MỤC LỤC
LỜI NÓI ĐẦU 2
TÓM TẮT i
PHẦN I. ĐẶC ĐIỂM CỦA CÁC HỘ NGHÈO Ở VIỆT NAM 3
1. Các đặc điểm về lao động và việc làm 3
2. Các đặc điểm về nhân khẩu học 4
3. Nguy cơ dễ bị tổn thương và sự cô lập 5
PHẦN II. THỰC TRẠNG VẤN ĐỀ ĐÓI NGHÈO TẠI VIỆT NAM 7
I. Tác động của đói nghèo 7
1. Tác động của đói nghèo đến việc đi học 7
2. Tác động của đói nghèo đến dinh dưỡng của trẻ em 8
II. Những thành tựu đạt được trong công cuộc xoá nghèo đói tại Việt Nam 9
1. Chương trình đổi mới của Việt Nam 9
2. Về dịch vụ cơ sở hạ tầng 10
3. Về cấu hình tăng trưởng và việc làm 11
PHẦN III. GIẢI PHÁP NHẰM XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở VIỆT NAM TRONG GIAI ĐOẠN 2002-2010 13
I. Nâng cao năng lực con người 14
1. Nâng cao chất lượng các dịch vụ xã hội 14
2. Bảo đảm khả năng tiếp cận bình đẳng cho tất cả các nhóm dân cư 17
3. Nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng thông tin và công nghệ thông tin 17
4. Tăng mức đầu tư công vào những lĩnh vực xã hội và đa dạng hoá nhiều
nguồn quĩ mới 17
5. Tạo ra vai trò thích hợp cho khu vực quốc doanh 18
II. Cơ sở hạ tầng vật chất 18
III. Cải thiện hệ thống môi trường 19
1. Về tài nguyên rừng 19
2. Về tài nguyên nước 20
IV. chuyển đổi nền kinh tế nông thôn 21
1. Thâm canh tăng năng suất nông nghiệp 21
2. Đa dạng hoá sản xuất nông nghiệp 21
V. Khuôn khổ kinh tế để tăng trưởng và giảm nghèo 22
LỜI KẾT 24
TÀI LIỆU THAM KHẢO 25
25 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1705 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp nhằm xóa nghèo đói ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhiều hơn so với khu vực thành thị nhưng đều giảm nhanh như nhau ở cả hai khu vực. Mặc dù suy dinh dưỡng ở trẻ em vẫn giảm nhanh chóng nhưng tỷ lệ suy dinh dưỡng ở Việt Nam cũng không thấp hơn mức dự kiến thông qua kinh nghiệm của các nước có điều kiện tương tự.
II. Những thành tựu đã đạt được trong công cuộc xoá nghèo đói ở Việt Nam.
1. Chương trình đổi mới của Việt Nam.
- Cải cách trong lĩnh vực nông nghiệp: chương trình đổi mới của Việt Nam được bắt đầu từ nông nghiệp. Vào năm 1988 các hợp tác xã được giải thể và đất được chia cho các hộ nông dân. Luật đất đai ban hành năm 1993 đã nêu rõ nông dân có quyền sử dụng đất được cấp trong 20 năm và sau đó quyền sử dụng đất này có thể sẽ được kéo dài thêm. Nông dân có quyền chuyển nhượng hoặc thế chấp quyền sử dụng đất.
- Cải cách về giá: Cuộc cải cách về giá cả tiền hành từ năm 1989 cũng có ý nghĩa quan trọng ngang với cải cách về quyền sử dụng đất. Kiểm soát giá cả của hầu hết hàng hoá và dịch vụ đều được bãi bỏ.
- Cải cách về kinh tế vĩ mô: Những biện pháp mạnh để tháo gỡ những vấn đề về kinh tế vĩ mô đã được đưa ra vào năm 1989. Trợ cấp ngân sách cho sản xuất và tiêu dùng được bãi bỏ. đồng thời lãi suất cho các doanh nghiệp Nhà nước được nâng lên cao hơn so với mức lạm phát. Ngân hàng Nhà nước cũng nỗ lực kiểm soát sự gia tăng của tín dụng trong nửa đầu năm 1989. cho tới năm 1991, tín dụng không còn được coi là nguồn thu tài chính cho ngân sách nữa.
- Tăng cường hội nhập với nền kinh tế thế giới: Trong tiến trình đổi mới, Việt Nam đã mở cửa nền kinh tế của mình để gia nhập nền kinh tế thế giới. Việt Nam thực hiện thống nhất hệ thống nhiều tỷ giá hối đoái vào năm 1989. tỷ giá hối đoái được chính thức phá giá từ 900 đồng/ USD thành 5000 đồng/ USD tức đúng bằng tỷ giá chợ đen tại thời điểm đó. Những cải cách về mặt cơ cấu trong ngoại thương và đầu tư cũng đã bổ sung cho những chính sách khác mặc dù thực tế trong lĩnh vực này Việt Nam chỉ đi những bước đi rất dặt dè theo hướng tự do hoá và cho tới nay vẫn còn rất nhiều hàng rào đang tồn tại.
- Cải cách khu vực tài chính: Để ổn định nền kinh tế của mình, Việt Nam giảm mức thâm hụt ngân sách và sự gia tăng tín dụng đến mức có thể quản lý được. Tuy nhiên, đất nước vẫn còn thiếu một nền tảng mang tính thể chế nhằm đảm bảo cho sự quản lý có hiệu lực và bền vững của ngành tài chính ngân hàng.
- Cải cách doanh nghiệp Nhà nước : Vào đầu thập niên 1990, phần ngân sách dành cho khu vực quốc doanh bị thắt chặt. Trợ cấp tài chính được cắt giảm và tiến tới xoá bỏ; các khoản vay cho các doanh nghiệp Nhà nước được kiểm soát kỹ càng hơn và tính lãi suất phù hợp. Thắt chặt ngân sách đã tạo ra một sự cải tổ lớn trong khu vực này.
Theo ước tính vào giữa những năm 1980, cứ mười người dân Việt Nam thì có bảy người sống trong tình trạng đói nghèo. Và sau hơn một thập niên - thập niên của tăng trưởng kình tế nhanh- tỷ lệ nghèo đói giảm xuống một nửa. Trong thời kỳ 1993-1998, tỷ lệ nghèo đói ở Việt Nam đã giảm xuống một cách nhanh chóng. Số người có chi tiêu bình quân đầu người thấp hơn mức nghèo đói đã giảm mạnh từ 58% năm 1993 xuống 37% năm 1998. Số người sống dưới ngưỡng nghèo lương thực thực phẩm đã giảm xuống từ 25% xuống còn 15%. Dù tỷ lệ nghèo của Việt Nam vẫn còn cao nhưng những cải thiện tình trạng nghèo chỉ trong vòng 5 năm thực sự đã gây nhiều ấn tượng. Những năm gần đây hầu như không nước nào đạt được những kỷ lục giảm nghèo đói nhanh trong một thời gian ngắn như vậy.
Những thành tựu lớn trong việc giảm nghèo là kết quả của việc tăng chi tiêu bình quân đầu người, nhìn chung chi tiêu bình quân đầu người đã tăng 41% trong thời kỳ 1993-1998. Tuy nhiên những thành tựu này không chỉ bị hạn chế bởi sự tăng nhanh của chi tiêu đầu người. Các chi tiêu về phát triển con người, khả năng được sử dụng cơ sở hạ tầng, và sở hữu các hàng hoá lâu bền đã khẳng định sự cải thiện mức sống trong thời kỳ 1993-1998:
Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh tiểu học đối với cả nam và nữ vốn đã cao, lại được cải thiện hơn nữa – tăng từ 87% lên 91% đối với nữ và từ 86% lên 92% đối với nam;
Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh trung học cơ sở đối với cả nam và nữ đã tăng gấp đỗi và hiện nay là 61% đối với nữ và 62% đối với nam. Năm 1990 số trẻ em nhập học vào các trường trung học cơ sở giảm xuống 2,7 triệu, nhưng đến nay con số này đã là 5 triệu;
Tỷ lệ đi học đúng tuổi của học sinh phổ thông trung học đối với cả nam và nữ đều đã tăng mạnh – tỷ lệ này đã tăng từ 6% đến 27% đối với nữ và 8% đến 30% đối với nam;
Tình trạng suy dinh dưỡng đối với trẻ em trai và gái dưới 5 tuổi vẫn còn cao, song đã giảm từ 1/2 xuống còn 1/3 tổng số trẻ em.
Khả năng tiếp cận các cơ sở hạ tầng – như các trạm y tế, nước sạch và điện- đã được cải thiện.
Sở hữu các hàng hoá lâu bền – như đài, vô tuyến, xe đạp – cũng đã tăng lên. Năm 1998, 47% số hộ gia đình có đài, 58% có vô tuyến và 76% có xe đạp.
2. Về dịch vụ cơ sở hạ tầng.
Dịch vụ cơ sở hạ tầng phát triển mạnh mẽ trong những năm 90 đã đóng góp vào sự tăng trưởng nhanh, vào hoạt động ngoại thương và công cuộc giảm nghèo ở Việt Nam trong thời kỳ này. Trong lĩnh vực giao thông vận tải, khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường bộ và đường sắt đã tăng hơn hai lần, bằng đường thuỷ nội bộ tăng 70% và bằng đường biển tăng gấp 6 lần, đã vượt khối lượng hàng hoá chuyên chở bằng đường sắt. trong lính vực năng lượng, công suất phát điện đã tăng gần 3 lần và khai thác dầu thô tăng gấp 5,5 lần. Tỷ lệ dân có khả năng tiếp cận với điện tăng từ 47% lên 75%, trong khi đó dầu thô trở thành hàng hoá xuất khẩu chủ lực, chiếm tới 1/5 nguồn thu ngoài tệ của đất nước. Chi tiêu công tăng và cải cách thể chế đã làm tăng đáng kể các dịch vụ cơ sở hạ tầng.
3. Về cấu hình tăng trưởng và việc làm
Từ năm 1992 đến năm 1998, tốc độ tăng trưởng GDP trung bình hàng năm ở Việt Nam đạt mức cao 8,4%. Tất cả các ngành đều đạt giá trị gia tăng khá lớn mặc dù tốc độ khác nhau: tổng sản phẩm quốc nội của nông nghiệp tang 8,4%, công nghiệp tăng 13% và dịch vụ được ghi nhận tăng 8,3%. Trong cùng thời gian đó, số lượng việc làm tăng 1,8%/ năm. Cũng như tốc độ tăng trưởng, việc làm trong các ngành cũng khác nhau: trong nông nghiệp chỉ tang 0,4%/ năm; trong công nghiệp tăng 4%/ năm và dịch vụ tăng gần 6%/ năm. trong những năm qua các ngành dịch vụ tạo thêm nhiều việc làm nhất: 56% tổng số việc làm mới; 27% là trong công nghiệp và chỉ có 17% trong nông nghiệp.
Bảng 5. Tốc độ tăng tổng sản lượng và việc làm ở Việt Nam, 1992-1998.
Nông nghiệp
Công nghiệp
Dịch vụ
Tất cả các ngành
GDP
Tóc độ tăng trưởng trung bình thực tế 1992-1998
4,5
13
8,3
8,4
Việc làm
Tốc độ tăng trưởng trung bình thực tế 1993-1998
0,4
4,0
5,7
1,8
Phân bổ số lao động tăng thêm 1993-1998
16,7
27,0
56,3
100,0
ở Việt Nam làm công ăn lương là hình thức lao động chính của khoảng 20% tổng số lao động. Lao động làm công ăn lương đã tăng thêm 3,5% hàng năm trong giai đoạn 1993-1998. Nhờ đó nó tạo thêm được tổng cộng 1,6 triệu việc làm trong 5 năm đó. Trong số này, khoảng 1 triệu việc làm là trong các ngành dịch vụ và 600.000 việc làm còn lại là ngành công nghiệp. Những việc làm trong khu vực chính thức ở khu vực thành phố đã tăng 3,7% mỗi năm. Trong tổng số lao động làm công ăn lương, 40% thuộc khu vực nhà nước, 60% còn lại thuộc khu vực tư nhân. Việc làm trong khu vực chính thức thường là những công việc đem lại thu nhập cao và nhiều phụ cấp khác nhất trong cả nền kinh tế. Tỷ lệ thất nghiệp hữu hình ở Việt Nam đã giảm trong thời kỳ 1993-1998.
Bảng 6. Tỷ lệ thất nghiệp ở Việt Nam theo vùng và theo giới tính, 1993-1998
1993
1998
Việt Nam
3.7
2.2
Theo vùng
Nông thôn
2.6
1.4
Thành thị
7.7
5.4
Thất nghiệp ở thành thị theo giới tính
Nam
9.0
6.2
Nữ
6.4
4.5
Phần III.
Những giải pháp nhằm xoá nghèo đói ở Việt Nam trong giai đoạn 2002-2010
Trong những năm qua, công cuộc giảm nghèo đói của Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể song nghèo đói vẫn còn tồn tại trên cả diện rộng và bề sâu; bởi vậy trong năm, mười năm tới đây còn rất nhiều việc phải làm.
Trước hết mở ra cơ hội tạo việc làm và nâng cao năng suất lao động để từ đó góp phần tăng thu nhập và giúp người nghèo vượt qua khỏi nghèo đói.
Thứ hai, phải có biện pháp để đảm bảo ích lợi của tăng trưởng và khả năng tiếp cận các dịch vụ một cách khách quan và công bằng; nhờ vậy mọi công dân đều được hưởng thành quả do sự phát triển mang lại.
Thứ ba, cần đặc biệt chú ý giảm bớt nguy cơ dễ bị tổn thương của người nghèo trước sự bất trắc trong đời sống như ốm đau, mùa màng thất bát, mất đi người kiếm tiền nuôi gia đình…
Kết hợp lại, cả 3 yếu tố này tạo nên chính sách phát triển. Chính phủ đã nhận thấy rõ ràng rằng nếu muốn tiếp tục giảm nghèo đói sẽ phải có những hành động kiên quyết hơn trong mỗi lĩnh vực cũng như trong từng mảng nhỏ của chúng. Ngày càng có nhiều bằng chứng cả ở Việt Nam và trên thế giới cho phép khẳng định rằng thường phải có những hoạt động ở nhiều ngành thì mới đạt được những kết quả tích cực trong việc cải thiện đời sống của người dân. Ví dụ muốn nâng cao tỷ lệ người dân tộc biết chữ một cách có hiệu quả thì không chỉ riêng ngành giáo dục phải tích cực hơn mà còn cần đến các điều kiện thuộc cơ sở hạ tầng, quản lý nước, thông tin cũng như các chính sách cho kinh tế nông thôn. Nói một cách rộng hơn, kể cả khi có những khoản đầu tư lớn vào phát triển con người tạo nên một xã hội khoẻ mạnh và có trình độ cao cũng không thể chống lại nghèo đói nếu như quản lý kinh tế yếu kém và không thể làm tăng thu nhập do không tăng trưởng và không có cơ hội tạo thêm thu nhập. Tuy nhiên nói đấu tranh chống nghèo đói trên tất cả các mặt trận không có nghĩa là chúng ta phải thực hiện mọi công việc cùng một lúc. Để xác định thứ tự ưu tiên phải làm rõ những khâu ách tắc và đột phá vào ách tắc đó trước tiên. Và để đảm bảo rằng những ưu tiên được lựa chọn phản ánh được đúng mối quan tâm của người nghèo thì cần phải thu hút họ vào quá trình lập kế hoạch có sự tham gia của người dân.
I. Nâng cao năng lực con người.
Trong thập kỷ qua, Việt Nam đã đạt được những bước tiến đáng kể trong phát triển con người, được thể hiện qua thu nhập tăng lên và nghèo đói giảm mạnh. mục tiêu trong chiến lược phát triển kinh tế- xã hội mười năm là tiếp tục phát huy những thành tựu đã đạt được và đạt tốc độ phát triển con người cao hơn và công bằng hơn vào năm 2010. Để đạt được mục tiêu này các dịch vụ xã hội cần được mở rộng và cải thiện hơn nữa. Tính cấp thiết, sự cam kết chính trị và sự phối hợp mạnh hơn giữa các phương tiện với các mục tiêu trong các chiến lược của các ngành khác nhau là những yều tố căn bản. Đặc biệt có 5 vấn đề xuyên suốt giữa các ngành:
1. Nâng cao chất lượng các dịch vụ xã hội.
Các biện pháp nhằm nâng cao chất lượng và khuyến khích những người cung cấp dịch vụ, đặc biệt ở cấp xã và huyện còn quan trọng hơn việc tăng số lượng người cung cấp dịch vụ. Các dịch vụ định hướng phục vụ khách hàng là rất quan trọng: các dịch vụ y tế công cộng phải đáp ứng hơn nữa nhu cầu của bệnh nhân và giáo dục phải khuyến khích tư duy sáng tạo để đáp ứng những nhu cầu của nền kinh tế hiện đại. Cũng cần phải xem xét tới sự cần thiết phải xây dựng một hệ thống chương trình hoàn thiện và hiện đại để chuẩn bị cho các thế hệ trẻ Việt Nam trước những thách thức của thế kỷ XXI.
Một khía cạnh then chốt nữa của sự nghiệp phát triển con người là giáo dục và tri thức. Nó không những trực tiếp nâng cao năng lực của con người và tăng cường cơ hội lựa chọn cho họ mà còn tạo ra nguồn vốn con người, một động lực quan trọng trong tăng trưởng kinh tế. Để đáp ứng nhu cầu công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước, chiến lược phát triển của chính phủ đã đề ra rất nhiều mục tiêu cho giáo dục và đào tạo:
Củng cố thành tựu của chương trình xoá nạn mù chữ và phổ cập giáo dục tiểu học;
Phổ cập giáo dục phổ thông cơ sở;
Tạo môi trường thuận lợi cho giáo dục từ xa và học tập suốt đời;
Hiện đại hoá phương pháp giảng dạy cũng như nâng cao chất lượng đội ngũ giáo viên và cơ sở hạ tầng trường lớp;
Nâng cao kỹ năng của năng lực lao động, của cán bộ khoa học kỹ thuật và cán bộ quản lý cũng như của người lao động trong nông nghiệp và ở nông thôn. Đầu tư cho phát triển con người và xã hội có vai trò rất quan trọng đối với ba mảng cấp bách của một chiến lược giảm nghèo đói (tạo cơ hội, đảm bảo công bằng và giảm nguy cơ bị tổn thương). Hiện tại trong ngành giáo dục đang có ba vấn đề chính, đó là khả năng tiếp cận giáo dục, chất lượng và tính thiết thực của giáo dục, trang trải cho giáo dục.
Làm thế nào để tạo ra một sự tiếp cận công bằng hơn đến dịch vụ giáo dục? Mặc dù tỷ lệ học sinh đến trường khá cao và không có sự chênh lệch đáng kể giữa số học sinh nam và nữ song còn rất nhiều vùng và nhiều nhóm người chịu thiệt thòi vẫn không có được điều kiện như các nhóm khác trong việc tiếp cận đến giáo dục cơ bản. Trong số những học sinh không được đi học có tới 50% là con em các dân tộc thiểu số. ở Lai Châu- một tỉnh miền núi nghèo- chỉ có 49% phụ nữ trưởng thành biết chữ. Sự chênh lệch giữa nhóm dân giàu và dân nghèo không lớn ở bậc tiểu học nhưng ngày càng thể hiện rõ nét trong các bậc học cao hơn. Ví dụ như ở trường tiểu học, 80% số trẻ em trong nhóm dân nghèo nhất được đến trường so với tỷ lệ 92% đối với nhóm người giàu nhất. Sự chênh lệch này lớn hơn nhiều ngay đối với cấp hai: chỉ có 37% trẻ em nghèo được đi học trong khi tỷ lệ này đối với trẻ em con nhà khá giả là 87%. Rõ ràng là việc bảo đảm khả năng tiếp cận một cách công bằng tới dịch vụ giáo dục cơ bản cho tất cả mọi người dân là nhân tố hết sức cần thiết để đảm bảo tính công bằng trong khả năng tiếp cận đến những cơ hội và những nguồn thu nhập mới trong tương lai.
Làm thế nào để nâng cao chất lượng và tính thiết thực của dịch vụ giáo dục? Chất lượng và tính thiết thực là những yếu tố ngày càng được chú ý và các gia đình ở nông thôn và thành thị có cách nhìn nhận khác nhau về vấn đề này. Những người nghèo thường sống trong cộng đồng hẻo lánh và mang nặng tính truyền thống nên cho rằng chương trình học và phương pháp giảng dạy còn xa vời đối với cuộc sống thực tế. Đối với họ, phương pháp giảng dạy ở cấp giáo dục cơ bản thương là xa lạ, thời gian nghe giảng còn nhiều hạn chế và đôi khi gây cản trở công việc của nông thôn hay những công việc khác trong gia đình. Còn những gia đình ở thành phố thì có mối lo lắng ngày càng tăng về tình trạng chất lượng xuống cấp và theo họ nội dung chương trình cũng như phương pháp giảng dạy đều cần phải có sự thay đổi.
Chất lượng giáo dục nói chung ở mọi cấp đều cần được cải thiện. Chiến lược của chính phủ chưa xác định rõ hệ thống các tiêu chuẩn quốc gia về giáo dục cơ sở được đảm bảo cho mọi học sinh hoặc nêu rõ mức độ kết quả hoạt động tối thiểu mà mỗi trường cần phải đạt được. Việc thường xuyên đánh giá kết quả hoạt động của hệ thống giáo dục dựa trên những tiêu chuẩn đó sẽ cải thiện công tác của ngành. Do đó, các tiêu chuẩn này cần phản ánh đầu ra thay vì đầu vào của hệ thống giáo dục. Hơn nữa, có thể hiện đại hoá chương trình giáo dục cơ sở bằng cách chuyển từ một phương pháp cũ của một hệ thống hầu như hoàn toàn phụ thuộc vào việc thuộc lòng, sang phương pháp tiếp thu kiến thức một cách năng động và linh hoạt, khuyến khích tư duy chủ động, sáng tạo và sử dụng những công nghệ thông tin mới nhất. Cần triển khai những hoạt động cụ thể nhằm đảm bảo cho những chương trình cải cách giáo dục được thực hiện trên thực tế. Cuối cung, chiến lược đưa ra một số biện pháp nhằm nâng cao chất lượng của đội ngũ giáo viên, nhưng lại không nêu rõ tiêu chuẩn để đánh giá chất lượng giảng dạy của giáo viên. Ngoài ra, cần lưu ý hơn tới một vấn đề then chốt, đó là nguồn kinh phí để nâng mức lương và thưởng cho giáo viên ở những vùng khó khăn.
Chất lượng đào tạo và dạy nghề phần nào bị hạn chế bởi các yếu tố tổ chức và cơ cấu trong phân ngành này. Hiện nay, hệ thống đào tạo kỹ thuật và dạy nghề vẫn chủ yếu do Nhà nước định hướng, quản lý thì manh mún, được nhiều nhà tài trợ giúp đỡ song không có sự phối hợp với nhau và không đáp ứng một cách hệ thống với nhu cầu của thị trường lao động. Một phương thức tốt hơn có thể áp dụng là hiện đại hoá ngành giáo dục phổ thông sao cho những học sinh tốt nghiệp có thể làm việc được ngay, và nâng cao trách nhiệm của người sử dụng lao động phải bố trí đào tạo kỹ thuật ngắn hạn cho người lao động trên cơ sở vừa học vừa làm và những hình thức đào tạo kỹ thuật liên quan.
Các nhà hoạch định chính sách đều nhận thấy rằng chương trình học hiện nay hầu như chưa tạo được nền móng tốt cho một xã hội học hỏi ở trong nền kinh tế thị trường. họ vẫn còn thiên về cách học thụ động trong những lĩnh vực nghề nghiệp đã được xác định trước chứ không phải là cách học năng động và linh hoạt phù hợp với nền kinh tế đang phát triển và thay đổi. Nâng cao chất lượng và tính thiết thực trong giáo dục của Việt Nam là yếu tố then chốt giúp Việt Nam nâng cao chất lượng lực lượng lao động của mình và thu hút đầu tư để từ đó tạo thêm công ăn việc làm, mang lại cơ hội thu nhập cho những người lao động.
Làm thế nào để nâng cao hiệu quả trong chi tiêu cho giáo dục đồng thời giảm gánh nặng chi phí cho giáo dục của người nghèo? Hiện tại, hiệu quả của việc chi tiêu cho giáo dục còn rất thấp- tỷ lệ học sinh lưu ban và bỏ học vẫn còn rất cao làm giảm kết quả học tập và tăng chi phí giáo dục cho Chính phủ và gia đình. Hiện nay các hộ gia đình phải chịu gánh nặng trang trải 42% tổng chi phí cho giáo dục tiểu học và 50% tổng chi tiêu cho giáo dục cơ bản. Mức miễn giảm học phí cho những học sinh nghèo hay những khoản trợ cấp định hướng khác vẫn còn là quá thấp để có thể giúp hộ nghèo có khả năng trang trải được chi phí cho giáo dục cơ bản. việc miễn giảm học phí ở Việt Nam có ảnh hưởng rất nhỏ đối với người nghèo chủ yếu vì nó chiếm tỷ lệ nhỏ trong tổng chi phí của phụ huynh cho trường và chi liên quan đến học hành và vì chúng có phạm vi áp dụng hẹp.
Bảng 7. Phạm vi triển khai chương trình miễn giảm học phí trong năm 1998.
Nhóm chi tiêu
Tỷ lệ dân được miễn học phí
Giảm
Miễn
Cả hai
Nhóm 1 (Nghèo nhất)
8.9
11.6
20.5
Nhóm 2
10.7
6.5
17.2
Nhóm 3
13.4
3.6
17.0
Nhóm 4
9.9
3.6
13.6
Nhóm 5
8.6
0.9
9.5
Tổng cộng
10.4
5.8
18.2
Nông thôn
6.8
2.3
9.1
Thành thị
11.0
0.7
17.5
Hơn nữa, bởi các hộ nghèo thường sống trong các cộng đồng nghèo với mức chi tiêu cho giáo dục thấp hơn nên con em của họ cũng chỉ được học ở những trường chất lượng thấp hơn hẳn. các chính sách xoá đói giảm nghèo có thể hỗ trợ thông qua việc tăng cường định hướng theo lãnh thổ nhằm đưa ngân sách giáo dục và ngân sách cho xoá nghèo đói đến được với những cộng đồng nghèo đồng thời để trả lương cho giáo viên, xây dựng trường học và cung cấp các vật phẩm cần thiết cho những khu vực đó. Những hộ được chính quyền địa phương xác định thuộc diện nghèo cũng có thể được cung cấp lương thực để giúp họ tiếp tục cho con em tới trường giống như các chương trình đổi lương thực lấy giáo dục truyền thống.
Theo dự kiến của chiến lược, mức chi ngân sách của Nhà nước cho giáo dục và đào tạo sẽ tăng từ 15% năm 2000 lên 18% vào năm 2005 và 20% vào năm 2010. đáng lưu ý là riêng các yêu cầu như xây dựng ở mỗi xã ít nhất một trường tiều học và một trường phổ thông cơ sở, kết nối internet cho tất cả các trường và áp dụng chế độ học cả ngày cho tất cả học sinh sẽ đòi hỏi nguồn kinh phí đáng kể. Chiến lược cũng đề xuất việc thu học phí tương đương 3% đến 25% chi tiêu giáo dục cho một học sinh, như vậy sẽ tăng thêm chi phí cho việc học tập hiện nay. Cũng cần có chính sách đảm bảo khả năng tiếp cận bình đẳng với giáo dục đại học. Với mục tiêu này, Nhà nước có thể xem xét áp dụng một chính sách rõ ràng hơn để đảm bảo cung cấp học bổng cho sinh viên thuộc các gia đình nghèo.
2. Bảo đảm khả năng tiếp cận bình đẳng cho tất cả các nhóm dân cư.
Khả năng tiếp cận bình đẳng các dịch vụ xã hội có ý nghĩa vô cùng quan trọng. Khả năng tiếp cận đặc biệt quan trọng đối với những nhóm dễ bị tổn thương. Khả năng tiếp cận các dịch vụ y tế bị cản trở do phí sử dụng cao trong khi diện bảo hiểm y tế còn hạn hẹp và hệ thống miễn phí không hoạt động một cách đúng đắn. các đề xuất của chính phủ về việc áp dụng cơ chế trả trước đối với dịch vụ khám chữa bệnh tại bệnh viện đánh dấu một thành tựu đáng kể. Việc thu các khoản đóng góp và học phí ở cấp giáo dục cơ sở nên được xem xét lại và kèm theo những điều khoản đặc biệt dành cho người nghèo.
3. Nâng cao khả năng tiếp cận và sử dụng thông tin và công nghệ thông tin.
Thông tin có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc tăng cường sự phát triển con người. Cung cấp thông tin về các dịch vụ xã hội và về quyền được sử dụng các dịch vụ xã hội của người nghèo sẽ giúp nâng cao khả năng tiếp cận các dịch vụ này. thông tin tự thân nó cũng là một dịch vụ, cho phép con người lựa chọn trên cơ sở có đầy đủ thông tin, chẳng hạn về kế hoạch hoá gia đình và sức khoẻ sinh sản, và cho phép các nhà hoạch định chính sách định hướng mục tiêu các dịch vụ một cách hiệu quả. Cuối cùng, cần khuyến khích sử dụng dịch vụ Internet và công nghệ thông tin hiện đại, cần củng cố các hệ thống và cơ sở hạ tâng thư viện, để tạo điều kiện cho sự hình thành của nền kinh tế dựa vào tri thức.
4. Tăng mức đầu tư công vào những lĩnh vực xã hội và đa dạng hoá nhiều nguồn quỹ mới.
Việc tăng mức chi tiêu công cho các dịch vụ xã hội và sự tập trung vào nghèo đói là vô cùng quan trọng nhằm đảm bảo tiêu chuẩn cao hơn về chất lượng và diện hỗ trợ. Trong lĩnh vực y tế, cần tìm ra cách thay đổi trong phân bổ nguồn lực giữa các tỉnh và giữa các cấp y tế. Những nguồn kinh phí khác để trang trải cho các dịch vụ xã hội có thể được khai thác, như bảo hiểm y tế, sự đóng góp của người dân và sự tham gia tài trợ của khu vực tư nhân, song cần phải quản lý nguồn tài trợ đó để tránh gây ra gánh nặng quá sức cho người nghèo.
5. Tạo ra vai trò thích hợp cho khu vực quốc doanh.
Cần phải xác định cụ thể hơn vai trò và trách nhiệm của khu vực quốc doanh và ngoài quốc doanh. Trong khi chính phủ có trách nhiệm bảo đảm phổ cập giáo dục cơ bản thì các cơ sở tư nhân có thể giữ vai trò tích cực trong việc cung cấp và tài trợ cho giáo dục ở bậc cao hơn và đào tạo nghề. Một vai trò quan trọng của khu vực quốc doanh vẫn là kích thích sự hoạt động của thị trường cũng như bảo đảm và giám sát chất lượng và khả năng tiếp cận được với các dịch vụ cung cấp.
II. Cơ sở hạ tầng vật chất.
Phân tích về mức sống dân cư năm 1998 cho thấy sự bất bình đẳng giữa khả năng tiếp cận của những nhóm người nghèo so với những nhóm người khác, giữa các vùng, giữa nông thôn và thành thị. Người nghèo vẫn chưa được cung cấp đầy đủ các dịch vụ về cơ sở hạ tầng. Việc có được cơ sở hạ tầng và các dịch vụ có ý nghĩa rất quan trọng giúp người nghèo cải thiện nguồn nhân lực, giảm bớt khả năng rủi ro, cho phép họ tham gia và góp phần vào các cơ hội cải thiện đời sống do nền kinh tế thị trường mang lại.
Nhận thức được điều đó, chính phủ đã thông báo kế hoạch mở rộng thêm cơ sở hạ tầng ở các vùng nghèo và vùng sâu vùng xa.
Chính phủ đang nỗ lực thực hiện cam kết cung cấp thêm cơ sở hạ tầng cho người nghèo, kế hoạch những năm tới đây sẽ phải nêu và giải quyết được một số vấn đề khó khăn như sau:
Có hai lý do vì sao việc thiết kế các dự án cho các xã nghèo khác với cách làm theo chuẩn mực. Trước hết, đôi khi những người nghèo sống tập trung ở những vùng ít tiềm năng hay những vùng sâu vùng xa nơi mà những dự án nhất định như xây dựng đường xá và hệ thống thuỷ lợi sẽ không có hiệu quả về chi phí hoặc thậm chí là không thể thực hiện được. Trong những trường hợp đó, cần cố gắng áp dụng những công nghệ có hiệu quả chi phí cao, phù hợp với nhu cầu của người nghèo.
Trong chiến lược kinh tế-xã hội 10 năm, chính phủ đã đề ra chương trình nhiều kỳ vọng cho ngành cơ sở hạ tầng. Trong thập kỷ tới, Việt Nam đặt mục tiêu đầu tư mạnh vào cơ sở hạ tầng và rút ngắn khoảng cách so với các nước đang phát triển khác. Trong ngành điện, Việt Nam đặt mục tiêu tận dụng tiềm năng thuỷ điện, khí và than để có thể cung cấp điện cân bằng. Chiến lược 10 nêu rõ phải nhanh chóng hoàn thành tổ hợp Phú Mỹ và xây dựng tổ hợp khí- điện- phân bón Tây Nam. Bên cạnh đó, là mục tiêu hạn chế tỷ lệ thất thoát điện trong truyền tải và phân phối bằng cách hiện đại hoá hệ thống phân phối điện quốc gia. Những cải tiến trong phân phối điện nhằm mục đích giảm bớt chi phí cao cho sản xuất điện và làm cho giá năng lượng hợp lý hơn với khả năng chi trả ở Việt Nam.
Chính phủ đưa ra các kế hoạch nhiều kỳ vọng để nâng cấp và cải tạo ngành giao thông vận tải bao gồm đường bộ, đường sắt, cảng, hệ thống giao thông đường thuỷ và sân bay. Trong ngành giao thông vận tải, chính phủ đặt mục tiêu hoàn thành việc nâng cấp Đường quốc lộ 1 và xây dựng đường Hồ Chí Minh. Bên cạnh đó là mục tiêu nâng cao khả năng nối liền với các nước láng giềng bằng cách tăng cường hệ thống đường bộ, bao gồm đường bộ biên giới và xây cầu qua sông. Chính phủ đặt mục tiêu nâng cấp hệ thống đường sắt và mở thêm nhiều đường giao thông mới liên kết với các trung tâm kinh tế. Chính phủ muốn cải tạo hệ thống cảng biển và tăng thêm mạng lưới cảng trong nước. Chiến lược này cũng đặt mục tiêu phát triển hệ thống vận tải đường thuỷ và nâng cao năng lực cảng biển. Trong ngành hàng khôn
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 35291.doc