78% hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ là hàng sơ chế, chủ yếu là tôm và các sản phẩm dầu khí. Chỉ hai năm sau khi thực hiện Hiệp định, các mặt hàng xuất khẩu chế tác đã chiếm 72% tổng giá trị xuất khẩu sang Hoa Kỳ, sau đó chững lại ở mức 74 -75%. Sự gia tăng ban đầu chủ yếu là hàng may mặc, nhưng sau từng năm, các hàng chế tác ngoài may mặc cũng đã gia tăng mạnh mẽ.
Tuy nhiên, Việt Nam cũng đã phải trả giá không nhỏ cho sự gia tăng này. Do đầu tư nước ngoài vào hàng xuất khẩu tăng mạnh, nhu cầu nguyên liệu đầu vào cũng tăng theo trong khi nguồn cung trong nước không đáp ứng được đã khiến giá trị gia tăng trong nước từ hàng xuất khẩu của Việt Nam chiếm tỷ lệ rất nhỏ. Đơn cử như hàng may mặc, chiếm 50% tổng giá trị xuất khẩu của Việt Nam sang Hoa Kỳ, thì chỉ có từ 5 - 10% giá trị xuất khẩu là giá trị gia tăng trong nước. Phần còn lại là của các nguyên liệu đầu vào nhập khẩu, chủ yếu là từ các nhà cung cấp châu á, sử dụng cho các sản phẩm may mặc thành phẩm. Giá trị nhập khẩu nói chung của Việt Nam tăng mạnh hơn giá trị xuất khẩu nên đã tạo ra sự thâm hụt mậu dịch đáng kể, trong đó giá trị thâm hụt thương mại với các nước còn lại trên thế giới vượt trên cả giá trị thặng dư thương mại song phương với Hoa Kỳ. Thâm hụt mậu dịch nói chung của Việt Nam tăng từ 1,2 tỷ USD năm 2001 lên 5,1 tỷ USD năm 2006.
Mặc dù vậy, BTA thật sự đã có những tác động mạnh mẽ đến thu hút đầu tư nước ngoài của Việt Nam. Theo điều tra của Star - Việt Nam, hầu hết các nhà đầu tư nước ngoài đều cho rằng, BTA có tác động quan trọng đối với các quyết định đầu tư của họ ở Việt Nam, đặc biệt là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài của Hoa Kỳ, tất cả các DN có vốn đầu tư nước ngoài có xuất khẩu sang Hoa Kỳ và tất cả các DN có vốn đầu tư nước ngoài trong các ngành dịch vụ. Đồng thời, theo ông Steve Parker, BTA cũng có tác động gián tiếp nhờ việc cải thiện môi trường kinh doanh, thúc đẩy quá trình gia nhập WTO của Việt Nam và góp phần cải thiện sự kỳ vọng vào sự tăng trưởng kinh tế mạnh mẽ và bền vững.
II. THỰC TRẠNG THU HÚT VỐN FDI CỦA MỸ TẠI VIỆT NAM
1. Quy mô vốn đầu tư
Trong những năm gần đây, sự thay đổi trong môi trường đầu tư của Việt Nam đã thu hút không ít nhà đầu tư nước ngoài, Trong đó, có không ít nhà đầu tư của Hoa Kỳ, theo nhận định của các nhà kinh tế thì Việt Nam đang dần trở thành điểm đến hấp dẫn của các nhà đầu tư Hoa Kỳ.
Theo tính toán của tổng cục thống kê thì trong số các nước đầu tư vào Việt Nam trong thời gian qua, thì dẫn đầu vẫn là Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản, Trung Quốc, Xingapore, còn Hoa kỳ vẫn còn chiếm một con số rất khiêm tốn. Nếu xét từ năm 1988 đến năm 2006 thì cả nước thu hút được 8.266 dự án đầu tư trực tiếp nước ngoài. Trong đó dẫn đầu là Đài Loan với 1.743 dự án, tiếp theo là Hàn Quốc với 1.438 dự án, Nhật Bản 838 dự án, Xingapore 543 dự án và Trung Quốc là 508 dự án, riêng của Hoa Kỳ chỉ có 374 dự án đầu tư vào Việt Nam. Đây là một con số còn rất khiêm tốn trong toàn cảnh bức tranh đầu tư trực tiếp nước ngoài của nước ta.
Biểu đồ 1: Tỷ lệ vốn đầu tư trực tiếp của các nước vào Việt Nam giai đoạn 1988-2006
Theo Cục Đầu tư nước ngoài (Bộ Kế hoạch và Đầu tư), trong tháng 9-2007, có 231 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư với tổng vốn đầu tư đăng ký là 1.187 triệu USD, đưa tổng số dự án cấp trong 9 tháng đầu năm 2007 lên 1.045 dự án với tổng vốn đầu tư là 8,29 tỷ USD, tăng 33% về số dự án và 60,2% về vốn đăng ký so với cùng kỳ năm 2006; có 27 dự án tăng vốn với tổng vốn đầu tư đăng ký tăng thêm là 96 triệu USD, nâng tổng số dự án tăng vốn trong 9 tháng 2007 lên 274 dự án, với tổng vốn tăng thêm là 1.316 triệu USD, bằng 82% về số dự án và 73,6% về vốn bổ sung so với cùng kỳ năm 2006.
Như vậy, trong 9 tháng đầu năm 2007, Việt Nam đã thu hút 9,6 tỷ USD vốn FDI, tăng 38% so với cùng kỳ năm 2006. Với con số này, kế hoạch Việt Nam thu hút 13 tỷ USD vốn FDI trong năm 2007 là khả thi.
Cùng với những dấu hiệu khả quan đó, dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam cung không ngừng tăng lên, cả về số lượng lẫn quy mô. Có thể thấy rằng dòng vốn đầu tư của Hoa Kỳ "đổ" vào Việt Nam trong giai đoạn này thông qua 3 hình thức: Thứ nhất là hình thức trực tiếp, thứ hai là hình thức gián tiếp bằng việc các doanh nghiệp Hoa kỳ mua cổ phần của các doanh nghiệp Việt Nam và trở thành những đối tác chiến lược; hình thức thứ 3 là cung cấp tín dụng cho xuất nhập khẩu, phục vụ các dự án đầu tư cho doanh nghiệp Việt Nam.
Từ đầu năm 2006, khu công nghệ cao Thành phố Hồ Chí Minh của Việt Nam được lựa chọn là điểm đến của Intel sau khi tập đoàn này đã lựa chọn trên 150 quốc gia. Dự án 605 triệu USD này của Intel cũng đã góp phần đưa Thành phố Hồ Chí Minh vươn lên đứng đầu trong cả nước về thu hút đầu tư nước ngoài trong 6 tháng đầu năm 2006, chiếm hơn 30% tổng vốn đăng ký của cả nước. Và dự án này cũng là “sự đảm bảo vàng” cho các tập đoàn khác chú ý đến môi trường đầu tư của Việt Nam, không chỉ cho các nhà đầu tư Hoa Kỳ mà còn của các quốc gia khác.
Tiếp theo đó, chuyến thăm Hoa Kỳ của Chủ tịch nước Nguyễn Minh Triết và đoàn 150 doanh nghiệp vào đầu năm 2007 với những buổi làm việc dày đặc với cộng đồng doanh nghiệp Hoa Kỳ là một thông điệp khẳng định rằng các doanh nghiệp Việt Nam muốn tăng cường làm ăn với các doanh nghiệp Hoa Kỳ và nó đã góp phần thúc đẩy làn sóng đầu tư từ Hoa Kỳ vào Việt Nam trong thời gian tới. Qua chuyến đi này, các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang rất quan tâm và đẩy mạnh đầu tư vào các dự án lớn, nhất là lĩnh vực cơ sở hạ tầng, xây dựng các cảng biển, các nhà máy điện... Theo dự báo, một số cảng biển của Việt Nam sẽ không thể đáp ứng được nhu cầu lưu chuyển hàng hoá trong thời gian tới, do vậy mà các doanh nghiệp Hoa Kỳ đang rất quan tâm đầu tư vào lĩnh vực này.
Và trong mấy tháng đầu năm 2007, cũng đã có một số dự án lớn đáng chú ý của các nhà đầu tư Hoa Kỳ vào Việt Nam. Trong đó, Tập đoàn Công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam vừa đề nghị Thủ tướng chấp thuận cho Tập đoàn Alcoa Của Hoa Kỳ đầu tư dự án liên doanh khai thác quặng bôxít và xây dựng nhà máy tuyển Alumin công suất 1,3 triệu tấn/năm tại tỉnh Đắk Nông.
Tập đoàn Alcoa đã thể hiện quyết tâm tham gia dự án trên bằng việc chấp nhận tất cả các điều kiện do Tập đoàn công nghiệp Than-Khoáng sản Việt Nam đưa ra, đồng thời cam kết xây dựng một tuyến đường sắt từ Tây Nguyên ra biển để vận chuyển nguyên phụ liệu và tăng cường vận tải cho khu vực. Không những thế, tập đoàn còn cho biết sẵn sàng cùng Vinacomin tăng vốn đầu tư cho dự án từ 1,5 tỷ USD lên 3 tỷ USD.
Tiếp theo đó, sau 2 năm nghiên cứu, tìm hiểu thị trường, Tập đoàn Tài chính EurOrient của Hoa Kỳ đã quyết định chọn Việt Nam để đầu tư trong những năm tới. EurOrient là một Tập đoàn tài chính phát triển toàn cầu có tài sản trị giá 33 tỉ USD đã có mặt tại 40 quốc gia trên thế giới. Hàng chục dự án được Tập đoàn này thực hiện tại các nước đang phát triển với tổng giá trị lên đến 15 tỉ USD. Trước mắt, 4 lĩnh vực EurOrient sẽ tập trung đầu tư tại Việt Nam là: Điện lực, hạ tầng giao thông, khoa học công nghệ và tài chính. Dự kiến trong 5 năm đầu, mỗi năm EurOrient sẽ đầu tư từ 3 đến 4 dự án với vốn đầu tư khoảng 1 tỉ USD.
Như vậy, chúng ta có thể thấy được dòng vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ đang dần chú ý đến Việt Nam. Tuy nhiên cũng có thể nhận thấy được rằng nguồn vốn này là còn khá khiêm tốn. Vì vậy, để nâng cao dòng vốn này của các nhà đầu tư Hoa Kỳ, chúng ta cần phải tận dụng các lợi thế sẵn có, cần phải "gia tốc" hơn nữa và tranh thủ thời gian hơn nữa. Do các doanh nghiệp Việt Nam đang phải cạnh tranh mạnh mẽ với các doanh nghiệp khác trong khu vực về lợi thế. Ví dụ khi Intel đầu tư vào Việt Nam, họ đã đưa lên bàn cân so sánh giữa Việt Nam với các nước khác trong khu vực như: Trung Quốc, Ấn Độ... Do vậy theo tôi việc giải quyết nhanh chóng các thủ tục hành chính để tính đến lợi ích dài hạn của nền kinh tế có ý nghĩa rất quan trọng.
Thực tế hiện nay các doanh nghiệp Hoa Kỳ rất quan tâm tới việc đầu tư vào lĩnh vực cơ sở hạ tầng, giao thông, điện lực... Vì vậy chúng ta phải giải quyết sớm các yếu kém trong lĩnh vực này. Một ví dụ điển hình là khi giới thiệu với các doanh nghiệp Hoa Kỳ về các địa điểm đầu tư tại Việt Nam, các doanh nghiệp Hoa Kỳ tỏ ra rất e ngại về vấn đề giao thông, họ nói rằng họ chấp nhận những điều kiện đầu tư vào các địa điểm đó nhưng vấn đề giao thông, đi lại tại các khu vực đó quá nhỏ, không đáp ứng được việc lưu chuyển hàng hoá. Do vậy có thể khẳng định rằng hạn chế về cơ sở hạ tầng đặc biệt là giao thông vận tải đang là điều mà chúng ta cần quan tâm cần giải quyết để không chủ tạo sự tin tưởng của các nhà đầu tư Hoa Kỳ mà còn các nhà đầu tư ở các quốc gia khác.
Cùng với những chuyển biến tích cực trong quan hệ ngoại giao và kinh tế giữa Việt Nam-Hoa Kỳ trong thời gian qua, chính phủ Việt Nam cũng đã không ngừng cải thiện môi trường đầu tư cho các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, trong những năm tới đây nước ta sẽ ngày càng thu hút được nhiều hơn vốn đầu tư của các nhà đầu tư Hoa Kỳ nói riêng, và của các quốc gia khác trên thế giới nói chung. Tạo nguồn lực để nước ta thực hiện công cuộc Công nghiệp hóa-Hiện đại hóa đất nước, đưa đất nước cơ bản trở thành một nước công nghiệp vào năm 2020
So với các nhà đầu tư khác, các nhà đầu tư Mỹ đang trên đà tăng vốn thực hiện các dự án rất lớn. Với đà gia tốc này, hi vọng trong tương lai, Mỹ sẽ là nhà đầu tư số 1 tại Việt nam.
Vốn thực hiện của sáu nhà đầu tư lớn nhất tại Việt Nam
(năm 2000-2004)
(triệu USD)
Qua biểu đồ trên ta thấy: Hầu hết các nước đang tăng thêm vốn thực hiện tại Việt. Cùng Với Hàn Quốc, Hà Lan.. thì gia tốc tăng vốn của Mỹ là khá cao, các chuyên gia nhận định đây là do ảnh hưởng của Hiệp định song phương Việt - Mỹ ký tháng 12 năm 2001.
2. Vốn đầu tư phân theo ngành
Qua khảo sát, Cục Đầu tư nước ngoài cho biết, đầu tư của Mỹ tập trung vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng với tổng số vốn 1,077 tỷ USD. Trong đó, riêng lĩnh vực công nghiệp nặng thu hút nhiều dự án nhất trong lĩnh vực công nghiệp.
Dầu khí là ngành có quy mô đầu tư lớn nhất khoảng 20,6 triệu USD/dự án với sự hiện diện của nhiều tập đoàn lớn như Unocal và Conoco... Đứng tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ có 69 dự án và tổng vốn đầu tư 791 triệu USD; còn lại là các dự án trong các lĩnh vực công nghiệp, nông nghiệp.
Các nhà đầu tư Mỹ chủ yếu lựa chọn hình thức đầu tư 100% vốn nước ngoài. Các dự án theo hình thức này chiếm khoảng 78,2% và 69% về vốn đăng ký. Bên cạnh đó còn có các hình thức liên doanh và hợp đồng hợp tác kinh doanh được thực hiện nhiều trong các dự án thăm dò và khai thác dầu khí...
Đặc biệt, Mỹ đã có một dự án được cổ phần hóa là Công ty Công nghiệp Cổ phần Tungkwang có vốn đầu tư 35 triệu USD chuyên sản xuất thanh nhôm. Các nhà đầu tư Mỹ đã có mặt tại 33/64 tỉnh thành cả nước nhưng tập trung một số đại phương có điều kiện thuận lợi như: Tp.HCM, Đồng Nai, Hà Nội, Bình Dương.
Trong đó, Tp. HCM thu hút được nhiều dự án nhất với số vốn đạt 455 triệu USD, Bà Rịa- Vũng Tàu đứng thứ hai với 332 triệu USD và Đồng Nai với 284 triệu USD.
Chính vì vậy, một loạt các thoả thuận đã được ký kết giữa doanh nghiệp hai nước lên tới gần 11 tỉ USD, đa số tập trung vào các lĩnh vực: cơ sở hạ tầng, cảng biển, nhà máy điện, khu công nghiệp, khu đô thị... ngoài ra còn đầu tư vào các dự án phát triển thị trường tài chính và các thể chế tài chính khác, công nghệ cao, viễn thông, công nghệ thông tin, các hợp đồng xuất nhập khẩu, giáo dục và đào tạo. Đặc biệt có dự án liên doanh thành lập trường đại học kỹ thuật tại Việt Nam. Trong lĩnh vực giáo dục đào tạo, Hoa Kỳ là cường quốc số 1, do vậy mà các doanh nghiệp Việt Nam cũng đang tiếp cận chặt chẽ với các đối tác Hoa Kỳ, tôi cho rằng đây là một lĩnh vực có rất nhiều triển vọng hợp tác.
Có thể nói rằng cùng với quy mô, chất lượng các dự án được ký kết trong dịp này cũng cao hơn so với những lần trước. Phần lớn những dự án này đều là những lĩnh vực mà Hoa Kỳ có trình độ cao.
Bảng 2. dưới đây thể hiện rõ hơn vốn đầu tư nước ngoài phân theo ngành tính từ thời điểm 1988 đến hết năm 2004
Đầu tư của HK gồm cả nước thứ 3
Không bao gôm nước thứ 3
STT
Lĩnh vực đầu tư
Số dự án
Vốn ĐKBĐ
Vốn TH
Số dự án
vốn đăng ký
Vốn thực hiện
I
Công nghiệp và xây dựng
176
1.751
2.208
149
822
519
1
Công nghiệp nặng
92
648
385
80
487
234
2
Công nghệ thực phẩm
19
557
693
16
67
9
3
Dầu mỏ
8
219
1.430
6
124
232
4
Xây dựng
15
196
146
11
82
26
5
Công nghiệp nhẹ
42
131
120
36
63
19
II
Nông-lâm-ngư-nghiệp
26
198
87
24
153
62
1
Nông-lâm nghiệp
24
187
82
22
142
58
2
thuỷ sản
2
12
4
2
12
4
III
Dịch vụ
65
653
339
42
316
149
1
Khách sạn du lịch
13
267
72
5
73
3
2.
Văn hóa- y tế-giáo dục
12
136
35
11
86
34
3.
Tài chính-ngân hàng
10
11
103
4
65
37
4
Bưu chính viễn thông
12
67
60
10
44
46
5
Căn hộ cho thuê
2
37
41
1
16
8
6
dịch vụ khác
15
33
25
10
27
19
7
Phát triển khu công nghiệp-khu chế xuất
1
5
3
1
5
3
Tổng số
267
2.602
2.634
215
1.291
730
Chênh lệch I-II
52
1.310
1.904
Qua bảng trên ta có nhận xét:
Các nhà đầu tư Mỹ tập trung nhiều vào lĩnh vực công nghiệp và xây dựng (176/276) dự án với số vốn thực hiện là 2208 triệu USD. Còn các ngành khác chỉ chiếm 100/276 dự án.
Trong lĩnh vực công nghiệp và xây dựng, thì có tới tận 92 dự án đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp nặng.
Tiếp theo là lĩnh vực dịch vụ với 65 dự án và 339 triệu USD vốn thực hiện. Như chúng ta đã biết, dịch vụ là ngành có thế mạnh của Mỹ, tuy nhiên con số khiêm tốn kể trên thể hiện Việt Nam chưa có nhiều sức thu hút các nhà đầu tư Mỹ trong lĩnh vực này. Nếu không tính đầu tư qua nước thứ 3 thì con số thống kê còn khiêm tốn hơn. Số dự án ít hơn là 52, số vốn thực hiện cũng rút ngắn đi 1.904 triệu USD.
3. Đầu tư của Hoa kỳ theo hình thức đầu tư
Bảng 2. Đầu tư Mỹ vào Việt Nam theo hình thức đầu tư
Đầu tư hoa kỳ thông qua nước thứ 3
(không qua nước thứ 3)
STT
Hình thức đầu tư
Số dự án
Vốn ĐKBĐ
Vốn TH
số dự án
vốn ĐKBĐ
Vốn TH
1
100% vốn nước ngoài
192
1.636
1.104
159
853
267
2
Liên doanh
59
732
662
42
300
229
3
hợp đồng hợp tác kinh doanh
16
234
867
14
139
235
Tổng
267
2.602
2.634
215
1.291
730
Chênh lệch
52
1.310
1.904
Nguồn: Bộ kế hoạch đầu tư
Nếu tính cả dự án đầu tư của Mỹ thông qua nước thứ 3, trong tổng số 267 dự án đầu tư vào Việt Nam thì có tới 192 dự án theo hình thức 100% vốn nứớc ngoài chiếm 71,91% số dự án. Số vốn thực hiện lên tới 1.104 triệu USD chiếm 41,91% tổng số vốn thực hiện.
Tiếp đến là dự án theo hình thức liên doanh với 59 dự án với số vốn thực hiện là 662 triệu USD chiếm 25,13%.
Cuối cùng là 16 dự án theo hình thức hợp đồng hợp tác kinh doanh số vốn đăng ký và thực hiện lớn hơn hình thức liên doanh, là 867 triệu USD chiếm 32,92% tổng vốn thực hiện. Nguyên nhân là do các dự án này có số lượng ít nhưng giá trị thực hiện lại cao, đó thường là các dự án xây dựng cơ bản có số vốn lớn
III. Những cơ hội và thách thức của Việt Nam trong việc thu hút đầu tư trực tiếp cùa Hoa Kỳ khi gia nhập tổ chức WTO:
Sau rất nhiều vòng đàm phán và thỏa thuận, ngày 7 tháng 11 năm 2006 Việt Nam đã chính thức gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO. Việt Nam đã trông đợi ngày này từ lâu, nó đã thể hiện một bước tiến lớn của Việt Nam trong quá trình toàn cầu hóa và thích ứng với xu thế của thời đại của nền kinh tế thế giới hiện nay. Tuy nhiên việc gia nhập WTO không chỉ mang đến toàn những cơ hội mà nó còn ẩn chứa rất nhiều thách thức. Nhất là đối với đầu tư trực tiếp của Hoa Kỳ vào Việt Nam điều này càng thể hiện rõ, cơ hội luôn đi kèm với thách thức.
Những cơ hội mở ra cho Việt Nam:
Khi gia nhập tổ chức thương mại thế giới WTO, Việt Nam phải thực hiện rất nhiều cam kết. Ngoại trừ các cam kết liên quan đến vấn để thương mại còn có những cam kết quan trong về đầu tư. Đó là cam kết về tao thuận lợi cho hoạt động đầu tư liên quan đến thương mại: Việt Nam đã cam kết tuân thủ hoàn toàn HIệp định TRIMs của WTO. Cam kết xóa bỏ các rào cản về đầu tư, với mục tiêu tổng thể để tăng cường tính hấp dẫn, thông thoáng và minh bạch của môi trường đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. Nhìn chung mức độ cam kết sẽ cao hơn nhiều so với cam kết của Việt Nam trong Hiệp định thương mai Việt Nam – Hoa Kỳ.
Ngoài các cam kết chính kể trên, Việt Nam cũng phải đưa ra các cam kết xây dựng chương trình hành động, chương trình xây dựng pháp luật, bảo về quyền sở hữu trí tuệ liên quan đến thương mai, thủ tục hải quan, tiêu chuẩn kỹ thuật và hợp chuẩn
Trong thời gian tới khi đã là thành viên của WTO, Việt Nam sẽ phải tuân thủ hoàn toàn Hiệp định TRIMs của WTO, theo đó Việt Nam bắt buộc phải cải cách các chính sách liên quan đến đầu tư theo hương giảm thiểu các rào cản trái với quy định của WTO, bãi bổ sự phân biệt đối xử theo MFN và NT. Việc phải tuân thủ nguyên tắc minh bạch hóa và tính dự báo các quy định, chính sách thể chế thương mại, các nhà đầu tư sẽ yên tâm hơn khi tiến hành đầu tư. Hơn nữa có thị trường tiêu thụ rộng lớn thì các nhà đầu tư mới yên tâm đầu tư vào Việt Nm
Bên cạnh đó Việt Nam cũng
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 4751.doc