Đề tài Một số giải pháp phát triển hoạt động gia công may mặc xuất khẩu ở Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung

Lời mở đầu 1

Chương 1 3

Một số vấn đề về hoạt động 3

gia công may mặc xuất khẩu ở việt nam 3

1.1 Khái niệm và các hình thức gia công may mặc xuất khẩu 3

1.1.2.1 Hình thức nhận nguyên phụ liệu giao thành phẩm (gia công hoàn chỉnh một sản phẩm) 4

1.1.2.2 Hình thức mua đứt bán đoạn dựa trên hợp đồng mua bán với nước ngoài 5

1.1.2.3 Hình thức kết hợp 5

1.2 Tình hình gia công may mặc xuất khẩu của việt nam 5

1.2.2.1 Thuận lợi 8

1.2.2.2 Khó khăn 10

Chương 2 13

Hoạt động gia công may mặc xuất khẩu 13

của Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 13

2.1 Khái quát về Xí nghiệp may xuất khẩu lạc trung 13

2.1.2.1 Sơ đồ tổ chức 14

2.1.2.2 Chức năng, nhiệm vụ của từng bộ phận 15

2.2 Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gia công may mặc của Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 20

2.2.1.1 Xuất khẩu uỷ thác 21

2.2.1.2 Gia công xuất khẩu 21

2.2.1.3 Xuất khẩu trực tiếp 23

2.2.2.1 Đặc điểm thị trường 23

2.2.3.1 Ưu điểm 29

2.2.4.2 Những mặt tồn tại và nguyên nhân 30

 

doc49 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1228 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp phát triển hoạt động gia công may mặc xuất khẩu ở Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Chuẩn bị các điều kiện theo yêu cầu sản xuất, nắm vững năng lực sản xuất, phương tiện, thiết bị nhà xưởng, lao động vật tư, số lượng sản phẩm, địa chỉ và thời gian giao hàng trong từng thời kỳ sản xuất. Tổ chức các cơ sở gia công theo sự chỉ đạo của Giám đốc. Xây dựng kế hoạch tác nghiệp, theo dõi tiến độ thực hiện kế hoạch và tiêu thụ sản phẩm của từng hợp đồng. Xây dựng kế hoạch giá thành sản phẩm, giá bán, giá gia công và các hàng hoá nguyên phụ liệu. Quản lý các kho nguyên phụ liệu, máy móc phụ tùng, nhiên liệu phục vụ sản xuất và phương tiện vận tải. Quản lý và tổ chức vận chuyển hàng hoá theo kế hoạch. Phòng kỹ thuật- KCS Phòng kỹ thuật có chức năng tham mưu giúp Giám đốc về khâu kỹ thuật, làm mẫu để tiến hành triển khai các hợp đồng. Phòng gồm 7 người trong đó có 1 trưởng phòng phụ trách, giúp việc cho trưởng phòng có 1 phó phòng. Tham gia với Phòng kế hoạch đàm phán các hợp đồng gia công, sản xuất. Nghiên cứu nhu cầu thị trường về mẫu thời trang từ đó đề xuất may mẫu chào hàng, mẫu đối theo các đơn hàng cần thiết. Tổ chức gia công và chịu trách nhiệm chất lượng theo dõi tiến độ giao hàng, đảm bảo các yêu cầu kỹ thuật hợp đồng đã ký. Kiểm tra định mức nguyên phụ liệu các phân xưởng, quan hệ với các cơ quan chức năng về các định mức nguyên phụ liệu và các giao dịch khác về kỹ thuật. Phúc tra thành phẩm theo quy định của xí nghiệp. Xây dựng các tiêu chuẩn cấp bậc kỹ thuật của công nhân: cắt, may, là, ép, trải vải… Phối hợp với Phòng tổ chức- hành chính để tổ chức thi tuyển lao động, thi giữ bậc, nâng bậc cho công nhân. Các phân xưởng may Các phân xưởng may có chức năng tổ chức sản xuất sản phẩm may mặc theo kế hoạch và đảm bảo đúng tiêu chuẩn kỹ thuật, chất lượng sản phẩm và tiến độ giao hàng theo quy định. Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung có 3 phân xưởng: Phân xưởng I gồm 187 người, Phân xưởng II gồm 260 người, Phân xưởng III gồm 210 người. Mỗi phân xưởng có 1 Quản đốc phụ trách, giúp việc cho quản đốc có 1 đến 2 phó quản đốc. Các phân xưởng có nhiệm vụ cụ thể sau: Xây dựng và thực hiện kế hoạch điều độ sản xuất từng tuần, tháng trên cơ sở kế hoạch sản xuất của xí nghiệp giao. Căn cứ vào hợp đồng xí nghiệp đã ký giao cho từng phân xưởng, các phân xưởng chủ động quan hệ với chuyên gia các hãng để thiết kế, may mẫu đối và xây dựng các định mức lao động, nguyên phụ liệu, nhiên liệu, vật tư. Phối hợp với phòng kế hoạch cân đối nguyên phụ liệu của khách hàng giao, bảo đảm vật tư theo các mã hàng. Chuẩn bị các mẫu động, mẫu cứng, sơ đồ cắt theo đúng yêu cầu kỹ thuật để tổ chức sản xuất. Xây dựng quy trình công nghệ, tiêu chuẩn kỹ thuật, thiết kế bố trí các dây chuyền sản xuất phù hợp với từng mã hàng. Xây dựng đơn giá tiền lương, thanh toán lương cho từng phân xưởng. Đề xuất các phương án cải tiến quy trình công nghệ, hợp lý hoá sản xuất để tổ chức lao động khoa học trong từng phân xưởng. Hướng dẫn, kiểm tra kỹ thuật ở các tổ sản xuất của từng phân xưởng, kiểm hoá sản phẩm nhập kho, chịu trách nhiệm chất lượng hàng hoá đối với khách hàng. Tổ chức đóng gói ở từng phân xưởng theo sự phân công của xí nghiệp. Quản lý máy móc thiết bị và tài sản hàng hoá do xí nghiệp giao, chấp hành đầy đủ việc bảo toàn, sửa chữa điều chỉnh thiết bị trong phân xưởng. Xây dựng kế hoạch bảo dưỡng định kỳ, sửa chữa lớn thiết bị để xí nghiệp duyệt. Thực hiện nghiêm túc các quy trình công nghệ, định mức tiêu hao nguyên, nhiên phụ liệu, phụ tùng máy, định mức lao động và yêu cầu kỹ thuật của xí nghiệp. Nghiêm chỉnh chấp hành các quy định về an toàn lao động, máy móc thiết bị, công tác phòng cháy chữa cháy, bảo hộ lao động, vệ sinh công nghiệp. Rèn luyện tay nghề cho công nhân, phối hợp với các Phòng tổ chức- hành chính, Phòng kỹ thuật tổ chức thi tuyển lao động giữ bậc, nâng bậc cho công nhân. 2.2 Thực trạng sản xuất và xuất khẩu gia công may mặc của Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 2.2.1 Các phương thức sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp Cũng như các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu các của Việt Nam, do điều kiện còn hạn chế về kỹ thuật và vốn nên hiện nay hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung là làm hàng gia công may mặc xuất khẩu. Xí nghiệp chưa có được một phòng thiết kế mẫu hoàn chỉnh với những thiết bị hiện đại, tối tân cũng như chưa có đội ngũ kỹ sư và công nhân có tay nghề cao, nhất là chưa có kinh nghiệm trong công tác quản lý và thị trường nên rất nhiều các đơn đặt hàng của Xí nghiệp phải qua các công ty trung gian như: Hồng Kông, Đài Loan, Hàn Quốc.... Xí nghiệp chủ yếu sử dụng 3 phương thức kinh doanh hàng may mặc xuất khẩu sau: Bảng1: Kim ngạch xuất khẩu của từng phương thức xuất khẩu Năm 2000 2001 2002 6 tháng đầu 2003 số tiền (1.000USD) Tỷ trọng (%) số tiền (1.000USD) Tỷ trọng (%) số tiền (1.000USD) Tỷ trọng (%) số tiền (1.000USD) Tỷ trọng (%) XK uỷ thác 411,3 53,91 2.255,2 59,2 2.408 52,69 1171,4 46,1 Gia công XK 299,1 41,32 1.173,5 30,7 1.707,2 37,35 1.024 40,3 XK trực tiếp 51,7 6,79 381,3 10,1 456,8 9,96 345,6 13,6 Tổng kim ngạch 762,1 100 3.810 100 4.572 100 2.541 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết xuất khẩu của xí nghiệp Những năm đầu 1990, kim ngạch xuất khẩu của Xí nghiệp chưa cao do Xí nghiệp chưa có kinh nghiệm trong lĩnh vực này, thị truờng và bạn hàng chưa nhiều. Sau đó Xí nghiệp đã áp dụng các biện pháp nhằm đẩy mạnh sản xuất và xuất khẩu. Trực tiếp thông qua việc cử cán bộ xuống tận cơ sở sản xuất, phối hợp chặt chẽ với địa phương để đôn đốc sản xuất, thực hiện các đơn đặt hàng. Đồng thời giám sát chặt chẽ việc kiểm tra thu nhận hàng, đảm bảo giao hàng đúng thời hạn. Do đó sản lượng xuất khẩu trực tiếp của Xí nghiệp đã tăng lên, tỷ trọng các phương thức xuất khẩu đã có sự thay đổi đáng kể. 2.2.1.1 Xuất khẩu uỷ thác Đây là một phương thức kinh doanh truyền thống của Xí nghiệp. Các đơn vị kinh doanh uỷ thác cho Xí nghiệp thực hiện xuất khẩu các lô hàng của mình. Xí nghiệp sẽ nhận được một khoản phí gọi là phí uỷ thác. Phí uỷ thác chỉ chiếm 4-5% trị giá gia công. Xí nghiệp đã và đang xuất khẩu nhận uỷ thác cho các Công ty may 10, may Sông Hồng, công ty may Leconex Hải Phòng... Trong tổng lượng kim ngạch xuất khẩu hàng may mặc thu được trong các năm gần đây, xuất khẩu uỷ thác vẫn là hoạt động mang lại doanh thu cao nhất, luôn chiếm trên 50% tổng kim ngạch xuất khẩu của Xí nghiệp. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, do Nhà nước mở rộng quyền xuất nhập khẩu trực tiếp cho các công ty trong nước nên doanh thu từ hoạt động xuất khẩu uỷ thác của xí nghiệp đã bị giảm đặc biệt là trong 6 tháng đầu năm nay. Trong điều kiện cạnh tranh như hiện nay thì việc các doanh nghiệp hạ thấp phí uỷ thác để cạnh tranh giành các hợp đồng gia công uỷ thác đang là một vấn đề lớn ảnh hưởng tới doanh thu xuất khẩu của Xí nghiệp, đòi hỏi Xí nghiệp phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ thị trường để tìm ra các phương thức xuất khẩu phù hợp với tiềm năng của Xí nghiệp và phù hợp với xu thế phát triển chung của ngành may mặc xuất khẩu. 2.2.1.2 Gia công xuất khẩu Nhận thấy gia công xuất khẩu là một hoạt động kinh doanh mà Xí nghiệp có khả năng đảm nhiệm và có thể đem lại nhiều lợi ích. Xí nghiệp quyết định tiến hành nhận may gia công. Với hình thức này Xí nghiệp là người trực tiếp ký kết các hợp đồng gia công với phía nước ngoài. Thực hiện may gia công xuất khẩu, Xí nghiệp không phải lo nhiều về vốn, kỹ thuật, nguyên vật liệu, thị trường.... Do đó phương thức gia công xuất khẩu là một biện pháp quan trọng để giải quyết vấn đề công ăn việc làm cho nhiều cán bộ công nhân viên của Xí nghiệp. Nó cũng tạo điều kiện phát triển ngành hàng may mặc của Xí nghiệp, tạo cho Xí nghiệp cơ hội xâm nhập vào thị trường các nước phát triển, góp phần mở rộng hoạt động kinh doanh của Xí nghiệp. Tuy nhiên khác với hình thức xuất khẩu uỷ thác, ở hình thức này, Xí nghiệp phải chịu nhiều rủi ro hơn, chịu mọi trách nhiệm về chất lượng và giá cả, sản lượng và thời gian giao hàng. Như mọi doanh nghiệp làm hàng gia công khác, Xí nghiệp luôn ở trong thế bị động, có được phía nước ngoài thuê hay không và thường phải chấp nhận sản xuất theo các yêu cầu về kỹ thuật và mẫu mã mà phía đối tác đưa ra; hơn nữa công việc sản xuất lại phụ thuộc vào thời gian của hợp đồng gia công. Mặc dù gia công xuất khẩu được coi là hoạt động sản xuất chính của Xí nghiệp nhưng số tiền thu được từ hoạt động này lại rất nhỏ, thường chỉ chiếm 30–40% trong tổng kim ngạch xuất khẩu do đó khả năng đổi mới máy móc, thiết bị, điều kiện làm việc... vẫn còn là một vấn đề khó khăn của doanh nghiệp. Công nhân làm hàng gia công bị mất đi năng lực sáng tạo, chỉ làm việc một cách thụ động, máy móc theo sự chỉ đạo của bên trên. Tuy có những hạn chế nhưng gia công xuất khẩu là một hoạt động tương đối ổn định và là một hình thức kinh doanh cần được tiếp tục duy trì. Vấn đề đặt ra là qua gia công xuất khẩu Xí nghiệp cần hết sức tận dụng vốn nước ngoài, tranh thủ học hỏi kinh nghiệm của bạn hàng trong lĩnh vực ngành nghề. Đây cũng là một lý do quan trọng để Xí nghiệp đạt được mục đích chính là đẩy mạnh khả năng phát triển hình thức thứ ba. 2.2.1.3 Xuất khẩu trực tiếp Xuất khẩu trực tiếp là hình thức xuất khẩu trong đó Xí nghiệp phải tự mình khai thác nguồn hàng, tìm thị trường xuất khẩu và chịu mọi rủi ro trong quá trình hoạt động kinh doanh. Xuất khẩu trực tiếp có nhiều ưu điểm như tạo thế chủ động cho Xí nghiệp trong kinh doanh, khả năng xâm nhập thị trường nhanh, lợi ích kinh tế mà hoạt động này mang lại cũng cao hơn các hoạt động khác. Trong những năm gần đây, doanh thu từ hoạt động này đã tăng lên đáng kể do Xí nghiệp đã có được một số bạn hàng mới từ các nước Châu á như Hồng Kông và Singapore… Để có được hiệu quả kinh tế cao, Xí nghiệp buộc phải đương đầu với nhiều vấn đề về vốn, sản phẩm, thị trường... nhất là trong điều kiện mới bước vào thị trường may mặc, vốn sản xuất còn hạn chế, am hiểu thị trường thế giới chưa đầy đủ, uy tín, nhãn hiệu của Xí nghiệp còn mờ nhạt so với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành. Bên cạnh đó các nguồn nguyên liệu trong nước như sản phẩm tơ sợi chất lượng không đồng đều, không đáp ứng được yêu cầu của thị trường thế giới. Do đó để sản xuất những sản phẩm có chất lượng cao, có khả năng xâm nhập thị trường thế giới một cách nhanh chóng vẫn còn là một thách thức của Xí nghiệp. 2.2.2 Hoạt động gia công may mặc xuất khẩu của xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 2.2.2.1 Đặc điểm thị trường Từ nhiều năm nay trong lĩnh vực gia công, Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung được biết đến là một Xí nghiệp làm ăn có kinh nghiệm và có mối quan hệ với nhiều khách hàng trên thế giới. Xí nghiệp đã xuất khẩu được nhiều mặt hàng vào các thị trường chính như: EU, Mỹ, Nhật Bản.... Tuy nhiên xâm nhập vào mỗi thị trường khác nhau đòi hỏi Xí nghiệp phải có những đáp ứng phù hợp với từng thị trường đó. Bảng 2: Cơ cấu thị trường gia công xuất khẩu Thị trường 1999 2000 2001 2002 6 tháng đầu năm 2003 Giá trị (1.000USD) Thị phần (%) Giá trị (1.000USD) Thị phần (%) Giá trị (1.000USD) Thị phần (%) Giá trị (1.000USD) Thị phần (%) Giá trị (1.000USD) Thị phần (%) EU, Canada 521,6 55,1 373,5 49,0 2.116,4 55,5 3.178,1 69,5 1.026 42 Mỹ 301,8 31,9 292,5 38,4 572,9 15 307,5 6,7 678 27,7 Châu á 98,9 10,5 42,5 5,6 807,9 21,2 918,1 20 325 13,2 Khác 23,6 2,5 53,2 7 312,7 8,3 168,4 3,8 422 17,1 Tổng kim ngạch 945,9 100 762,1 100 3.810,0 100 4.572,0 100 2.451 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết xuất khẩu của xí nghiệp Thị trường EU EU vốn được coi là cái nôi của ngành may mặc thế giới, chi tiêu cho may mặc của khu vực thị trường này khá lớn: 6- 10% tiêu dùng cá nhân và là khu vực có nhu cầu lớn hàng năm về quần áo may sẵn, với khối lượng nhập khẩu hàng chỉ đứng sau Mỹ song hai năm gần đây nhập khẩu may mặc vào thị trường này có xu thế sụt giảm. Năm 2002 chỉ còn 540 triệu USD so với 660 triệu USD năm 2001. Riêng mặt hàng chủ lực là áo jacket, năm qua giảm tới 3 triệu sản phẩm, còn gần 17 triệu sản phẩm. Đối với Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung thì thị trường EU vốn là thị trường truyền thống chiếm tỷ trọng cao trong tổng kim ngạch xuất khẩu của Xí nghiệp. Sau khi đại diện Chính phủ Việt nam và Liên Hiệp Châu Âu ký hiệp định về buôn bán hàng dệt may cho 3 năm 2000- 2003, trong đó hai bên cam kết mở rộng cửa cho hàng dệt may Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này thì đã tạo ra rất nhiều cơ hội tìm kiếm bạn hàng mới cho hoạt động gia công may mặc xuất khẩu của Xí nghiệp. Đây là thị trường xuất khẩu theo phương thức gia công thuần tuý, khách hàng gửi nguyên phụ liệu từ một nước thứ ba, thuê Xí nghiệp gia công may, sau đó xuất ngược trở lại EU. Các đơn đặt hàng từ phía đối tác nhằm xuất sang thị trường EU thường là những đơn đặt hàng lớn, mang lại rất nhiều lợi ích kinh tế cho Xí nghiệp. Trong năm 2002, thị trường EU chiếm hơn 50% tổng giá trị gia công xuất khẩu của xí nghiệp nên xí nghiệp đặc biệt chú ý đến những thay đổi của thị trường này. Tuy nhiên đây lại là một thị trường khó tính, yêu cầu cao về chất lượng, kiểu dáng rất cầu kỳ, đòi hỏi trình độ kỹ thuật cao, do đó để tiếp tục duy trì và tăng kim ngạch xuất khẩu của Xí nghiệp vào thị trường này, Xí nghiệp cần có nhiều cố gắng tăng cường hoạt động tự cung tự cấp nguyên liệu trong quá trình sản xuất, cải tiến máy móc kỹ thuật, xúc tiến quan hệ nhiều mặt với đối tác EU. Thị trường Mỹ Mỹ là nước nhập khẩu hàng dệt may lớn trên thế giới và là thị trường đầy tiềm năng đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Trong năm 2001 và 2002, do ảnh hưởng của sự kiện 11-9 nên số lượng sản phẩm gia công xuất khẩu sang Mỹ của Xí nghiệp có giảm sút nhưng trong 6 tháng đầu năm nay kim ngạch xuất khẩu đi Mỹ tăng lên rất cao chiếm 27.7% tổng giá trị xuất khẩu. Mức tăng trưởng cao của dệt may Việt Nam thời gian qua (kim ngạch xuất khẩu đạt 975 triệu USD) với trên 20 mã hàng vượt quá 1% tổng thị phần nhập khẩu khiến Mỹ đưa ra yêu cầu xúc tiến đàm phán và hiện đã ký Hiệp định dệt may với Việt Nam và đã hạn chế bằng quota từ 25-04-2003. Đây là một yếu tố bất lợi ảnh hưởng tới hoạt động sản xuất kinh doanh của Xí nghiệp nói chung và hoạt động gia công xuất khẩu nói riêng. Rất nhiều các đơn đặt hàng cho xí nghiệp xuất khẩu đi Mỹ nhưng đứng trước hoàn cảnh hiện tại, Xí nghiệp đã phải chuyển sang cho các đơn vị bạn để xuất khẩu uỷ thác. Trong thời gian tới việc gia công xuất khẩu sang thị trường Mỹ sẽ gặp rất nhiều khó khăn do vấn đề hạn ngạch đòi hỏi Xí nghiệp phải linh hoạt tìm kiếm các đối tác ở những thị trường mới. Các thị trường khác Nhật Bản Xí nghiệp đã có những bạn hàng lớn tại đây nhưng những đơn đặt hàng từ phía Nhật thường không đều và chủ yếu là hàng quần áo trẻ em vốn không phải là mặt hàng truyền thống của Xí nghiệp. Tại đây, hàng dệt may Trung Quốc hiện đang tràn ngập thị trường. Trung Quốc chiếm gần 90% tổng trị giá hàng dệt may nhập khẩu vào Nhật trong khi đó, Việt Nam chỉ chiếm 3-5%. Để cạnh tranh với hàng Trung Quốc giành lại một phần thị trường Nhật Bản, không chỉ Xí nghiệp mà các doanh nghiệp may mặc xuất khẩu cần phải cố gắng rất nhiều đặc biệt là khâu quản lý chất lượng bởi tại thị trường này yêu cầu về chất lượng sản phẩm là rất cao; bên cạnh đó là các yêu cầu về mẫu mã kiểu dáng sản phẩm phải phù hợp với các phong tục tập quán của đất nước và con người cũng là yếu tố mà các doanh nghiệp xuất khẩu may mặc phải tìm hiểu nghiên cứu kỹ trước khi xâm nhập vào thị trường này. Australia Xí nghiệp chưa khai thác được hết tiềm năng về sản phẩm may mặc tại đây, mặc dù mặt hàng quần âu là mặt hàng được tiêu dùng phổ biến ở đây và trước đây Xí nghiệp đã từng thực hiện một số đơn đặt hàng về sản phẩm này và đã được bạn hàng đánh giá rất cao. Châu á Là thị trường lớn với GDP đạt trên 580 triệu và dân số là hơn 460 triệu người. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu dệt may Việt Nam vào các nước ASEAN thậm chí chưa vươn tới mức 100 triệu USD. Đối với Xí nghiệp thì đây là một thị trường đầy tiềm năng có thể phát triển mang lại nhiều lợi ích kinh tế. Tại một số triển lãm về sản phẩm dệt may của các nước trong khu vực, Xí nghiệp cũng đã trưng bày giới thiệu sản phẩm may của xí nghiệp mình và cũng đã nhận được lời mời của một số khách hàng từ Singapore, Indonexia… 2.2.2.2 Đặc điểm về cơ cấu sản phẩm gia công may mặc xuất khẩu Trước đây, mẫu mã các sản phẩm gia công may mặc xuất khẩu thường do các bên đối tác đưa ra nên phụ thuộc nhiều vào thị trường tiêu thụ. Đối với các bạn hàng truyền thống thì các mặt hàng đặt gia công cũng thường là những mặt hàng quen thuộc với Xí nghiệp như áo jacket, áo sơ mi và quần âu… Tuy nhiên, trong điều kiện hiện nay thì việc có nhiều mẫu mã sản phẩm cũng sẽ đồng nghĩa với việc thu hút được nhiều khách hàng hơn và khả năng đáp ứng nhu cầu của khách hàng cũng được đánh giá cao hơn. Chính vì lý do trên nên ngoài các sản phẩm truyền thống, Xí nghiệp cũng đã tìm hiểu thiết kế thêm các mặt hàng khác nhằm đáp ứng yêu cầu đa dạng của khách hàng trên thếgiới. Tuy nhiên, việc xuất khẩu các mặt hàng mới như quần áo trẻ em, bít tất … đã không mang lại hiệu quả kinh tế cao cho Xí nghiệp. Có rất nhiều lý do khiến các mặt hàng này vẫn chưa thể phát triển mạnh trong đó có một lý do quan trọng là các dây chuyền sản xuất của Xí nghiệp đã cũ, công nhân thì quen với việc sản xuất các sản phẩm đơn giản trong khi các sản phẩm mới đòi hỏi hàm lượng kỹ thuật cao, cầu kỳ trong khâu thiết kế cũng như trong sản xuất. Trong điều kiện cạnh tranh, Xí nghiệp cần quan tâm đến việc đa dạng hoá cơ cấu các mặt hàng để có thể cạnh tranh, thu hút thêm khách hàng với những sản phẩm mới đồng thời tìm ra mặt hàng có hiệu quả kinh tế cao để đầu tư sản xuất kinh doanh. Bảng 3: Cơ cấu mặt hàng gia công xuất khẩu Mặt hàng 1999 2000 2001 2002 6 tháng năm2003 Giá trị (1.000USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000USD) Tỷ trọng (%) Giá trị (1.000USD) Tỷ trọng (%) áo jacket 553,7 58,5 424,8 55,7 2.346,9 61,1 3.027,9 66,2 894 36,5 áo sơ mi 221,5 23,4 182,4 23,9 851,1 22,3 821 33,5 Quần 101,2 10,7 92,2 12,1 427,4 11,2 812,5 17,8 402,4 16,4 Váy 53,2 3,72 40,3 5,3 102,7 2,7 412,3 9,0 200,3 8,17 MH khác 34,2 3,68 22,5 3,0 81,8 2,2 319,3 7,0 133,3 5,43 Tổng 945,9 100 762,1 100 3.810 100 4.572 100 2.451 100 Nguồn: Báo cáo tổng kết xuất khẩu của xí nghiệp Gia công xuất khẩu của Xí nghiệp đạt 1.562 nghìn USD năm 2000. Ngoài thị trường có hạn ngạch EU, Xí nghiệp đã xuất hàng Free quota được 403.672 sản phẩm may tương đương 1,2 nghìn USD. Trong năm 2001 cho ra đời 445.743 sản phẩm tự sản xuất các loại, thu được 3.810 nghìn USD. Đến đầu năm 2003 tình hình gia công may mặc của Xí nghiệp không những được duy trì mà còn có dấu hiệu phát triển khá tốt. Sáu tháng đầu năm 2003, Xí nghiệp đạt kim ngạch xuất khẩu là 2.451 nghìn USD. Nhìn chung mặt hàng gia công chủ yếu của xí nghiệp vẫn là áo jacket và áo sơ mi. Tuy nhiên, trong năm 2002, xí nghiệp đã không nhận được một đơn đặt hàng áo sơ mi nào do thị trường tiêu thụ trên thế giới có rất nhiều biến động và do các sản phẩm từ Trung Quốc tung ra rất nhiều. Sáu tháng đầu năm 2003, xí nghiệp gia công xuất hàng áo jackét đạt 36,5% và áo sơ mi đạt 33,5% trong tổng số mặt gia công xuất khẩu; sáu tháng cuối năm 2003 xí nghiệp dự kiến gia công xuất khẩu hai mặt hàng trên đạt 48%. Một điểm đáng chú ý trong cơ cấu mặt hàng gia công xuất khẩu của Xí nghiệp là hiệu quả kinh tế mà từng mặt hàng này mang lại bởi trong thực tế, mặt hàng áo jacket xuất khẩu của xí nghiệp tuy có doanh thu cao nhất nhưng lợi nhuận mà mặt hàng này mang lại không thực sự cao. Vì thế, ngoài việc chú ý đến những mặt hàng có doanh thu xuất khẩu cao Xí nghiệp cũng cần quan tâm phát triển các mặt hàng có doanh thu thấp nhưng lại có lợi ích kinh tế cao hơn các mặt hàng khác. 2.2.3 Ưu điểm và những vấn đề còn tồn tại trong công tác gia công may mặc xuất khẩu ở Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung 2.2.3.1 Ưu điểm Trong những năm qua khi các doanh nghiệp Nhà nước gặp khó khăn nhiều trong tình hình mới thì Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung đã vươn lên tăng dần doanh thu qua các năm; đồng thời tạo một thế đứng vững chắc trong ngành dệt may, tạo uy tín trên thị trường bằng chất lượng sản phẩm. Xí nghiệp đã giữ được các bạn hàng truyền thống, phát triển bạn hàng mới, nhanh nhạy tìm hàng bù vào những thời điểm trống việc do nguyên phụ liệu của khách không về kịp. Quá trình sản xuất được diễn ra đều đặn theo đúng tiến độ, không để xảy ra tình trạng ùn tắc hợp đồng. Xí nghiệp đã kiện toàn bộ máy quản lý từ Ban Giám đốc xí nghiệp tới các phòng chức năng và các phân xưởng đảm bảo hoạt động có hiệu quả và giảm được các chi phí phát sinh không cần thiết. Tăng cường kiểm tra các tiêu chuẩn, định mức kỹ thuật đối với từng mặt hàng. Trong năm 2002, xí nghiệp đã rà soát lại định biên của tất cả các phân xưởng; đánh giá lại chất lượng của lao động để có hướng đào tạo, tuyển dụng, bổ sung những lao động mới. Trong 6 tháng cuối năm 2002, xí nghiệp đã tổ chức thi nâng bậc tay nghề cho 237 lao động và đạt mức nâng bậc được 225 lao động; tổ chức 2 đợt thi tuyển và tuyển dụng chính thức được 95 lao động mới. Xí nghiệp cũng đã tổ chức được một lớp học về tổ chức quản lý sản xuất cho các cán bộ chủ chốt từ phó Giám đốc đến các trưởng phó phòng, tổ trưởng sản xuất, kỹ thuật, thu hoá của phân xưởng do chuyên gia Nhật Bản giảng gồm 60 người tham gia và đạt kết quả tốt. Xí nghiệp đã cố gắng khai thác triệt để kho tàng, nhà cửa chưa sử dụng đến để cho thuê làm tăng thu nhập kinh doanh trong những lúc tình hình sản xuất gặp khó khăn. Mọi hoạt động mua bán đều có các phương án dự trù. Mọi mã hàng đều có phương án giá thành sản xuất, kinh doanh. Quản lý chi phí tại các phân xưởng theo định mức. Xí nghiệp đang triển khai quản lý tài sản cố định đến từng đầu máy, có sổ sách, lý lịch đăng ký cho từng máy làm nâng cao ý thức trách nhiệm của từng cá nhân đối với tài sản tại xí nghiệp. Đồng thời máy móc thiết bị cũng được tăng cường bảo dưỡng, sửa chữa theo định kỳ hàng năm, quý Năng động trong kinh doanh, thực hiện đa dạng hoá, đa phương hoá trong phương thức làm ăn, lấy hiệu quả kinh doanh làm mục tiêu. Từ chỗ còn là một mặt hàng mới mẻ, gia công may mặc đã trở thành hoạt động sản xuất kinh doanh chủ yếu của Xí nghiệp, góp phần giải quyết công ăn việc làm, tạo nguồn thu lớn cho Xí nghiệp. Vì thế mặc dầu các bạn hàng truyền thống đều giảm về số lượng đặt hàng nhưng trong sáu tháng đầu năm 2003, phòng kế hoạch đã phát triển thêm được hai bạn hàng mới so với năm 2002. Kết quả sáu tháng đầu năm 2003, Xí nghiệp đã phấn đấu hoạt động tương đối ổn định với sản lượng 230.118 sản phẩm đạt doanh số khoảng 2.451 nghìn USD. 2.2.4.2 Những mặt tồn tại và nguyên nhân Cho đến nay phương thức xuất khẩu của Xí nghiệp vẫn chủ yếu là theo phương thức xuất khẩu uỷ thác và gia công. Sản phẩm của Xí nghiệp mới chỉ dừng lại ở các mặt hàng thông thường do bên đối tác đưa mẫu như quần âu và áo Jacket, chưa xuất khẩu được các mặt hàng cao cấp hoặc các mặt hàng thiết kế và sản xuất theo mẫu riêng. Xí nghiệp chỉ thực hiện quá trình gia công sản phẩm từ các nguyên phụ liệu mà khách hàng gửi tới và hưởng chi phí gia công nên hiệu quả kinh tế thấp. Thị trường sản phẩm may là thị trường cạnh tranh hoàn hảo, do đó Xí nghiệp may xuất khẩu Lạc Trung phải cạnh tranh với rất nhiều các doanh nghiệp khác trên thị trường. Vì vậy vần đề thị trường tiêu thụ sản phẩm là một vấn đề nan giải trong khi xí nghiệp vẫn chưa đầu tư đúng mức vào công tác này. Tình trạng đổi mới trang thiết bị, công nghệ của xí nghiệp hiện nay còn chậm chạp so với yêu cầu thị trường. Mặt khác, quy mô sản xuất và trình độ quản lý không phù hợp nên tiềm năng chưa được khai thác đúng mức. Trình độ công nhân lao động trong ngành chưa thực sự cao, số lượng lao động có tay nghề còn hạn chế, đặc biệt thiếu hẳn đội ngũ thiết kế sản phẩm. Về vấn đề giao hàng, Xí nghiệp sản xuất, gia công hàng may mặc cho các đối tác nước ngoài nên việc lựa chọn phương thức vận tải, phương thức thanh toán thường bị phụ thuộc vào phía đối tác. Xí nghiệp mới chỉ thực hiện ở dạng FOB chưa có những mặt hàng ở dạng CIF nên giá cả giao nhận thấp. Sở dĩ còn những tồn tại trên là do nhiều nguyên nhân khác nhau: Xét về phía bên ngoài, ta có thể thấy được hệ thống pháp luật nước ta chưa hoàn chỉnh, thủ tục hành chính rườm rà. Đặc biệt là sự cạnh tranh gay gắt, đôi khi còn là tình trạng tranh giành nhau trong từng hợp đồng, nên thường bị phía nước ngoài lợi dụng thời cơ ép giá, gây nên tính yếu kém trong hiệu quả kinh doanh. Sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế của Xí nghiệp bị giảm sút do thị trường gia công hàng may mặc của Trung Quốc phát triển mạnh với chi phí thấp nên có nhiều khách hàng đã chuyển hướng đầu tư sang Trung Quốc. Ngoài ra, trong nước cũng có nhiều đơn vị kinh tế hoạt động trong lĩnh vực xuất khẩu may mặc và điều kiện về lao động, về kỹ thuật, máy móc thiết bị tốt hơn của xí nghiệp, chi phí sản xuất – kinh doanh thấp nên khả năng cạnh tranh của họ cao hơn. Xét về những nguyên nhân bên trong ta có thể kể đến những yếu tố khác: - Máy móc thiết bị cũ, lạc hậu và một số đã hết khấu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docA0091.doc
Tài liệu liên quan