Người lao động sở hữu số cổ phần mua theo giá ưu đãi có quyền để thừa kế và các quyền khác của cổ đông theo quy định của pháp luật và điều lệ tổ chức hoạt động của công ty cổ phần. Cổ phiếu của loại cổ phần này là cổ phiếu ghi tên và địa chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua. Công ty cổ phần ưu tiên mua lại theo giá thị trường tại thời điểm bán.
+ Người lao động nghèo trong doanh nghiệp cổ phần được mua chịu cổ phần theo giá ưu đãi, được hoãn trả trong 3 năm đầu và trả dần tối đa trong 7 năm tiếp theo không phải chịu lãi suất. Số cổ phần mua trả dần dành cho người lao động nghèo không quá 20% tổng số cổ phần Nhà nước bán theo giá ưu đãi cho người lao động trong doanh nghiệp. Cổ phiếu của loại cổ phần là có ghi tên. Người sở hữu cổ phần này chỉ được chuyển nhượng sau 3 năm kể từ khi mua và trả hết nợ cho Nhà nước.
+ Người lao động chuyển sang làm việc cho công ty cổ phần tiếp tục tham gia và hưởng quyền bảo hiểm theo quy định hiện hành.
47 trang |
Chia sẻ: NguyễnHương | Lượt xem: 794 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quá trình cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ứ nhất, CPH khác biệt với tư nhân hoá: CPH là quá trình chuyển DNNN thành CTCP, chuyển doanh nghiệp một chủ sở hữu (sở hữu công cộng mà Nhà nước là đại diện chủ sở hữu) sang doanh nghiệp đa sở hữu; từ sở hữu duy nhất là Nhà nước sang sở hữu của các cổ đông, trong đó nói chung Nhà nước giữ vai trò cổ đông nắm cổ phần chi phối hoặc trong một số trường hợp là cổ phần đặc biệt. Còn tư nhân hoá là chuyển sở hữu Nhà nước vào tay tư nhân. Do đó, hai quá trình này không thể đồng nhất với nhau.
Thứ hai, mục tiêu của việc làm thí điểm CPH là: Chuyển một phần sở hữu Nhà nước thành sở hữu của các cổ đông nhằm nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh; phải huy động được một khối lượng vốn nhất định trong và ngoài nước để đầu tư cho SXKD; tạo điều kiện để người lao động thực sự làm chủ doanh nghiệp.
Thứ ba, DNNN được chọn làm thí điểm CPH phải đủ ba điều kiện: có quy mô vừa; đang kinh doanh có lãi hoặc tuy trước mặt gặp khó khăn nhưng có triển vọng sẽ hoạt động tốt; không thuộc diện nhưng doanh nghiệp cần thiết phải giữ 100% vốn đầu tư của Nhà nước.
Thứ tư, việc tiến hành cổ phần hoá được tiến hành theo ba loại: Bán cổ phần cho cán bộ công nhân viên chức trong doanh nghiệp; Bán cổ phần cho các tổ chức kinh tế và xã hội trong nước; Bán cổ phần cho các cá nhân trong nước.
Năm là, nguyên tắc xác định giá trị doanh nghiệp tính theo giá trị ở thời điểm đưa doanh nghiệp ra CPH, căn cứ vào: 1, Số liệu kiểm kê ngày 1/1/1990, văn bản giao vốn có tính các hệ số điều chỉnh tăng, giảm theo thời giá do Bộ tài chính hướng dẫn; 2, Các yếu tố thị trường khác như đất đai và vị trí địa lý kinh tế của doanh nghiệp, khả năng sinmh lợi trong những năm tới của ngành kinh doanh trên thị trường trong nước và quốc tế , uy tín và hiệu quả kinh tế hiện nay của doanh nghiệp.
Thứ sáu, người lao động trong DNNN chuyển sang CTCP được hưởng ưu đãi trong việc mua cổ phần trả chậm không quá 12 tháng.
Thứ bảy, cơ quan chủ trì tổ chức triển khai thí điểm CPH là Bộ tài chính.
Sau một thời gian tiến hành làm thừ, đến cuối năm 1995,sau hơn 5 năm thực hiện, cả nước chỉ có 5 DNNN được chuyển thành CTCP đó là:
Công ty đại lý liên hiệp vận chuyển thuộc Công ty phát triển hàng hải, Bộ giao thông, CPH xong 7/1993.
Công ty cơ điện lạnh thuộc Sở Công nghiệp TP HCM, chuyển sang CTCP tháng 9/1993.
Nhà máy giày Hiệp An, thuộc Bộ Công nghiệp nhẹ, chuyển sang CTCP tháng 8/1995.
Xí nghiệp chế biến hàng xuất khẩu Long An (tỉnh Long An) chuyển sang CTCP tháng 7/1995.
5 DNNN đã chuyển sang CTCP đều là Nhà nước DNNN mới được thành lập, qui mô vừa và nhỏ, chủ yếu mang tính dịch vụ, kinh doanh trong lĩnh vực không quan trọng. Đến đầu năm 1996, uy chưa có đủ điều kiện để tổng kết toàn diện, nhưng nhìn chung các DNNN chuyển sang CTCP bước đầu đã đạt được mới chỉ có 2/61 tỉnh, thành phố và 3/7 Bộ có DNNN CPH. Việc triển khai thí điểm CPH còn quá chậm và không đạt yêu cầu mong muốn.
2. Giai đoạn 2: Mở rộng cổ phần hoá (từ 5/1996 đến 6/1998).
Qua 6 năm thực hiện thí điểm, tuy kết quả còn ít, nhưng đã có được những kinh nghiệm ban đầu cho việc mở rộng CPH cho thời gian tiếp theo. Đáp ứng nhu cầu bức xúc về vốn của các DNNN, ngày 7/5/1996, Chính phủ ban hành Nghị định 28/CP về chuyển một số DNNN thành công ty cổ phần thay cho Quyết định 202/CT Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ VIII của Đảng (tháng 6/1996) nêu phương hướng chỉ đạo: "Tổng kết kinh nghiệm hoàn chỉnh khuôn khổ pháp lý để triển khai tích cực và vững chắc việc CPH DNNN nhằm tạo thêm động lực mới trong quản lý, huy động thêm vốn theo yêu cầu phát triển và điều chỉnh cơ cấu DNNN". Đây là các mốc đánh dấu chuyển CPH DNNN từ giai đoạn thí điểm sang giai đoạn mở rộng.
Nội dung chủ yếu của Nghị định 28/C P là: Tất cả các DNNN nằm trong diện Nhà nước không cần tiếp tục nắm giữ 100% vốn đầu tư được phép CPH để chuyể n thành CTCP. Ngoài điều kiện trên, DNNN được chọn CPH còn phải là doanh nghiệp có quy mô vừa và nhỏ, có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
- CPH được tiến hành theo 3 hình thức:
* Giữ nguyên giá trị hiện có của doanh nghiệp và phát hành cổ phiếu theo quy định nhằm thu hút thêm vốn để phát triển.
* Bán một phần giá trị hiện có của doanh nghiệp.
* Tách một bộ phận của doanh nghiệp đủ điều kiện để CPH.
Việc triển khai CPH DNNN theo Nghị định 28.CP đã giải toả được một số vướng mắc gặp phải trong giai đoạn thí điểm như: Các DNNN sau khi CPH được giảm thuế lợi tức 50% trong hai năm liên tiếp, kể từ khi chuyển sang hoạt động theo Luật công ty, không phải "xét" như ở giai đoạn trước.
Để thúc đẩy triển khai tích cực và vững chắc CPH, ngày 4/4/1977, Bộ chính trị thông báo số 63/TB/TW yêu cầu các cấp uỷ Đảng và chính quyền phải quán triệt và tuyên truyền, giải thích trong nhân dân chủ trương, chính sách của Đảng và nhấn mạnh CPH phải xuất phát từ yêu cầu phát triển của DNNN, nhằm huy động thêm vốn của cả bên trong lẫn b ên ngoài doanh nghiệp để đầu tư mở rộng ngành nghề, hiện đại hoá công nghệ, tạo thêm việc làm, phân công lại lao động, phát triển sản xuất, tăng khả năng cạnh tranh, tăng tích luỹ cho doanh nghiệp, đóng góp cho ngân sách và thu nhập cho người lao động; làm cho tiềm lực của Nhà nước tăng lên; đảm bảo vai trò làm chủ và tăng cường tính năng động sáng tạo của người lao động trong quản lý doanh nghiệp.
Trên cơ sở có các chủ trương, chính sách mới tốc độ CPH được triển khai nhanh hơn, nhiều tỉnh, thành phố, bộ, ngành và TCT91đã đăng ký hơn 200 doanh nghiệp thực hiện CPH, chiếm trên 3% số DNNN. Tính đến đầu tháng 6/1998, việc thực hiện Nghị định 28/CP đã chuyển được 25 DNNN thành CTCP (khu vực 2), một số doanh nghiệp khác đang tiến hành ở các bước: xác định giá trị doanh nghiệp, kiểm toán...
Với 25 DNNN đã chuyển sang CTCP giai đoạn này cho thấy được CPH bước đầu được mở rộng. Đã có 3 bộ, TCT và 11 tỉnh, thành phố cps doanh nghiệp CPH. Ngành công nghiệp và xây dựng có số doanh nghiệp CPH nhiều nhất: 12 đơn vị, ngành giao thông vận tải: 3 đơn vị, ngành chế biến nông và lâm thuỷ sản: doanh nghiệp, ngành dịch vụ: 7 doanh nghiệp. Quy mô doanh nghiệp tiến hành CPH cũng lớn hơn so với giai đoạn thí điểm: 1 doanh nghiệp có vốn 120 tỷ đồng, 5 doanh nghiệp có vốn từ 10 tỷ đồng trở lên (GĐ I chỉ có 1 doanh nghiệp với số vốn 16 tỷ đồng). Trong số 25 doanh nghiệp đã CPH, có 1 doanh nghiệp Nhà nước không nắm giữ cổ phần là Công ty đầu tư sản xuất và thương mại Hà Nội. Còn lại 24 CTCP , Nhà nước nắm giữ ít nhất 10%, cao nhất 60,62% số cổ phần của công ty; cổ đông là người lao động trong công ty sở hữu từ 10% đến 70% số cổ phần, còn lại là cổ đông ngoài doanh nghiệp sở hữu.
3. Giai đoạn 3: Thúc đẩy cổ phần hoá (từ 7/1998 đến nay).
Sau hai năm thực hiện Nghị định 28/CP, từ kinh nghiệm thực tế, để đẩy mạnh tiến trình CPH, ngày 29/6/1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 44/1998/NĐ-CP về CPH DNNN thay thế cho các Nghị định và Nghị quyết trước đây. Cùng với chỉ thị về sắp xếp lại DNNN của Thủ tướng Chính phủ, Nghị định này đã khắc phục một số điểm còn tồn tại trong Nghị định trước, thay đổi một cách căn bản về cơ chế, chính sách CPH hiện hành theo hướng mở rộng ưu đãi, tạo thêm thuận lợi, đơn giản hoá các thủ tục, đảm bảo chính sách xã hội thoả đáng đối với người lao động nhằm đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN.
Chỉ trong 6 tháng (từ tháng 7 đến hết tháng 12/1998) đã có 91 DNNN được CPH, gấp hơn 3 lần so với kết quả của tất cả thời gian trước. Đã có 5 Bộ, 27 tỉnh, thành phố trực thuộc TW, 5 TCT Nhà nước có doanh nghiệp CPH. Tính đến ngày 19/3/1999, cả nước đã có 150 DNNN CPH, trong đó triển khai mạnh nhất ở Hà Nội 31 doanh nghiệp (kế hoạch Nhà nước giao CPH năm 1998 là 31 doanh nghiệp). Khối DNNN Trung ương (do các Bộ, ngành, TCT 91 quản lý trực tiếp) có Bộ Xây dựng triển khai CPH đúng kế hoạch nhất: năm 1998 goap CPH 9 doanh nghiệp đã hoàn thành 9; TCT điện lực Việt Nam CPH xong 2 doanh nghiệp (theo kế hoạch là 2 doanh nghiệp)... Năm 1990, CPH được 220 doanh nghiệp, năm 2000 là 171 doanh nghiệp và gần 300 doanh nghiệp năm 2001. Như vậy, tính đến hết tháng 11 năm 2001, cả nước đã cổ phần hoá được trên 700 doanh nghiệp.
Trên đây là 3 giai đoạn triển khai CPH DNNN ở Việt Nam. Có thể thấy, đó là quá trình đi từ thử nghiệm đến triển khai và thúc đẩy nhằm tạo ra tốc độ CPH theo hướng ngày càng nhanh hơn, quy mô CPH ngày càng rộng hơn.
III. Đánh giá chung việc jtiến hành cổ phần hoá DNNN ở nước ta thời gian qua:
1. Những thành tựu đã đạt được:
Một là, tiến độ CPH bước đầu được cải thiện:
Kể từ khi có chủ trương chuyển một số DNNN sang CTCP đến nay, việc tiến hành CPH DNNN ở nước ta đã trải qua hơn 10 năm. Tính đến hết tháng 11 năm 2001, cả nước đã chuyển được hơn 700 DNNN sang CTCP.
Bảng ư. Số lượng DNNN chuyển sang CTCP (5/1990 - 11/2001)
Giai đoạn CPH
Thời gian
CTCP
1. Thí điểm (từ 5/1990 đến 4/1996)
6 năm
5
2. Mở rộng (từ 5/1996 đến 6/1998)
2 năm
25
3. Thúc đẩy (từ 7/1998 đến 11/2001)
3 năm
670
Tổng cộng:
11 năm
700
Giai đoạn từ 5/1990 tức là mất 6 năm, cả nước mới CPH được 5 DNNN. Nhưng gần đây, từ 7/1998 đến 11/2001 đã CPH được 700 doanh nghiệp. Đây là một sự tiến bộ ban đầu cần tiếp tục phát huy.
Trước đây, việc triển khai CPH 1 doanh nghiệp thường kéo dài trung bình 2 năm. Có doanh nghiệp phải 3 năm (Nhà máy giày Hiệp An), có doanh nghiệp phải kéo dài 5 năm (Công ty xe khách Hải Phòng). Nhưng gần đây, thời gian CPH 1 DNNN đã có chiều hướng rút ngắn lại do đã khắc phục được một số vướng mắc trong quy tình CPH. Có doanh nghiệp chỉ 3 tháng đã tiến hành CPH xong. Có thể nói, đây là một sự tiến bộ bước đầu về tốc độ tiến hành CPH DNNN ở nước ta.
Hai là, sở hữu Nhà nước được cấu trúc lại phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế nhiều thành phần, tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước.
Thông qua CPH, các doanh nghiệp đã huy động được một lượng vốn quan trọng từ cán bộ công nhân viên làm việc tại doanh nghiệp và trong dân cư vào đầu tư phát triển sản xuất kinh doanh. Cụ thể, tổng số vốn huy động được lên tới khoảng 3000 tỷ đồng. Qua bán cổ phần, Nhà nước đã thu hồi được một lượng vốn quan trọng về cho ngân sách. Nó không chỉ cấu trúc lại sở hữu Nhà nước, cơ cấu lại hệ thống DNNN phù hợp với yêu cầu phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, mà còn tạo điều kiện để Nhà nước đầu tư theo chiều sau, đổi mới khách hàng, công nghệ, nâng cao hiệu quả hoạt động của DNNN, qua đó tăng cường vai trò chủ đạo của kinh tế Nhà nước trong nền kinh tế quốc dân.
Tại các CTCP, Nhà nước không chỉ thu hồi vốn mà hàng năm còn thu được lợi tức cổ phần trên cơ sở vốn của Nhà nước tham dự cổ phiếu vào các CTCP này, các khoản tiền lãi về cho công nhân vay mua chịu cổ phiếu và các khoản thu về thuế của các CTCP.
Sở hữu về vốn của các DNNN đã CPH, chẳng những được bảo toàn mà còn tăng lên đáng kể. Chuyển sang CTCP các doanh nghiệp phải đổi mới cơ chế quản lý để nâng co hiệu quả sản xuất kinh doanh, phải công khai tài chính trước HĐQUá TRìNH và cổ đông. Thông qua kinh doanh có hiệu quả, các doanh nghiệp lại có điều kiện kêu gọi thêm vốn cổ phần để mở rộng quy mô hoạt động, các cổ đông có lợi ích nên sẵn sàng bỏ thêm vốn vào công ty. Đồng thời, do tạo thêm được các việc làm mới, người lao động mới gia nhập công ty cũng sẵn sàng bỏ vốn đầu tư vào công ty dưới hình thức cổ phiếu. Tính đến đầu năm 1997, bình quân mỗi năm vốn của các công ty này tăng lên 45%. Được Nhà nước cho phép, công ty còn phát hành trái phiếu chuyển đổi ra nước ngoài, Năm 1996, thu hút được 5 triệu USD (bằng 55 tỷ đồng). Đây không chỉ là cách huy động vốn nhằm đổi mới cơ sở vật chất, kỹ thuật , nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp mà còn là các mở rộng liên kết về sở hữu giữa các thành phần kinh tế để phát triển CTCP - một hình thức không thể thiếu được trong tời kỳ quá độ lên CNXH ở nước ta.
Ba là, hình thành cơ chế quản lý mới và nâng cao hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp sau CPH trên cả hai tầm vi mô và vĩ mô trong nền kinh tế thị trường.
Chuyển DNNN thành CTCP là chuyển hoạt động của doanh nghiệp từ chỗ chịu sự quản lý trực tiếp của Nhà nước sang Nhà nước quản lý gián tiếp thông qua các công cụ luật pháp, chính sách... Hoạt động của doanh nghiệp chuyển sang chịu tác động trực tiếp của cơ chế thị trường. Điều này buộc các DNNN chuyển thành CTCP phải đổi mới cơ chế quản lý và Nhà nước cũng phải đổi mới đối với quản lý các công ty này. Thực tiễn ở các DNNN được CPH đã đưa đến.
+ Đổi mới quản trị trong doanh nghiệp
Chuyển sang CTCP đã nâng cao được hiệu lực của bộ máy quản lý đáp ứng yêu cầu của kinh tế thị trường. Qua thực tế, việc CPH đã làm cho quản lý chuyển mạnh từ t ư tưởng dựa dẫm vào sự bao cấp của Nhà nước sang tư tưởng tự lực, lời ăn, lỗ chịu. Mọi thành viên trong bộ máy quản lý phải làm việc thực sự trên cơ sở vì sự sống còn của công ty. Bộ máy quản lý công ty cũng được tinh giảm, gọn nhẹ. Việc biên chế người giúp việc, bộ máy hành chính, sử dụng công quỹ... ở công ty không được tuỳ tiện mà phải tuân theo điều lệ và quy định chặt chẽ của công ty.
+ Nâng cao tính tự chủ trong huy động vốn và quản lý doanh nghiệp
Bằng việc chuyển DNNN thành CTCP để doanh nghiệp hoạt động trong mô hình tổ chức mới, không chỉ mở ra khả năng huy động vốn thay vì chỉ biết dựa vào vốn ngân sách Nhà nước và ngân hàng trước đây, mà còn tập cho các nhà đầu tư một phương thức đầu tư mới, đầu tư vào cổ phiếu - thay vì chỉ biết đưa tiền vào xây dựng nhà cửa, gửi tiết kiệm, mua sắm... chuyển DNNN sang CTCP, làm thay đổi cơ chế quản lý của Nhà nước đối với doanh nghiệp theo hướng tăng cường chức năng giám sát các hoạt động bằng luật pháp và nội dung điều lệ hoạt động của CTCP phù hợp với quy định của Nhà nước. Hoạt động trong cơ chế này, doanh nghiệp càng phát huy tính tự chủ, năng động trong sản xuất kinh doanh.
Bốn là, hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp tăng lên rõ rệt:
Hoạt động sản xuất kinh doanh của các DNNN chuyển sang CTCP không những không bị gián đoạn mà còn được phát triển. Trong mấy năm qua, tính bình quân hàng năm doanh thu tăng 41%; lợi nhuận tăng 71,63%,\; giá trị góp vốn của cổ đông tăng 183, ....(bảng 5 phần 2).
Bảng 5: Kết quả CPH của giai đoạn 1
1) Danh sách các DNNN đã thực hiện CPH trong giai đoạn thí điểm &5/1990 - 4/1996
STT
Tên cơ sở vật chất CPH
Ngày chuyển
Vốn điều lệ (tr.đ)
Tỷ lệ vốn Nhà nước
1
CTCP đại lý liên hiệp vận chuyển
1/7/93
6.200
18%
2
CTCP cơ điện lạnh
1/10/93
16.000
30%
3
CTCP giày Hiệp An
1/10/94
4.793
30%
4
CTCP CB hàng xuất khẩu Long An
1/7/95
3.540
30%
5
CTCP thức ăn gia súc
1/7/95
7.912
30%
Năm là, hình thành một cơ chế phân phối mới theo hướng phát huy các nguồn lực trong điều kiện kinh tế thị trường mà doanh nghiệp CPH là chủ thể.
Khi còn là DNNN, việc phân phối thu nhập do Nhà nước trực tiếp quy định. Người lao động trong doanh nghiệp được hưởng thu nhập dưới hình thức tiền lương và phúc lợi tập thể; tiền lương còn mang nặng chủ nghĩa bình quân.
Khi trở thành CTCP, người lao động trong doanh nghiệp bỏ tiền ra mua cổ phiếu trở thành cổ đông - người chủ sở hữu doanh nghiệp. Quan hệ của họ với doanh nghiệp thể hiện ở 2 tư cách: Người làm thuê cho doanh nghiệp và người làm chủ doanh nghiệp. Tại các doanh nghiệp đã CPH, người lao động mua cổ phần ít nhất là 4 (trị giá 400.000đ), người mua nhiều lên hàng năm. Đo có cổ phần tại công ty, nên ngoài tiền lương, người lao động còn được phân phối theo lợi tức cổ phần. Qua các DNNN đã CPH cho thấy
+ Tiền lương: Cao hơn so với khi còn là DNNN. Tại 5 DNNN đã CPH trong giai đoạn thí điểm, tính đến cuối năm 1996, thu nhập của người lao động tăng bình quân 20%/năm. Mức tiền lương tăng không phải do công ty thực hiện chế độ phân phối "thoáng" hơn, còn DNNN phân phối "chặt chẽ" hơn, mà nguyên nhân chính là ở chỗ là người chủ họ lao động thực sự hơn, ý thức hơn so với khi còn là DNNN .
Lợi tức cổ phần mà họ thu được cũng cao hơn so với tỷ suất lợi tức thu được nếu gửi tiền vào các ngân hàng trong cùng thời gian. Chẳng hạn, năm 1994, tỷ suất lợi tức cổ phần của REE là 30% trong khi lãi suất tiền gửi ngân hàng khoảng 17% năm.
Ngoài ra, một phần lợi nhuận được trích lại để tái sản xuất mở rộng tại doanh nghiệp cũng là để tái sản xuất mở rộng vốn cổ phần làm tăng giá trị cổ phiếu của cổ đông. Tại các DNNN được CPH, Nhà nước cũng thu được nhiều thuế hơn và không còn phải lo hỗ trợ vốn hoặc bù lỗ như trước.
Từ những kết quả thực tế trên cho thấy, CPH DNNN là một quá trình làm tăng hiệu quả hoạt động của doanh nghiệp, đổi mới chế độ phân bổ lợi ích giữa các chủ thể tham gia vào hoạt động của doanh nghiệp, từ đó kích thích các nguồn lực, thúc đẩy doanh nghiệp phát triển.
2. Hạn chế và nguyên nhân:
2.1. Nhà nước hạn chế trong việc tiến hành CPH DNNN thời gian qua:
Mặc dù, gần đây tiến trình CPH DNNN đã có cải thiện song căn cứ vào yêu cầu đẩy mạnh đổi mới DNNN thì việc tiến hành CPH DNNN trong thời gian qua vẫn chưa ngang tầm, chưa phát huy triệt để tác dụng tích cực của bản thân quá trình CPH, cụ thể:
Một là tốc độ tiến hành CPH còn chậm. Trong 6 năm đầu mới CPH được 5 DNNN. Trong giai đoạn mở rộng rồ giai đoạn thúc đẩy tiến trình CPH, tuy có diễn ra nhanh hơn song vẫn chưa đạt được như mong muốn:
Năm
Chỉ tiêu CPH
Thực hiện CPH
Đạt (%) kế hoạch
1998
150 D N
105 d N
70%
1999
450 D N
220 D N
49%
2000
337 D N
171 D N
50,7%
Hai là, việc tiến hành CPH không đồng đều giữa các ngành, địa phương chưa có DNNN CPH. Có những ngành (Bộ thương mại) mặc dù số DNNN thuộc diện CPH nhiều nhưng mới chỉ có một doanh nghiệp chuyển thành CTCP . Các TCT thép, TCT cà phê, TCT lương thực miền Bắc... tính đến tháng 4/1999 vẫn chưa CPH được một doanh nghiệp nào.
Ba là, các mục tiêu của CPH chưa đạt được như mong muốn:
- Mục tiêu huy động vốn của toàn xã hội để phát triển doanh nghiệp nhưng vẫn chưa thu hút đông đảo nhà đầu tư. Mục tiêu đổi mới công nghệ , tạo thêm việc làm, phát triển doanh nghiệp đòi hỏi phải huy động thêm vốn nhưng thực tế mới chỉ CPH bằng cách bán tài sản của Nhà nước hiện có tại doanh nghiệp, tức là mới thực hiện việc chuyển đổi sở hữu tài sản chứ chưa làm tưang tài sản doanh nghiệp, do vậy đổi mới công nghệ còn gặp nhiều khó khăn. Mục tiêu tạo điều kiện cho người lao động trong các doanh nghiệp CPH được mua cổ phần với giá ưu đãi của Nhà nước nhưng trong thực tế, xung quanh vấn đề này còn nảy sinh nhiều sự không công bằng.
Bốn là, tình hình doanh nghiệp sau CPH còn gặp nhiều vướng mắc về tư cách pháp nhân trong vay vốn, cơ chế quản lý đối với doanh nghiệp vẫn chưa thực sự được cải thiện, cơ chế phân phối lợi ích vẫn tuỳ thuộc vào quyết định của mỗi CTCP, vai trò của Nhà nước và các tổ chức đoàn thể còn buông lỏng.
2.2. Nguyên nhân của những hạn chế:
Đánh giá một cách tổng quát, có một số nguyên nhan chính cả khách quan và chủ quan, làm cho CPH DNNN trong thời gian qua không đạt chỉ tiêu kế hoạch để ra, còn tồn tại những hạn chế kể trên, đó là:
2.2.1. Về phía khách quan:
Chúng ta tiến hành CPH DNNN trong bối cảnh nền kinh tế đang thực hiện những bước quá độ từ sản xuất nhỏ lên xây dựng lớn XHCN và mới chuyển từ ừ nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung sang nền kinh tế thị trường. Trong bối cảnh đó, điều kiện khách quan cho việc triển khai CPH còn nhiều bất cập. Cụ thể là:
- Trình độ xã hội hoá sản xuất còn chưa thật chín muồi: Nước ta đi lên CNXH chưa qua giai đoạn phát triển của CNTB nên thiếu cái "cốt vật chất" của một nền kinh tế phát triển. Lao động thủ công vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong tổng số lao động xã hội, năng suất lao động thấp, chất lượng và hiệu quả sản xuất còn kém so với các nước trong khu vực và trên thế giới.
+ Lực lượng sản xuất còn thấp kém, hơn 705 lực lượng lao động và hơn 80% dân số cả nước tập trung trong nông nghiệp và nông thôn.
+ Cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu, kết cấu hạ tàng (đường giao thông, kho tàng, bến bãi...) còn lạc hậu, làm chia cắt các vùng, các địa phương không cho phép khai thác thế mạnh, tiềm năng của các vùng, loại hình doanh nghiệp hết sức mới mẻ như CPH.
- Nước ta lại đang trong quá trình chuyển từ nền kinh tế còn phổ biến là tự cấp, tự túc lên kinh tế hàng hoá, đồng thời còn trong quá trình xoá bỏ cơ chế bao cấp, mở đường cho kinh tế thị trường phát triển.
- Trình độ dân trí và yếu tố tâm lý xã hội cũng là những nhân tố khách quan làm cản trở tiến trình CPH.
2.2.2. Về phía chủ quan:
Tập trung ở các nguyên nhân chủ yếu như do chưa nhận thức, chưa đẩy mạnh việc tuyên truyền, vận động trong toàn xã hội về chủ trương CPH DNNN, cơ chế, chính sách và quản lý điều hành, triển khai CPH còn nhiều lúng túng.
Thứ nhất, tình hình tài chính DNNN nói chung và tài chính của DNNN phải CPH nói riêng chưa lành mạnh, thiếu tính minh bạch, thiếu rõ ràng. Chính phủ đã có quyết định 104/CT (10//4/1991) về thanh toán công nghệ giai đoạn I và quyết định 95.QĐ/TTg (15/8.1998)về xử lý thanh toán công nợ giai đoạn II nhằm lành mạnh hoá tài chính của các DNNN, nhưng kết quả giải quyết công nợ chưa khả quan, diễn ra rất chậm. Giai đoạn I chỉ giải quyết được gần 19% và giai đoạn II chỉ được khoảng 18% tổng số nợ các nối đất kê khai. Trước tình trạng này, Chính phủ đã ban hành Nghị định 8/1999/NĐ/C P (9/7/1999) nhằm cơ cấu lại nợ đối với DNNN trước khi thực hiện CPH và quyết định 5/200/QUá TRìNH-TTg (5/1/2000) xoá bỏ các khoản nợ đã mất khả năng thanh toán. Mục đích của các biện pháp này là làm cho các DNNN lành mạnh về tài chính trước khi CPH, nhưng việc cơ cấu lại nợ còn nhiều bất cập nên việc xác định giá trị doanh nghiệp khi thực hiện CPH gặp khó khăn. Mặt khác, theo Nghị định 44/1998.NĐ-C P, giá trị doanh nghiệp là giá trị thực thế theo giá thị trường, có nghĩa là phải định được giá của các yếu tố vô hình như uy tín, vị trí, lợi thế... của doanh nghiệp. Nhưng chung quanh những yếu tố này vẫn rất khó tìm được sự thống nhất giữa doanh nghiệp và hội đồng định giá. Điều đó làm chậm quá trình xác định giá trị doanh nghiệp, đồng thời làm cho việc xác định giá trị doanh nghiệp của hội đồng định giá không sát với thị trường.
Thứ hai, chưa làm tốt việc thấu suốt quan điểm, chủ trương CPH DNNN của Đảng và Chính phủ: Mặc dù Đảng và Chính phủ đã có chủ trương chuyển một số DNNN thành CTCP, nhưng chưa được các cấp, các ngành và địa phương hưởng ứng tích cực. Cản trở chính ở đây là do nhận thức cho rằng CPH chẳng khác gì tư nhân hoá, từ đó nảy sinh tư tưởng sợ "chệch hướng XHCN" nếu CPH DNNN.
Ngoài vấn đề nhận thức, sự cản trở tiến trình CPH còn có những nguyên nhân xuất phát từ lợi ích cục bộ. Các Bộ, tỉnh, thành phố vẫn muốn có trong tay mình một số DNNN đáng kể để chi phối. Nếu CPH thì không còn đối tượng để "chi phối" nữa, tức là mất "quyền," mất "lợi ích". Ngoài việc đụng chạm đến lợi ích, còn có một lý do khác đó là thói quen trì trệ, thích yên ổn, ngại thay đổi. Không ít TCT ngần ngại chỉ đạo triển khai CPH, vì e rằng khi một công ty thành viên được thành lập sẽ ít lệ thuộc vào công ty hơn. Cũng có những đơn vị có đề án tổng thể sắp xếp lại DNNN trong phạm vi quản lý nhưng lại không có chương trình, kế hoạch cụ thể, việc triển khai mang tính đối phó.
Một bộ phận người lao động, đặc biệt là những người làm việc từ thời bao cấp vẫn có tư tưởng biên chế suốt đời nên không muốn CPH. Họ lo lắng về sự xáo trộn bất lợi trong cuộc sống của mình; chưa nhận thức đầy đủ về chủ trương và chính sách CPH DNNN của Đảng và Chính phủ nên họ băn khoăn về quyền lợi xã hội và chính trị sau khi CPH.
Thứ ba, việc điều hành triển khai CPH còn chậm và lúng túng. Một số nội dung trong văn bản chỉ đạo, tổ chức triển khai chưa rõ ràng, thiếu tính hệ thống, có nhiều vấn đề chậm được khẳng định như: CPH là tự nguyện hay bắt buộc đối với các DNNN? Những doanh nghiệp nào sẽ tiến hành CPH, những doanh nghiệp nào không hoặc chưa tiến hành CPH? Giá trị đất có tính vào giá trị tài sản doanh nghiệp để CPH không? tỷ lệ cổ phần chi phối của Nhà nước, tỷ lệ cổ phần dành cho người lao động trong doanh nghiệp và tỷ lệ cổ phần bàn ra ngoài xã hội bao nhiêu là hợp lý> trách nhiệm của cán bộ, ngầnh và địa phương như thế nào trong triển khai CPH.
Việc giải quyết các thủ tục pháp lý tạo điều kiện cho doanh nghiệp tiến hành CPH còn chậm và lúng túng. Quy tình CPH còn rườm rà, phức tạp, nhiều thủ tục phiền phức, tốn kém, chậm được cải tiến.
Thứ tư, chế độ, chính sách đối với doanh nghiệp và người lao động trong các DNNN CPH chậm được ban hành, chưa đủ sức hấp dẫn.
- Đối với doanh nghiệp: thể chế quản lý kinh tế vẫn chưa tạo ra sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc nhiều thành phần kinh tế. Vẫn có sự phân biệt đối sử giữa DNNN và các đối thủ cạnh tranh thuộc thành phần kinh tế khác, làm cho các DNNN chuyển sang CTCP bị thiệt thòi. Đó là, các DNNN được hưởng ưu đãi hơn CTCP về mức vay, khoanh nợ và xoá nợ tại ngân hàng thương mại, chưa phải nộp tiền thuê đất. Các DNNN được vay vốn bằng tín chấp của cơ quan Nhà nước còn CTCP phải thế chấp mới được vay. DNNN dễ tiếp cận với các dự án cua rc9 hơn các CTCP... Trên thực tế, chưa có "sân chơi" bình đẳng để các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế hoạt động, đây là một ngăn trở CPH.
- Đối với người lao động trong các công nghiệp CPH, các chính sách ưu đãi tuy đã được ban hành nhưng luôn luôn thay đổi, khắc phuc được mâu thuẫn này lại nẩy sinh mâu thuẫn khác. Trong giai đoạn thí điểm, người lao động tại DNNN CPH được mua chịu cổ phần trả chậm theo nguyên tắc cứ mua bằng tiền
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- LVV162.doc