Trang
LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: TỔNG QUAN CHUNG VỀ VTĐPT 3
1.1 Khái niệm và vai trò của VTĐPT 3
1.1.1 Khái niệm 3
1.1.2 Đặc điểm của VTĐPT 4
1.1.3 Vai trò của VTĐPT 5
1.1.4 Các hình thức của VTĐPT 8
1.1.5 Cơ sở vật chất kĩ thuật trong VTĐPT 11
1.1.5.1 Các phương thức vận tải trong VTĐPT 11
1.1.5.2 Các đầu mối chuyển tiếp và thông tin trong
VTĐPT 14
1.2 Quá trình phát triển của VTĐPT 16
1.2.1 Sự ra đời của ngành vận tải Container 16
1.2.2 Sự ra đời của ngành VTĐPT 17
1.2.3 Sự ra đời của VTĐPT là một quá trình tất yếu trong
sự nghiệp phát triển của ngành vận tải 22
Chương II: Tổ chức chuyên chở hàng hoá bằng
VTĐPT TẠI VIỆT NAM 29
2.1 Lịch sử phát triển của VTĐPT tại Việt Nam 29
2.2 Cơ sở pháp lý của VTĐPT 31
2.2.1 Công ước của LHQ về chuyên chở hàng hoá bằng
VTĐPT quốc tế 33
2.2.2 Quy tắc của UNTAD/ICC về chứng từ VTĐPT 38
2.2.3 Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT 41
2.2.4 Nghị định số 125 của Chính phủ Việt Nam về
VTĐPT quốc tế 46
2.3 Người kinh doanh VTĐPT 47
2.3.1 Định nghĩa 47
2.3.2 Các loại MTO 49
2.4 Chứng từ VTĐPT 50
2.4.1 Định nghĩa 50
2.4.2 Nội dung của chứng từ VTĐPT 51
2.4.3 Các loại chứng từ VTĐPT 52
2.5 Trách nhiệm của MTO 55
2.5.1 Thời hạn trách nhiệm 57
2.5.2 Cơ sở trách nhiệm 57
2.5.3 Giới hạn trách nhiệm 58
2.6 Thông báo tổn thất và khiếu nại 60
2.6.1 Thông báo tổn thất 60
2.6.2 Khiếu nại 60
2.7 Thực trạng áp dụng VTĐPT ở Việt Nam 61
2.7.1 Các hình thức áp dụng VTĐPT ở Việt Nam hiện nay 62
2.7.2 Đối tượng vận chuyển bằng VTĐPT ở Việt Nam 64
2.7.3 Tuyến đường vận chuyển bằng VTĐPT ở Việt Nam 65
2.7.4 Nguyên nhân hạn chế đến sự phát triển của VTĐPT
ở Việt Nam 66
CHƯƠNG III: CÁC GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN
VTĐPT Ở VIỆT NAM 69
3.1 Xu thế hội nhập và phát triển VTĐPT của một số nước
và khu vực trên thế giới 73
3.2 Dự báo về nhu cầu VTĐPT 73
3.2.1 Xu thế phát triển công nghệ VTĐPT trên thế giới 73
3.2.2 Cơ sở khoa học của dự báo 78
3.2.2.1 Thị trường và bạn hàng XNK 78
3.2.2.2 Động thái chuyển dịch cơ cấu thị trường
XNK 1997 – 2002 79
3.2.3 Kết quả dự báo về thị trường vận tải và nhu cầu
VTĐPT đến năm 2020 83
3.3 Định hướng phát triển VTĐPT ở Việt Nam 86
3.3.1 Xây dựng mối liên kết giữa các phương thức
vận tải để thiết lập VTĐPT 87
3.3.2 Xây dựng khu vực phát triển VTĐPT 88
3.4 Các giải pháp nhằm phát triển VTĐPT ở Việt Nam 89
3.4.1 Các giải pháp vĩ mô 89
3.4.2 Các giải pháp vi mô 95
KẾT LUẬN 97
TÀI LIỆU THAM KHẢO
PHỤ LỤC
104 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1250 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại hàng hoá giữa CHDCND Lào và CHXHCN Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ĐPT (ASEAN Agreement Framework on International Multimodal Transport). Vì tính phức tạp của Hiệp định cho nên từ đó đến nay Hiệp định đã qua nhiều lần dự thảo, điểm mấu chốt của Hiệp định là quyền tự do kinh doanh của người kinh doanh VTĐPT ASEAN.
Hiện nay, VTĐPT phát triển không đồng đều giữa các nước ASEAN. ở một số nước như Singapo và Thái Lan, VTĐPT rất phát triển, các nước khác đang trong điều kiện phát triển như Việt Nam, có nước thành viên VTĐPT chưa phát triển, còn mới mẻ vì dịch vụ giao nhận vận tải còn chưa đáp ứng đủ nhu cầu vận chuyển hàng hoá trong nước. Chính vì vậy, các nước thành viên có thái độ khác nhau trong quá trình đàm phán, ký kết Hiệp định. Tuy nhiên, sau khi ra đời chính thức vào 31 tháng 12 năm 2001, Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT đã trở thành một Hiệp định kinh tế đầu tiên của ASEAN có nội dung toàn diện và tính thực tiễn cao. Hiệp định có hiệu lực sẽ góp phần thúc đẩy và tạo thuận lợi cho việc phát triển thương mại và dịch vụ trong khu vực và giữa khu vực với các nước khác trên thế giới.
Hiệp định gồm có 11 chương và 42 điều, cụ thể về các nội dung như: phạm vi áp dụng, chứng từ VTĐPT, trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT, giới hạn trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT, trách nhiệm của người gửi hàng, thời hiệu khiếu kiện.... Hiệp định được xây dựng trên nội dung của Công ước quốc tế về VTĐPT 1980, Hiệp định về VTĐPT của 5 nước Châu Mỹ Latinh (Cartagena Agreement ) ký ngày 4 tháng 3 năm 1993 và thực tiễn kinh doanh VTĐPT ở các nước ASEAN. Hiệp định hình thành nên những quy định thống nhất về mặt pháp lý điều chỉnh mối quan hệ trong VTĐPT giữa các nước ASEAN. Trong đó, nội dung chính là người kinh doanh VTĐPT muốn hoạt động kinh doanh VTĐPT phải đăng ký hợp pháp với cơ quan quốc gia có thẩm quyền của nước mình (điều 29) và phải đáp ứng các điều kiện kinh doanh nhất định (điều 30); khi luật pháp của nước thành viên chưa cho phép tự do kinh doanh VTĐPT thì áp dụng hình thức có đi có lại và các quy định của Hiệp định không ảnh hưởng tới luật quốc gia dành quyền kinh doanh vận tải đơn thức cho các công dân của nước mình (điều 32). Dựa trên quy định chung này, các bên có liên quan trong VTĐPT sẽ quy định cụ thể về quyền hạn và trách nhiệm trong hợp đồng VTĐPT và chứng từ VTĐPT khi thuê chở và chuyên chở hàng hoá.
Mục đích của Hiệp định ngay từ bản thảo chính thức đầu tiên năm 1998 được xem xét tại Thái Lan đã khẳng định:
- Thống nhất trong ASEAN những quy tắc có liên quan tới việc vận chuyển hàng hoá bằng VTĐPT, một phương thức vận tải tiên tiến. Qua đó, đẩy mạnh việc phát triển các dịch vụ VTĐPT một cách thông suốt, kinh tế và hiệu quả.
- Phát triển VTĐPT nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho việc mở rộng thương mại quốc tế giữa các nước thành viên ASEAN cũng như giữa ASEAN với các nước khác.
- Tạo ra sự cân bằng giữa người sử dụng và người cung cấp dịch vụ vận tải quốc tế trong ASEAN.
Hiệp định này được áp dụng cho tất cả những người kinh doanh VTĐPT đã được đăng ký hợp pháp ở một nước thành viên ASEAN. đồng thời, Hiệp định còn áp dụng cho tất cả các hợp đồng VTĐPT nếu có:
+ Nơi người kinh doanh VTĐPT nhận hàng để chuyên chở là một nước thành viên, hoặc
+ Nơi người kinh doanh VTĐPT giao hàng là một địa điểm của nước thành viên.
Có thể nói, đây làm một điểm nổi bật của Hiệp định nhằm xác định quyền kinh doanh của người kinh doanh VTĐPT ASEAN.
Như đã trình bày ở trên, Hiệp định khung ASEAN chủ yếu dựa trên Công ước quốc tế về VTĐPT ký năm 1980, nên phần định nghĩa chủ yếu của Hiệp định không có gì khác nhiều so với Công ước. Tuy nhiên, có một vài định nghĩa cần chú ý sau:
- “Giao hàng”, “được giao hàng”, “Việc giao hàng” được định nghĩa lần lượt như sau:
Việc giao hàng hoá cho người nhận hàng, hoặc
Hàng hoá được đặt dưới sự định đoạt của người nhận hàng phù hợp với quy định của hợp đồng VTĐPT hoặc với luật pháp hoặc với tập quán thương mại cụ thể áp dụng tại nơi giao hàng, hoặc
Việc giao hàng cho một nhà chức trách hoặc một bên thứ ba khác theo luật hoặc thể lệ áp dụng tại nơi giao hàng thì hàng hoá đó phải được giao như vậy.
- “Giấy chứng nhận đăng ký” là chứng từ do cơ quan quốc gia có thẩm quyền cấp, xác nhận người kinh doanh VTĐPT đã được ghi trong sổ đăng ký các nhà kinh doanh VTĐPT và cho phép người đó được hoạt động với tư cách là người kinh doanh VTĐPT.
Các quy định khác về chứng từ VTĐPT, trách nhiệm của MTO thì hầu như không có sự khác biệt nhiều lắm so với các quy định và tập quán quốc tế. Tuy nhiên, đến chương IX, chương nêu cụ thể về MTO, có thể nói đây là chương quan trọng nhất, tốn nhiều thời gian đàm phán nhất vì nó liên quan trực tiếp tới việc tự do hoá trong kinh doanh VTĐPT. Hiệp định đã có những thay đổi phù hợp với trình độ phát triển không đồng đều về giao nhận vận tải nói chung và VTĐPT nói riêng ở các nước thành viên ASEAN. Vì vậy, đối với Việt Nam, khi xây dựng các hệ thống pháp luật điều chỉnh VTĐPT thì việc nghiên cứu kỹ lưỡng về chương này là rất quan trọng.
Điều 29 quy định “MTO ở bất cứ nước thành viên nào đều phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền của nước mình. Cơ quan quốc gia có thẩm quyền sẽ quản lý sổ đăng ký của MTO đã đăng ký hợp lệ”. Quy định như vậy sẽ tăng cường sự quản lý của Nhà nước đối với VTĐPT và xuất phát từ việc bảo vệ quyền lợi của chủ hàng, chống gian lận thương mại, làm cho chủ hàng yên tâm trong quá trình thuê chở.
Điều 30 nêu rõ điều kiện kinh doanh của MTO. Muốn được đăng ký kinh doanh VTĐPT, MTO phải đáp ứng các điều kiện sau:
- Phải có tư cách pháp lý như quy định của nước thành viên cho đăng ký.
- Phải có nơi cư trú ở nước thành viên xin đăng ký.
- Phải có hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm, nhằm đảm bảo về mặt tài chính để thanh toán cho các nghĩa vụ về tổn thất, hư hỏng hoặc giao hàng chậm trễ theo hợp đồng VTĐPT.
- Phải có tài sản tối thiểu tương đương 80.000 SDR hoặc có bảo lãnh tương đương.
Có thể nói, đây là một quy định khá chặt chẽ của Hiệp định. Hơn nữa, trong điều khoản này còn yêu cầu các nước thành viên phải đảm bảo sự minh bạch của các luật lệ và thủ tục hành chính có liên quan tới việc đăng ký và trong vòng 6 tháng kể từ ngày có Hiệp định có hiệu lực, các nước thành viên phải gửi cho Tổng thư ký ASEAN các văn bản đăng ký.
Điều 31 quy định trong vòng 60 ngày kể từ ngày nộp đơn đăng ký, nếu đã đáp ứng các điều kiện của điều 30 thì cơ quan có thẩm quyền sẽ cấp giấy đăng ký hoặc từ chối cấp.
Điều 32 là điều mấu chốt của Hiệp định, nó liên quan tới quyền tự do kinh doanh của MTO và mức độ tự do hoá, mở cửa dịch vụ VTĐPT của nước thành viên. vì vậy, sau nhiều lần đàm phán các nước ASEAN đã đi đến thỏa thuận có thể chấp nhận được theo điều kiện của từng nước. điều 32 quy định:
- Việc đăng ký kinh doanh với cơ quan quốc gia có thẩm quyền của bất cứ nước thành viên nào cho phép người kinh doanh VTĐPT được hoạt động kinh doanh ở bất cứ nước thành viên khác miễn là đáp ứng được các yêu cầu nêu trong đoạn 4b của điều khoản này.
- Trong thời gian thực hiện được khoản 1 điều này, các nước thành viên có thể cho phép người kinh doanh VTĐPT đã đăng ký với cơ quan quốc gia có thẩm quyền của bất cứ nước thành viên khác được kinh doanh trên lãnh thổ của nước mình trên cơ sở có đi có lại.
- Chậm nhất là 6 tháng sau khi Hiệp định này có hiệu lực, các nước thành viên chưa có khả năng thực hiện được khoản 1 của điều này sẽ phải thông báo cho Tổng thư ký ASEAN, đồng thời phải thông báo cả lý do được và Tổng thư ký ASEAN sẽ báo cho mỗi nước thành viên về sự thông báo đó.
- Đối với các nước thành viên ASEAN mà luật lệ cho phép như đã nêu trong khoản 1 của điều này thì:
+ Việc cho phép sẽ có hiệu lực cho tới khi nào cơ quan quốc gia có thẩm quyền gửi thông báo chính thức bằng văn bản cho người kinh doanh VTĐPT về việc ngừng hoặc huỷ bỏ việc đăng ký.
+ Để người kinh doanh VTĐPT đã đăng ký ở một nước thành viên hoạt động kinh doanh ở các nước thành viên khác, người đó sẽ phải cung cấp một bản sao giấy chứng nhận đăng ký đã được cơ quan quốc gia có thẩm quyền của nước mình cấp một cách hợp lệ cho cơ quan có thẩm quyền của nước thành viên khác mà ở đó người kinh doanh VTĐPT có đại diện pháp lý như qua hợp đồng đại lý hay văn phòng chi nhánh.
+ Các quy định trong điều này không ảnh hưởng tới luật lệ của các nước thành viên ASEAN mà luật lệ này giảm quyền kinh doanh vận tải đơn phương thức cho các công dân của mình.
Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT là một bước tiến mới trong hợp tác giao thông vận tải giữa các nước ASEAN. Đây là một văn bản pháp lý khung khu vực giúp cho việc phát triển VTĐPT nói riêng và vận tải nói chung. Nó thể hiện được xu hướng tự do hoá dịch vụ vận tải nhằm thúc đẩy sự tăng trưởng về thương mại và đầu tư trong khu vực và nối kết với các nước ngoài khu vực.
Nghị định số 125 của chính phủ Việt Nam về VTĐPT quốc tế
Ngày 29 tháng 10 năm 2003, một nghị định của chính phủ Việt Nam về VTĐPT quốc tế đã ra đời nhằm thúc đẩy sự phát triển của VTĐPT Việt Nam cũng như thực hiện mọi cố gắng chuẩn bị về mặt luật pháp để Việt Nam tham gia vào Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT.
Có thể nói, nghị định thể hiện khá đầy đủ tinh thần và nội dung của Công ước quốc tế về VTĐPT, với những quy định về chứng từ VTĐPT và trách nhiệm của MTO. Tuy nhiên, nghị định trên cơ sở điều chỉnh các mối quan hệ pháp lý phát sinh từ hợp đồng giữa người gửi, MTO và người nhận hàng, cũng như là đối với MTO của nước ngoài kinh doanh VTĐPT ở Việt Nam, đã có xây dựng một số điều khoản cần lưu ý như sau:
- Về phạm vi điều chỉnh: nghị định sẽ quy định hoạt động VTĐPT quốc tế của mọi tổ chức, cá nhân Việt Nam; tổ chức, cá nhân nước ngoài đầu tư tại Việt Nam và doanh nghiệp nước ngoài đăng kí kinh doanh VTĐPT quốc tế theo luật Việt Nam.(điều 1)
- Về cơ quan quản lý VTĐPT quốc tế ở Việt Nam: Bộ GTVT là cơ quan chính thức thực hiện chức năng quản lý, là đầu mối giúp chính phủ điều phối hoạt động liên ngành hướng dẫn thực hiện quy định liên quan đến VTĐPT. (điều 4)
Để kinh doanh VTĐPT tại Việt Nam, các cá nhân tổ chức đều phải đăng ký với cơ quan có thẩm quyền để có được Giấy phép kinh doanh VTĐPT hoặc Giấy phép đầu tư trong lĩnh vực kinh doanh VTĐPT. Điều 31 quy định :”các cá nhân, tổ chức kinh doanh VTĐPT phải làm thủ tục để cấp Giấy phép kinh doanh VTĐPT trong vòng 90 ngày, kể từ ngày Nghị định này có hiệu lực” (tức là ngày 1 tháng 1 năm 2004). Nghị định nêu rõ các điều kiện để doanh nghiệp Việt Nam cần có để kinh doanh VTĐPT đồng thời để đẩy mạnh các mối quan hệ kinh tế trong qúa trình hội nhập, chính phủ cũng có những quy định cho phép những tổ chức cá nhân kinh doanh VTĐPT khi họ là doanh nghiệp của nước thành viên ASEAN đã ký kết Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT, hoặc là nước đã ký kết Hiệp định song phương, đa phương với Việt Nam về VTĐPT.
Các quy định khác về trách nhiệm của MTO, về thời hạn khiếu nại và thời hiệu khởi kiện, Nghị định đều dựa trên tinh thần những quy định đã soạnthảo của Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT.
Đây chính là những biện pháp của chính phủ nhằm kiểm soát các doanh nghiệp kinh doanh phương thức vận tải này tại Việt Nam. Một mặt, giúp các doanh nghiệp Việt Nam khi còn bỡ ngỡ với những luật lệ hoặc quy tắc quốc tế về hình thức vận tải còn mới mẻ này có nhiều cơ hội giao lưu học hỏi kinh nghiệm ở các nước đã có những bước phát triển mạnh mẽ về vận tải. Mặt khác, nó giúp Việt Nam thể hiện tinh thần hợp tác và sự nhiệt thành trong vấn đề gia nhập Hiệp định khung về VTĐPT của ASEAN.
Tuy hiện nay, Nghị định này vẫn chưa có hiệu lực thi hành (hiệu lực thi hành là ngày 1 tháng 1 năm 2004) nhưng hi vọng là khi chính thức có hiệu lực, Nghị định sẽ góp phần thúc đẩy nền vận tải Việt Nam nói chung và VTĐPT quốc tế tại Việt Nam nói riêng ngày càng phát triển.
Người kinh doanh vận tải đa phương thức (MTO)
2.3.1 Định nghĩa
Trong VTĐPT chỉ có một người duy nhất chịu trách nhiệm về hàng hoá trong suốt quá trình chuyên chở, đó chính là người kinh doanh VTĐPT (Multimodal Transport Operator – MTO ). Trong quá trình thực hiện VTĐPT, xác định một cách chính xác thế nào là một MTO, trách nhiệm của họ đối với những mất mát, hư hỏng của hàng hoá hay đối với những hành vi thiếu sót của người làm công, đại lý, người chuyên chở thực tế mà họ sử dụng là điều rất quan trọng. Trong quá trình nghiên cứu và tự tìm hiểu, người viết xin được trình bày một số định nghĩa và phân loại các MTO để phần nào làm rõ thêm về một chủ thể của loại hình vận tải đang ngày càng phát triển trên thế giới này.
Theo Công ước của Liên hợp quốc về VTĐPT, MTO được định nghĩa như sau:”Người kinh doanh VTĐPT là bất kỳ người nào tự mình hoặc qua một người khác thay mặt cho mình, ký một hợp đồng vận tải đa phương thức và hoạt động như là một người uỷ thác chứ không phải là một người đại lý hoặc người thay mặt người gửi hàng hay những người chuyên chở tham gia công việc vận tải đa phương thức, và đảm nhận trách nhiệm thực hiện hợp đồng”. Dù Công ước này hiện nay vẫn chưa được nước nào áp dụng nhưng các điều khoản của Công ước vẫn là các cơ sở để các quốc gia áp dụng và đưa vào luật lệ của nước mình về VTĐPT. Và các điều khoản về MTO cũng là một trong những điều khoản đó.
Trong quy tắc về chứng từ VTĐPT của Hội nghị Liên hợp quốc tế về buôn bán và phát triển, Phòng Thương mại quốc tế định nghĩa MTO một cách ngắn gọn hơn như sau: “ Người kinh doanh VTĐPT là bất kỳ người nào ký một hợp đồng VTĐPT và nhận trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó như là một người chuyên chở ” đồng thời cũng định nghĩa về người chuyên chở như sau:”Người chuyên chở là người thực sự thực hiện hoặc cam kết thực hiện việc chuyên chở hoặc một phần chuyên chở, dù người này với người kinh doanh VTĐPT có là một hay không”. Như vậy, MTO theo định nghĩa đầu có thể là người chuyên chở, nhưng người chuyên chở chưa chắc là MTO. điều quan trọng ở đây chính là dù MTO có là người chuyên chở hàng hoá hay không thì trách nhiệm thực hiện hợp đồng bao giờ cũng phải do MTO đảm nhận, như vậy tinh thần của bản quy tắc này về định nghĩa MTO trong Công ước của Liên hợp quốc là không có gì thay đổi.
Tuy nhiên trong Hiệp định khung ASEAN về VTĐPT, MTO lại được định nghĩa như sau: “Người kinh doanh vận tải đa phương thức là bất kỳ người nào, nhân danh bản thân mình hoặc thông qua người khác thay mặt mình ký kết một hợp đồng vận tải đa phương thức, chịu trách nhiệm thực hiện hợp đồng đó với tư cách là một người chủ chứ không phải là một đại lý, hoặc với tư cách thay mặt người gửi hàng hoặc thay mặt những người chuyên chở tham gia vào các hoạt động thực hiện vận tải đa phương thức”. Đây là bản Hiệp định mà Việt Nam đã dự định tham gia nhằm đáp ứng xu hướng toàn cầu hoá, khu vực hoá về kinh tế nói chung và về giao thông vận tải nói riêng. Chính vì vậy, định nghĩa này cũng chính là cơ sở cho định nghĩa về MTO mà Nghị định 125 của Chính phủ về VTĐPT quốc tế quy định.
2.3.2 Các loại MTO
Trên thế giới, do nhu cầu về vận tải ngày càng lớn, kinh doanh VTĐPT đem lại nhiều nguồn lợi cũng như có giá trị vận tải cao, nhiều loại MTO vì đó mà hình thành. Tuy nhiên, tựu trung lại, MTO chủ yếu là hoạt động dưới những dạng sau:
- MTO có tàu (Vessel Operating Multimodal Transport Operator – VO – MTOs) bao gồm các chủ tàu biển, kinh doanh khai thác tàu biển, nhưng mở rộng kinh doanh cả dịch vụ VTĐPT. Các chủ tàu này thường không sở hữu và khai thác các phương tiện giao thông vận tải đường bộ, đường sắt và hàng không mà phải ký hợp đồng để chuyên chở trên các chặng đó nhằm hoàn thành hợp đồng VTĐPT.
- MTO không có tàu (Non Vessel Operating Multimodal Transport Operator – NVO – MTOs) gồm có:
+ Chủ sở hữu một trong các phương tiện vận tải khác không phải tàu biển như ô tô, máy bay, tàu hoả. Họ cung cấp dịch vụ VTĐPT, do đó phải đi thuê các loại phương tiện vận tải nào mà họ không có.
+ Những người kinh doanh dịch vụ liên quan đến vận tải như bốc dỡ, kho hàng, bến bãi.
+ Những người chuyên chở công cộng không có tàu, những người này không kinh doanh tàu biển nhưng lại cung cấp dịch vụ VTĐPT thường xuyên, kể cả việc gom hàng trên những tuyến đường nhất định, loại MTO này rất phổ biến ở Mỹ.
+ Người giao nhận: hiện nay, người giao nhận có xu thế không chỉ làm đại lý mà còn cung cấp dịch vụ vận tải, đặc biệt là VTĐPT. Phương thức này thích hợp với các nước đang phát triển như Việt Nam vì không đòi hỏi phải tập trung một lượng vốn lớn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cũng như các trang thiết bị hiện đại phục vụ trong chuyên chở hàng hoá. Điều này cũng có nghĩa là khả năng đáp ứng các nhu cầu của khách hàng sẽ được tăng lên do có thể tập trung nguồn vốn và thời gian thực hiện các dịch vụ vận tải.
2.4 Chứng từ VTĐPT:
2.4.1 Định nghĩa về chứng từ VTĐPT:
Sau khi nhận hàng để chở, trách nhiệm của người điều kiện VTĐPT theo yêu cầu của người gửi hàng cấp cho họ một bộ chứng từ VTĐPT ở dạng lưu thông được hoặc không lưu thông được. Vì vậy, một vấn đề hết sức quan trọng trong VTĐPT chính là chứng từ VTĐPT. Trong tất cả các văn bản pháp lý có liên quan đều có đề cập rất chi tiết đến vấn đề này, và tinh thần của tất cả các văn bản đó là phải tạo điều kiện để đơn giản hóa chứng từ, tạo thuận lợi về thủ tục hải quan. Định nghĩa về chứng từ VTĐPT trong Công ước của Liên hợp quốc được trình bày như sau:”chứng từ VTĐPT là một chứng từ làm bằng chứng cho một hợp đồng vận tải đa phương thức, cho việc nhận hàng để chở của người kinh doanh vận tải đa phương thức và cam kết của anh ta giao hàng theo đúng những điều khoản của hợp đồng”.
Khác với Công ước của Liên hợp quốc, quy tắc của UNTAD/ICC quy định chứng từ VTĐPT như sau:”chứng từ VTĐPT là chứng từ chứng minh cho một hợp đồng VTĐPT và có thể được thay thế bởi một thư truyền dữ liệu điện tử, như luật pháp áp dụng cho phép và có hình thức:
có thể lưu thông được
không thể lưu thông, có ghi rõ tên người nhận.”
Như vậy, theo quy tắc, chứng từ VTĐPT có thể được thay thế bằng một thư truyền dữ liệu điện tử- một phương tiện thông tin hiện đại ngày nay, có thể được lưu thông hoặc không thể lưu thông, có ghi rõ họ tên người nhận. Với định nghĩa này, việc sử dụng chứng từ VTĐPT được đơn giản hoá và thuận lợi hơn rất nhiều, mặt khác lại đảm bảo về mặt lợi ích của VTĐPT là tiết kiệm và hiệu quả cả về mặt kinh tế và về mặt dịch vụ vận tải, nó giúp cho quá trình ký kết diễn ra nhanh hơn với chi phí thấp hơn, đem lại lợi nhuận nhanh hơn các phương tiện vận tải khác.
Hiệp định khung ASEAN quy định chứng từ vận tải cũng trên cơ sở hai văn bản pháp lý trên “chứng từ vận tải đa phương thức là một chứng từ làm bằng chứng của một hợp đồng vận tải đa phương thức, xác nhận người kinh doanh vận tải đa phương thức đã nhận hàng và cam kết giao hàng đó theo đúng các điều khoản của hợp đồng đã ký kết”.
Điều mà cả ba văn bản pháp lý trên có điểm tương đồng là ở hình thức của chứng từ VTĐPT. Cả ba đều khẳng định sự lưu thông được của chứng từ VTĐPT là phải đáp ứng đủ các điều kiện sau:
+ nó được lập theo lệnh hay cho người cầm chứng từ;
+ nếu được lập theo lệnh, nó sẽ chuyển nhượng được bằng ký hậu;
+ nếu lập cho người cầm chứng từ, nó chuyển nhượng được mà không cần ký hậu;
+ nếu cấp một bộ nhiều bản gốc phải ghi rõ số bản gốc trong bộ;
+ nếu cấp các bản sao, mỗi bản sao sẽ ghi “không lưu thông được”
2.4.2 Nội dung của chứng từ VTĐPT:
Theo điều 8 của Công ước của Liên hợp quốc về VTĐPT, chứng từ VTĐPT nhìn chung có những nội dung sau:
- Tính chất chung của hàng; ký mã hiệu cần thiết để nhận dạng hàng hoá, một sự kê khai rõ ràng về tính chất nguy hiểm của hàng hoá, nếu có, số kiện, chiếc, trọng lượng cả bì, số lượng, tất cả các chi tiết đó do người gửi hàng cung cấp.
- Tình trạng bên ngoài của hàng hoá;
- Tên và địa điểm kinh doanh chính của người kinh doanh VTĐPT;
- Tên người gửi hàng;
- Tên người nhận hàng, nếu được người gửi hàng chỉ định;
- Địa điểm và ngày mà người kinh doanh VTĐPT nhận hàng để chở;
- Địa điểm giao hàng;
- Ngày hay thời hạn giao hàng ở địa điểm giao, nếu được thoả thuận rõ ràng giữa các bên;
- Nói rõ chứng từ VTĐPT lưu thông được hay không lưu thông được;
- Nơi và ngày cấp chứng từ VTĐPT;
- Chữ ký của người kinh doanh VTĐPT hoặc người được anh ta uỷ quyền;
- Tiền cước cho mỗi phương thức vận tải, nếu có thoả thuận rõ ràng giữa các bên, hoặc tiền cước kể cả loại tiền ở mức người nhận hàng phải trả, hoặc chỉ dẫn nào khác nói lên tiền cước do người nhận hàng trả;
- Hành trình dự kiến, các phương thức vận tải và các địa điểm chuyển tải, nếu đã biết khi cấp chứng từ VTĐPT
- Lời tuyên bố nói về việc áp dụng Công ước
- Bất cứ chi tiết nào khác mà các bên còn có thể thoả thuận với nhau và ghi vào chứng từ VTĐPT, nếu không trái với pháp luật của nước nơi chứng từ vận tải đa phương thức được cấp;
Mặt khác, việc thiếu một hay nhiều chi tiết nói trên trong chứng từ VTĐPT không ảnh hưởng đến tính chất pháp lý của chứng từ như là một chứng từ VTĐPT miễn là nó đáp ứng được những yêu cầu đề ra.
Có thể nhận thấy rằng, nội dung của chứng từ VTĐPT là một yếu tố hết sức quan trọng. Việc nêu rõ chi tiết về nội dung của chứng từ, kê khai đầy đủ, ghi chép chính xác các nội dung của nó đều hoàn toàn thuộc trách nhiệm của người kinh doanh VTĐPT. Đồng thời đây cũng chính là một trong những yếu tố gây tranh cãi và phát sinh tranh chấp nhiều nhất giữa các chủ thể của hợp đồng vận tải.
2.4.3 Các loại chứng từ VTĐPT
Hiện nay trên thế giới chưa có một mẫu chứng từ chung về VTĐPT do Công ước của Liên hợp quốc về chuyên chở hàng hoá bằng VTĐPT ký ngày 5 tháng 10 năm 1980 vẫn chưa có hiệu lực. Song dựa vào bản quy tắc về chứng từ VTĐPT của UNTAD/ICC, nhiều tổ chức quốc tế về vận tải, giao nhận cũng đã soạn thảo một số mẫu chứng từ để sử dụng trong kinh doanh. Sau đây là một số mẫu chứng từ VTĐPT thường gặp:
Vận đơn FIATA (FIATA Negotiable Multimodal Transport Bill of Lading - FBL)
Đây là một loại vận đơn đi suốt do Liên đoàn quốc tế các hiệp hội giao nhận FIATA soạn thảo để cho các hội viên của Liên đoàn sử dụng trong kinh doanh VTĐPT. Loại vận đơn này đang được sử dụng rộng rãi. FBL là chứng từ có thể lưu thông và được các ngân hàng chấp nhận thanh toán. FBL có thể dùng trong vận đơn đường biển.
Chứng từ vận tải liên hợp (COMBIDOC – Combined transport document)
Đây là loại chứng từ do BIMCO soạn thảo để cho người kinh doanh VTĐPT có tàu biển (VO – MTOs )sử dụng. Chứng từ này đã được Phòng thương mại quốc tế chấp nhận và thông qua.
Chứng từ VTĐPT (MULTIDOC – Multimodal Transport Document)
MULTIDOC là loại chứng từ do Hội nghị của Liên hợp quốc về buôn bán và phát triển soạn thảo trên cơ sở Công ước của Liên hợp quốc về VTĐPT. Do Công ước chưa có hiệu lực nên chứng từ này hiện nay cũng ít được sử dụng.
d. Chứng từ vừa dùng cho vận tải liên hợp vừa dùng cho vận tải đường biển (Bill of Lading for Combined Transport Shipment or port to port Shipment)
Đây là loại chứng từ do các hãng tàu phát hành để mở rộng kinh doanh sang các phương thức vận tải khác nếu khách hàng cần.
áp dụng VTĐPT đã cho thấy sự kết hợp đồng đều giữa các khâu trong vận tải, đó là một hình thức xuyên suốt nhiều phương thức vận tải khác nhau như tàu, xe lửa, xe tải, máy bay...Từ đó cho thấy VTĐPT có thể thay đổi một cách vô hạn sự phối hợp giữa các phương thức vận tải khác nhau đó. Như vậy, chứng từ về vận tải cũng phải từng lúc thay đổi, có khi chỉ là một biên nhận đơn giản để làm bằng. Tuy nhiên, có những lúc chứng từ cấp phát bởi người điều hành VTĐPT theo yêu cầu của chủ hàng (hoặc người gửi hàng), có thể lưu thông được giống như B/L. Thực ra, đặc tính của một hối phiếu chứng từ chỉ có thể đưa vào một trong những hợp đồng tư nhân, mà phải thừa nhận bằng luật pháp. Nó đòi hỏi, chứng từ cần có sự thống nhất giữa đặc tính của vận đơn, của giấy gửi hàng trong luật lệ hiện nay. Công ước của Liên hợp quốc về VTĐPT nói trên quy định cách cấp một chứng từ VTĐPT và tác dụng của nó cũng một mặt nào đó ảnh hưởng tới quá trình áp dụng trong thực tiễn. Công ước có quy định: khi hàng hoá được người kinh doanh VTĐPT đảm nhận, anh ta phải cấp một chứng từ VTĐPT mà theo sự chọn lựa của người gửi hàng (Consignor) là có thể lưu thông được. Đồng thời, một chứng từ VTĐPT lưu thông được cũng được quy định như sau:
Nó là chứng từ:
- Được lập theo lệnh hoặc cho người giữ;
- Nếu được lập theo lệnh, sẽ có giá trị chuyển nhượng bằng cách ký hậu (Endorsement);
- Nếu được lập cho người giữ, sẽ có giá trị chuyển nhượng mà không cần ký hậu;
- Nếu được cấp thành bộ có nhiều bản gốc, phải ghi số bản gốc trên bộ chứng từ. Nếu cấp bất kỳ bản sao nào, mỗi bản phải được đánh dấu “bản không lưu thông được ” (non-negotiable copy).
Người kinh doanh VTĐPT hoặc người đại diện cho mình chỉ có thể giao hàng khi nhận được chứng từ VTĐPT lưu thông được hoặc ký hậu đúng quy định khi cần. Lúc đó, người kinh doanh VTĐPT sẽ hết trách nhiệm giao hàng. Nếu khi chứng từ VTĐPT lưu thông được cấp thành một bộ nhiều bản gốc, người này hoặc người đại diện để giao hàng của mình sẽ giao hàng khi đã nhận được một trong những bản gốc đáng tin cậy như vậy.
Như vậy, khi một chứng từ VTĐPT được tạo ra theo các quy định của Công ước là có thể lưu thông được, chuyển nhượng được, nhưng sự ứng dụng của nó trên thực tế cần phải tiến hành trong một thời gian đủ dài để dần có thể được chấp nhận trong ngành vận tải. Cụ th
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- KhoaLuan.doc