Ngày 8/7/1999 Chính phủ đã ban hành Nghị định 52/1999/NĐ-CP về Quy chế quản lý đàu tư và xây dựng. Tuy thời gian thực hiện chưa nhiều, song có thể thấy Nghị định này đã chỉnh sửa được một số nội dung chủ yếu sau:
Đã sửa đổi cơ chế bao cấp trong phương thức quản lý nguồn vốn đầu tư. Trước đây tất cả mọi nguồn vốn đầu tư của Nhà nước (cấp phát ngân sách, vốn tín dụng đầu tư Nhà nước, vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp, vốn huy động từ nguồn vốn khác, vốn tín dụng thương mại) đều được quản lý như nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước. Điều này đã không phát huy được các nguồn lực kinh tế - xã hội cho đầu tư phát triển. Do đó quy chế đã sửa đổi phương thức quản lý các nguồn vốn đầu tư theo tính chất của từnh loại vốn và theo quy mô của dự án nhằm phát huy quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đối với các dự án Nhóm B, C sử dụng vốn tín dụng thương mại và vốn đầu tư phát triển của doanh nghiệp. Từ đó dẫn đến việc sửa đổi phân cấp quyết định đầu tư; phân cấp quyết định quá trình thực hiện đầu tư và đưa dự án vào khai thác sử dụng phù hợp với tinhs chất của từng loại nguồn vốn.
48 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1756 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng cường thu hút và sử dụng vốn ODA ở Việt Nam giai đoạn 2001 - 2005, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng trình ESAF/PRGF và SAC, thì nguồn vốn ODA giải ngân nhanh chủ yếu là các khoản vay hỗ trợ cho các ngành. Khoản giải ngân lớn nhất trong năm 2000 (gần 43 triệu USD) được thực hiện trong khuôn khổ chương trình thuộc khu vực tài chính của ADB.
Chương trình này nhằm tăng mức tiết kiệm và nâng cao tính hiệu quả trong việc phân bổ nguồn lực thông qua khuyến khích cạnh tranh và tăng cường áp dụng cơ chế thị trường. Khoản giải ngân lớn thứ hai (25 triệu USD) liên quan tới khoản cho vay tín dụng của WB phục vụ cho người dân ở các vùng nông thôn nhằm cải thiện điều kiện sống của họ. Tổng mức giải ngân của loại hình ODA này phần nào thấp hơn so với năm 1998 và năm 1999 do mức giải ngân của chương trình tín dụng nông thôn cuả ADB giảm đi và chương trình trả nợ của WB nhằm giải quyết khoản nợ thương mại tồn đọng của khu vực tư nhân và tăng cường khả năng tiếp cận với thị trường vốn quốc tế đã kết thúc.
Theo dự báo của WB, trong giai đoạn 2001-2005 cần phải giải ngân nhanh tổng số 1,2 tỷ USD hay khoảng 250 triệu USD/năm. Nếu viện trợ giải ngân nhanh được cung cấp thì nó sẽ tài trợ cho nhu cầu bổ sung về cán cân thanh toán nảy sinh từ việc tiếp tục tự do hoá chế độ nhập khẩu và nhu cầu nhập khẩu bổ sung các mặt hàng vật tư và xây dựng cơ bản cũng như các chi phí ngân sách cho việc đổi mới cơ cấu các doanh nghiệp Nhà nước và ngành ngân hàng. Theo dự kiến, khoản kinh phí đó sẽ do IMF, WB và ADB cung cấp kết hợp với một số khoản viện trợ không hoàn lại của các nhà tài trợ song phương (WB/ADB/UNDP,2000). Gần đây, Nhật Bản đã tiến hành bước đầu tiên với việc cung cấp khoản vay giải ngân nhanh 20 tỷ yên (tương đương với 187 triệu USD vào tháng 3 năm 2000) theo chương trình Miyazawa.
Sự thay đổi về thành phần ODA được thể hiện trên phương diện điều kiện tài chính, trong tỷ lệ vốn vay trên phạm vi toàn cầu không ngừng gia tăng. Tỷ trọng vốn vay trong tổng nguồn vốn ODA năm 1993 ở mức thấp nhất, chỉ có 10%. Trong năm 1996 cũng như năm 1997, tỷ trọng này tăng vọt lên 54%, sau đó lên 65% vào năm 1998 và cuối cùng lên 69% vào năm 1999 .Nguồn vốn ODA vay có thể sẽ tiếp tục tăng với những khoản cam kết mới được đưa ra vào năm 2000 cũng như do việc tiếp tục các chương trình SAC và ESAF/PRGF sau năm 2000. Những khoản vốn vay này cần được đầu tư trên cơ sở tính toán kỹ lưỡng để đảm bảo tính bền vững và sự ổn định của quá trình phát triển ở Việt Nam. Mối liên kết về thể chế bền chặt giữa việc huy động ODA và công tác quản lý nợ nước ngoài, đặc biệt là công tác lập kế hoạch ngân sách, sẽ có ý nghĩa quan trọng để kiểm soát tính bền vững về nợ nước ngoài của Việt Nam về lâu dài. Việc gắn với kế hoạch ngân sách còn giúp quản lý tốt hơn các hoạt động và các chi phí bảo trì những công trình cơ sở hạ tầng mới trong tương lai ở Việt Nam.
4.Đánh giá ODA theo các nhà tài trợ
Mười nhà tài trợ lớn nhất trong năm 2000 vẫn rất giống với năm trước đó. Toàn bộ kinh phí do mười nhà tài trợ cung cấp chiếm hơn 90% tổng nguồn vốn ODA cho Việt Nam.
Nhật Bản đã củng cố vị trí là nhà tài trợ lớn nhất ở Việt Nam, với mức giải ngân đạt 531 triệu USD. Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản (JIBIC) đã đẩy nhanh đáng kể tốc độ giải ngân cho một số dự án giao thông vận tải và điện lực có quy mô lớn. Như vậy nghành năng lượng đã tiếp nhận hơn 2/3 tổng mức giải ngân của JBIC trong năm 2000. Phần lớn số kinh phí còn lại được chi cho việc xây dựng đường quốc lộ, khôi phục cầu và xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng nông thôn trong nghành giao thông vận tải. Nguồn ODA không hoàn lại của JICA nói chung là ổn định so vơí năm 1999 và được đầu tư đặc biệt cho các chương trình đào tạo (về công nghệ), giao thông vận tải và y tế. Một trong số những dự án được biết đến nhiều nhất là dự án cải tạo Bệnh viện Bạch Mai, trong đó có cả phần cung cấp trang thiết bị y tế .Dự án này về cơ bản đã được hoàn thành vào năm 2000.
ADB có mức giải ngân lớn thứ hai (gần 200 triệu USD). Giao thông vận tải vẫn là ngành được ADB đầu tư nhiều nhất, với mức giải ngân gần 69 triệu USD. Các hoạt động hỗ trợ của ADB cho nghành năng lượng đã tăng lên 5 lần. Sự hỗ trợ của ADB cho lĩnh vực thể chế và chính sách thậm chí còn tăng với mức độ cao hơn nhiều và vì vậy nó đã trỏ thành lĩnh vực hỗ trợ lớn thứ hai của ADB. Đây chủ yếu là kết qủa triển khai chương trình hỗ trợ trong ngành tài chính của ADB như nêu ở trên, với mức giải ngân 43 triệu USD trong năm 2000. Trong năm 2000, ADB dự kiến tiếp tục tăng tổng mức giải ngân.
Sau khi đạt tới đỉnh cao trong năm 1998, mức giải ngân của WB lại giảm khoảng 100 triệu USD xuống còn 158 triệu USD trong năm 2000. Hơn một nửa mức giảm đó là do tiến độ thực hiện dự án khôi phục nhà máy điện bị chậm lại, còn khoảng 1/3 mức giảm là do chương trình hỗ trợ giảm nợ đã kết thúc. Tốc độ giải ngân cho nghành giao thông vận tải đã tăng lên, do đó giữ ổn định tỷ trọng đầu tư cho các công trình cơ sở hạ tầng lớn ở mức hơn 50% trong tổng kinh phí tài trợ của WB. Lĩnh vực hỗ trợ lớn thứ hai của WB là phát triển nông thôn, với tổng mức cam kết là 113 triệu USD mà thực chất là các khoản giải ngân nhanh. Hơn một nửa số kinh phí này đã dược giải ngân trong hai năm qua. Khoản kinh phí này nhằm xúc tiến đầu tư của khu vực tư nhân trong nước, nâng cao năng lực của ngành Ngân hàng để cấp kinh phí cho các khoản đầu tư này và tăng cường khả năng tiếp cận của người nghèo nông thôn với các dịch vụ tài chính. Những dự án mới được phê duyệt vào năm 2000 và sẽ thực hiện các khoản chi tiêu trong tương lai nhằm hỗ trợ công tác quản lý tài nguyên nước ở Đồng bằng sông Cửu Long cũng như cung cấp nước và các phương tiện vệ sinh môi trường ở một số thành phố của Việt Nam.
Giải ngân của các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc gần như ổn định trong năm 1999-2000 ở mức 52-53 triệu USD. Trong số các tổ chức này, UNDP với các nguồn kinh phí trong phạm vi quản lý của mình vẫn là nhà tài trợ lớn nhất, theo sát UNDP là UNICEF và WFP với lượng kinh phí giải ngân của mỗi tổ chức này trong năm 2000 là 11-12 triệu USD. Mức giải ngân của UNDP sau một vài năm bị giảm sút đã lại tăng hơn gấp đôi. ODA do các tổ chức thuộc Liên Hợp Quốc cung cấp chủ yếu dưới hình thức viện trợ không hoàn lại thuần tuý để phục vụ cho các dự án hỗ trợ kỹ thuật .Ngành y tế nhận được nhiều ODA (14,3 triệu USD) hơn hẳn so với các ngành khác đặc biệt là từ WTO, UNFPA và UNICEF. Lượng kinh phí này được chi cho các chương trình như tiêm chủng mở rộng, sức khoẻ và dược liệu quốc gia, chăm sóc sức khoẻ ban đầu và dinh dưỡng, tăng cường sức khoẻ sinh sản và sức khoẻ bà mẹ. Một lượng kinh phí đáng kể cũng được đầu tư cho các hoạt động chuẩn bị phòng chống thiên tai, xây dựng thể chế, giáo dục phát triển nông thôn và Quỹ Môi trường toàn cầu (GEF).
Trong năm 2000, Pháp, Đức, Ôts-xtrây-lia, Thuỵ Điển, Đan Mạch và Cộng đồng Châu Âu nằm trong nhóm 10 nhà tài trợ lớn nhất cho Việt Nam. Phần lớn trong số 71 triệu USD do Pháp tài trợ được chi cho các lĩnh vực công nghiệp, phát triển con người, thông tin liên lạc và cơ sở hạ tầng. Hai khoản giải ngân lớn nhất, chiếm tới 1/4 tổng mức giải ngân trong năm 2000, dành cho các nhà máy đường Quảng Ngãi và nhà máy đường ở Tây Ninh. Đầu tư cho phát triển nông thôn tăng gần gấp đôi tới khoảng 1/4 tổng mức giải ngân. Trong khi đó, tỷ trọng lớn nhất (hơn 30%) tiếp tục được đầu tư cho cơ sở hạ tầng thuộc các ngành năng lượng, giao thông vận tải, phát triển đô thị, nước sạch và vệ sinh môi trường.
Đức giải ngân khoảng 51 triệu USD chủ yếu tập trung vào công nghiệp, y tế và nông nghiệp. Mức đầu tư cho ngành năng lượng tăng nhiều nhất, song vẫn chiếm tỷ lệ chưa đến 10% tổng mức giải ngân của Đức. Trong năm 2000, mức giải ngân của Ôts-xtrây-lia tăng 1/4 lên tới 48 triệu USD dưới hình thức viện trợ không hoàn lại thuần tuý, và tập trung cho phát triển nguồn nhân lực, giao thông vận tải và y tế.
Cộng đồng các tổ chức phi chính phủ (NGO) quốc tế ở Việt Nam cung cấp những khoản kinh phí tài trợ lớn. Tuy nhiên những khoản tài trợ này chỉ được phản ánh một phần trong con số tổng mức ODA vì cơ sở dữ liệu ODA của UNDP chỉ tổng hợp những dự án có kinh phí từ 50.000 USD trở lên mà được các nhà tài trợ song phương và đa phương thực hiện và gửi số liệu cho UNDP. Theo ước tính của Trung tâm dữ liệu NGO, tổng mức viện trợ của các tổ chức NGO quốc tế trong năm 2000 vào khoảng 82 triệuUSD, tương tự như năm 1999. Các tổ chức này mang đến cho Việt Nam những bài học quan trọng và các phương pháp thực tiễn rút ra từ kinh nghiệm quốc tế, đặc biệt trong các chương trình xoá đói giảm nghèo ở cấp huyện và xã.
5.Đánh giá ODA theo vùng, lãnh thổ.
Phần này phân tích tình hình phân bổ ODA theo vùng lãnh thổ ở Việt Nam. Để thực hiện việc phân tích các dự án được chia thành ba loại (i) các dự án ở cấp “trung ương/quốc gia”, tức là các dự án ODA do Chính phủ Trung ương thực hiện về nguyên tắc nhằm phục vụ cho lợi ích của quốc gia (như các khoản vay để hỗ trợ cán cân thanh toán vì mục đích chung); (ii) các dự án “toàn quốc”, tức là các dự án ODA được thực hiện trên phạm vi toàn quốc, chứ không riêng cho tỉnh nào (như các chươnng trình quốc gia về tiêm chủng mở rộng); và (iii) các dự án cấp “tỉnh”, tức là các dự án ODA được phân bổ cho các tỉnh cụ thể, trong đó có ba thành phố Hà Nội, Thành phố Hồ Chí Minh và Hải Phòng. Với trọng tâm chú ý vào loại thứ ba, phần này phân tích cách thức phân bổ ODA cho các tỉnh và thành phố. Kết quả phân tích được trình bày ở biểu đồ sau.
Nguồn:Báo cáo điều tra ODA của UNDP
Có thể rút ra bốn kết luận trên cơ sở phân tích sự phân bổ ODA theo vùng lãnh thổ. Thứ nhất, tỷ trọng ODA đầu tư cho các dự án cấp tỉnh - là loại hình dự án phổ biến - đã tăng đáng kể. Vào năm 1995, các dự án ODA “Trung ương/quốc gia” và “toàn quốc” chiếm khoảng 70% tổng mức giải ngân, nhưng tình hình trong năm 2000 hoàn toàn đảo ngược với tỷ trọng ODA đầu tư cho các dự án ODA cấp tỉnh là 70%. Điều đó cho thấy xu thế phân bổ nguồn vốn ODA cho các tỉnh ngày càng tăng, có nghĩa là viện trợ phát triển ngày càng được đầu tư nhiều hơn cho các dự án cấp tỉnh. Tuy nhiên, điều đó không có nghĩa là việc thực hiện và quản lý ODA cũng được phân cấp cho các tỉnh. Mặc dù trong những năm qua một số bước quan trọng đã được triển khai trong lĩnh vực này, song tiến trình ODA chủ yếu vẫn mang tính tập trung. Điều đó dường như phù hợp với xu hướng tăng cường phân cấp các khoản chi tiêu công cộng. Mặc dù quyền hạn chi phối các quyết định chi tiêu chủ yếu vẫn thuộc về cấp Trung ương, song cấp địa phương đã được trao vai trò lớn trong việc cung cấp các dịch vụ công cộng trong thập kỷ vừa qua (theo kết quả kiểm điểm chi tiêu công cộng năm 2000).
Thứ hai tổng nguồn vốn ODA trong 5 năm qua tăng lên đã mang lại lợi ích cho tất cả các vùng, tuy không cùng mức độ như nhau. Vùng núi phía Bắc được hưởng lợi hơn nhiều so với tỷ lệ tăng ODA nói chung. Đặc biệt trong năm 2000, mức giải ngân đã tăng vọt do các khoản đầu tư cho nhà máy điện Phả Lại, giờ đây đã nhận được 281 triệu USD. Tổng cộng trong các năm 1996-2000, Đồng bằng sông Hồng được xếp ở vị trí cao nhất về mức giải ngân ODA. Ngược lại, Tây Nguyên có mức đầu tư ODA thấp nhất trong năm 2000 cũng như trong toàn bộ giai đoạn nói trên. Để hỗ trợ quản lý ảnh hưởng của lũ lụt ở Đồng bằng sông Cửu Long, tình hình phân bổ ODA theo vùng lãnh thổ thay đổi trong năm 2000 và có khả năng thay đổi trong những năm sau đó.
Mục tiêu cuối cùng của viện trợ phát triển là nâng cao chất lượng cuộc sống của người dân, trong ba năm qua sự chênh lệch giữa các vùng đã phần nào tăng lên. Trên thực tế người dân ở vùng núi phía Bắc và Đồng bằng sông Hồng được thụ hưởng nguồn vốn ODA cao hơn đáng kể so với trường hợp ODA được phân bổ dựa trên số dân, do vậy có mức ODA tính theo đầu người khá cao.ở miền Đông Nam Bộ, trong đó có Thành phố Hồ Chí Minh, mức giải ngân ODA cân đối hơn với số dân ở mỗi nơi. ở tất cả các vùng khác của Việt Nam, đặc biệt là Đồng bằng sông Cửu Long, mức ODA tính theo đầu người đều thấp hơn so với trung bình quốc gia (hơn 14 USD).
Thứ tư, hoàn toàn có thể lý giải cho sự chênh lệch về ODA tính theo đầu người giữa các vùng của Việt Nam nếu sự phân bổ các khoản ODA được giải ngân theo vùng lãnh thổ phù hợp với sự phân bổ của tình trạng nghèo đói trên toàn quốc. Theo kết qủa của cuộc điều tra mức sống ở Việt Nam lần thứ hai trong năm 1997/1998, sử dụng chuẩn nghèo dựa trên các khoản chi về lương thực và phi lương thực, tỷ lệ nghèo ở Việt Nam nằm trong khoảng 30-45% hay trung bình là 37%. Gần 2/3 người nghèo Việt Nam sống ở ba khu vực: vùng núi phía Bắc (gần 8 triệu người, tương đương 28%), Đồng bằng sông Cửu Long (hơn 6 triệu người, tương đương 21%) và duyên hải Bắc Trung bộ (5 triệu người, tương đương với 18%).
Qua phân tích tình hình thực hiện ODA ở trên ta thấy việc thực hiện ODA trong thời gian qua đã có những kết quả bước đầu phục vụ cho sự nghiệp phát triển kinh tế, xã hội Việt Nam, đã đạt được một số mục tiêu của Chính phủ đề ra, phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, góp phần xoá đói giảm nghèo, nâng cao trình độ dân trí.
6.Các vấn đề trong thực hiện vốn ODA .
Tuy việc thực hiện các dự án ODA tại Việt Nam đã được cải thiện nhiều sau 8 năm tiếp nhận, vẫn còn tồn tại nhiều bất cập gây ảnh hưởng đến tiến độ và chất lượng của dự án, cụ thể :
6.1.Công tác tái định cư và giải phóng mặt bằng (GPMB) bị chậm. Đây là vấn đề phổ biến mà các dự án có cấu phần xây dựng cơ bản thường gặp phải, đặc biệt trong các ngành giao thông, thuỷ lợi, điện, cấp thoát nước. Việc tái định cư bắt buộc để giải phóng mặt bằng luôn là vấn đề nhạy cảm. Hơn nữa, do những hạn chế của nghị định 22/CP về đền bù, tái định cư nên phần lớn việc GPMB ở các dự án đều bị chậm nhiều so với dự kiến.
6.2.Thiếu vốn đối ứng cho các dự án ODA. Điều này thường không xảy ra với các dự án mà vốn đối ứng được lấy trực tiếp từ ngân sách trung ương mà tập trung chủ yếu tại các dự án phải cân đối nguồn vốn này từ ngân sách các cơ quan cấp Bộ và cấp tỉnh. Theo một tổng kết gần đây, trong năm 2000, số dự án thiếu vốn đối ứng tại các tỉnh là:
Nghệ An : 5 dự án
Hải Phòng : 4 dự án
Bình Thuận : 2 dự án
Phú Thọ : 2 dự án
Bộ Lao động - Thương binh và xã hội : 4 dự án
Uỷ ban Quốc gia Dân số và KHHGĐ :1 dự án.
Việc thiếu vốn đối ứng đặc biệt dễ xảy ra với các dự án chi theo phương thức hành chính sự nghiệp. Lý do của điều này một phần là vì chỉ tiêu kế hoạch vốn hành chính sự nghiệp đối với các dự án ODA này (cả vốn trong nước và ngoài nước) từ trước đến nay chưa được giao nên thường bị động và chi phối bởi tổng định mức giá trị chi hành chính sự nghiệp đối với các Bộ, tỉnh.
6.3.Khác biệt trong quy trình và thủ tục dự án của phía Việt Nam và các nhà tài trợ. Sự thiếu hài hoà này, đặc biệt tại các khâu thẩm định, phê duyệt hay đấu thầu là nguyên nhân không nhỏ dẫn đến việc làm chậm tiến độ thực hiện các dự án. Trên thực tế, đối với các dự án đầu tư trong thời gian qua, rất ít dự án hoàn thành đúng tiến độ.
6.4.Vấn đề của các ban quản lý dự án (BQLDA): Có nhiều lý do dẫn đến sự hoạt động thiếu hiệu quả của các ban quản lý dự án: Thiếu ổn định về nhân sự bộ máy, năng lực hạn chế của các cán bộ trong BQLDA (về trình độ ngoại ngữ, chuyên môn), những bất cập trong cách thức và cơ cấu tổ chức cũng như hoạt động của BQLDA, ví dụ liên quan đến điều lệ, qui chế hoạt động và định mức lương, chi tiêu của các đơn vị này.
III.Đánh giá tình hình quản lý nhà nước về ODA.
Với nhận thức rằng ODA là một trong những nguồn lực bên ngoài có ý nghĩa quan trọng, Chính phủ Việt Nam đã luôn dành một sự quan tâm lớn cho công tác sử dụng và quản lý nguồn lực này.
Ngay từ hội nghị đầu tiên các nhà tài trợ dành cho Việt Nam (tháng 11 năm 1993), Chính phủ Việt Nam đã tuyên bố quan điểm của mình về vấn đề quản lý và sử dụng ODA: “Điều quan trọng là các nguồn vốn bên ngoài phải được sử dụng có hiệu quả. Chính phủ nhận trách nhiệm điều phối và sử dụng viện trợ nước ngoài, với nhận thức sâu sắc rằng nhân dân Việt Nam sẽ là người gánh chịu cái giá phải trả cho sự thất bại nếu nguồn vốn này không được sử dụng có hiệu quả “(1).
1.Chính sách liên quan đến quản lý và sử dụng vốn ODA.
Trước năm 1993, việc quản lý và sử dụng ODA được điều tiết bởi từng quyết định riêng lẻ của Thủ tướng Chính phủ đối với từng chương trình, dự án ODA và nhà tài trợ cụ thể. Cách điều hành này đã không thể đáp ứng được yêu cầu quản lý ODA tronng tình hình mới. Do đó từ 1994 đến nay Chính phủ đã ban hành hàng loạt các văn bản pháp quy để quản lý ODA.
1.1.Nghị định 20/CP.
Năm 1993, khi bắt đầu tiếp nhận ODA, Chính phủ Việt Nam đã có các cam kết với cộng đồng tài trợ quốc tế về trách nhiệm quản lý và sử dụng có hiệu quả nguồn lực này, trước hết bằng việc xây dựng và áp dụng một khung pháp luật cho hoạt động thu hút và tiếp nhận ODA. Ngày 15/3/1994 Chính phủ ban hành nghị định 20/CP về Quy chế quản lý và sử dụng nguồn vốn ODA là biểu hiện đầu tiên để thể hiện cam kết nói trên.
Trong một bối cảnh hoàn toàn mới mẻ, Nghị định 20/CP không tránh khỏi sự đơn giản và sơ lược đối với thực tế tiếp nhận ODA không ngừng biến đổi và trở nên ngày một đa dạng và phức tạp hơn.
1.2 .Nghị định 87/CP .
Sau 3 năm thi hành, 20/CP tỏ rõ không đủ để đáp ứng với yêu cầu quản lý trong tình hình mới và do vậy 87/CP ra đời vào ngày 5/8/1997. Điểm khác nhau căn bản của Nghị định này so với 20/CP ra đời trước đó thể hiện ở các điểm:
(i) Quy định một cách cụ thể trách nhiệm, chức năng, quyền hạn của các Bộ, ngành có tham gia quản lý điều hành vốn ODA, đặc biệt là 5 cơ quan tham mưu như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính, Bộ ngoại giao, Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, Văn phòng Chính phủ.
(ii) Có sự phân cấp mạnh trong quá trình thẩm định, phê duyệt các dự ánODA. Giao trách nhiệm nhiều hơn cho các Bộ, các địa phương trong quá trình xây dựng, phê duyệt, thẩm định dự án.
(iii) Giảm bớt một cách đáng kể các thủ tục, đẩy nhanh hơn quá trình tiếp nhận và sử dụng nguồn vốn ODA, nhất là các dự án đầu tư.
(iv) Đảm bảo thống nhất được nội dungvới các văn bản có liên quan. Nhất là các văn bản trong lĩnh vực đầu tư xây dựng cơ bản.
Tuy nhiên trong quá trình thực hiện, Nghị định 87/CP cũng bộc lộ một số vấn đề tồn tại và cần được chỉnh sửa, đó là :
Trong Nghị định có quy định 8 Bộ tham gia quản lý Nhà nước nguồn vốn ODA (Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Tài chính,Bộ Ngoại giao, Văn phòng Chính phủ,Ngân hàng Nhà nước, Bộ Tư pháp, Bộ Thương mại, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ). Có ý kiến cho rằng cần mở rộng hơn nữa trách nhiệm ,nghĩa vụ và quyền hạn của các cơ quan nói trên. Tránh tình trạng nhiều đơn vị quản lý mà vẫn lỏng lẻo, chậm chạp.
Sự phân cấp phê duyệt dự án như hiện nay có còn phù hợp nữa hay không? Chính phủ phê duyệt những dự án từ mức 500.000 USD trở lên đối với viện trợ không hoàn lại có nhỏ quá không ?
Có phải trong Nghị định chỉ chú trọng nhiều về những khâu đầu như kêu gọi, chuẩn bị dự án, thẩm định, trình duyệt.. và coi nhẹ khâu kiểm tra, theo dõi, đánh giá dự án?
Để kiểm tra chặt chẽ hơn nữa chế độ báo cáo hiện nay của các chủ dự án, của các cơ quan chủ quản thì cần quy định những gì? Có công cụ gì để chế tài ?
Một số đơn vị sử dụng vốn ODA cho rằng các quy định Việt Nam và phía nước ngoài về trình tự, thủ tục xét duyệt dự án vẫn còn rườm rà, phải qua nhiều bước, nhiều cấp xét duyệt nên giai đoạn chuẩn bị dự án thường tốn nhiều thời gian (1,5 đến 3 năm). Bên cạnh đó, việc cải cách thủ tục hành chính ở các cơ quan Nhà nước chậm được đổi mới, thiếu triệt để nên ở mỗi bước đều có thể bị chậm trễ, đặc biệt là các bước thẩm định và phê duyệt nghiên cứu khả thi, phê duyệt để triển khai các hạng mức sử dụng vốn dư sau đấu thầu.
Đề nghị tiếp tục cải tiến về thủ tục và trình tự giải ngân cho các dự án ODA sao cho phù hợp với thông lệ quốc tế là trong vòng 56 ngày. Hiện nay trình tự thủ tục và thanh toán còn rườm rà tốn nhiều thời gian. Đã có một số nhà thầu yêu cầu chủ dự án thanh toán trả chậm, điều này gây khó khăn lớn cho chủ dự án và thiệt hại cho Nhà nước. Đối với các dự án do phải chờ phê duyệt bổ sung giá trị hợp đồng nên một số khôi lượng đã hoàn thành không giải ngân được gây khó khăn cho các nhà thầu.
Xem xét thêm về cơ chế cho vay lại (Quyết định số 02/2000/QĐ-BTC của Bộ tài chính). Nếu lãi xuất ưu đãi trong trường hợp cho vay bằng ngoại tệ được tính bằnh 2/3 lãi xuất thương mại tham chiếu tại thời điểm ký hiệp định cộng với phí nước ngoài (nếu có) và phí dịch vụ cho vay lại thì sẽ rất khó khăn đối với các chủ dự án trong tình hình hiện nay.
Nguồn vốn để lập đề cương, xây dựng báo cáo tiền khả thi, khả thi cho các dự án ODA hiện nay hầu như không được cấp. Nguồn kinh phí này có hay không còn tuỳ thuộc vào mức độ “linh hoạt” của các cơ quan chủ quản, các chủ dự án.
Quản lý dự án là một nghề có tính chuyên nghiệp cao, đòi hỏi cán bộ phải có phẩm chất và chuyên môn nhất định. Nhưng thực tế hiện nay có không ít dự án, cán bộ làm công tác này có sự điều độngthay đổi rất nhiều thậm chí rất tuỳ tiện, điều này làm cho phía nước ngoài khó hiểu và bất bình.
Vẫn có nhiều ý kiến đề nghị miễn thuế (nhập khẩu, VAT,..) đối với các dự án ODA.
1.3.Nghị định 17/CP.
Với 8 chương, 46 điều, Nghị định 17/CP ngày 4/5/01 về Việc Ban hành Quy chế Quản lý và Sử dụng nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA) (có hiệu lực từ 19/05/01 thay thế nghị định 87/CP, đã đề cập một cách tương đối chi tiết toàn bộ quá trình từ thu hút, vận động, đến thực hiện và theo dõi, đánh giá các chương trình, dự án ODA. Nét mới ở nghị định so với Nghị định 87/CP thể hiện ở một số điểm:
(1) Có sự điều chỉnh lại thứ tự ưu tiên các lĩnh vực sử dụng ODA với định hướng ưu tiên cao nhất là xoá đói giảm nghèo, nông nghiệp và phát triển nông thôn, đặc biệt tại các vùng nông thôn, miền núi, vùng sâu, vùng xa (Điều 3.1.a,3.2.a)
(2) Tăng cường phân cấp phê duyệt dự án trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm của các bên liên quan nhằm đảm bảo việc quản lý nhà nước chặt chẽ nguồn vốn ODA. Cụ thể, mức phê duyệt của thủ trưởng các cơ quan chủ quảnđối với các dự án hỗ trợ kỹ thuật được nâng từ dưới 500.000 USD lên dưới 1000.000 USD. (Mức phê duyệt các dự án đầu tư được điều chỉnh theo Nghịđịnh 52/CP). Quy chế cũng quy định rằng những người có thẩm quyền phê duyệt này “phải căn cứ vào các lĩnh vực ưu tiên sử dụng ODA và căn cứ vào hiệu quả kinh tế-xã hội của chương trình, dự án ODA, danh mục chương trình, dự án ODA đã được chính phủ phê duyệt và chịu trách nhiệm cá nhân về quyết định của mình” (Điều 20.2).
(3) Ban chuẩn bị chương trình, dự án ODA và Ban quản lý dự án ODA được quy định cụ thể về tổ chức, trách nhiệm và quyền hạn. Điều 13 Quy chế về Ban chuẩn bị chương trình, dự án ODA đã quy định một loạt các nhiệm vụ cho Ban này trong đó bao gồm việc nghiên cứu các quy định của phía Việt Nam và bên tài trợ về quá trình chuẩn bị ,thực hiện chương trịnh dự án và lập kế hoạch chuẩn bị chương trình, dự án ODA trình cơ quan chủ quản phê duyệt. Những nội dung trên nếu được thực hiện tốt sẽ có tác động tích cực tới tiến độ triển khai các chương trình, dự án ODA và khắc phục một trong những nguyên nhân lớn gây chậm trễ cho việc tiến hành các dự án hiện nay.
(4) Đồng bộ hoá với các văn bản quy phạm pháp luật khác có tính đặc thù của dự án ODA . Ví dụ, tại giai đoạn thẩm định dự án, trong quy chế có quy định rằng “ trong quá trình thẩm định, cơ quan chủ trì tổ chức thẩm định phải xem xét các nội dung đẫ thoả thuận với Nhà tài trợ, ý kiến thẩm định của nhà tài trợ hoặc đại diện của Nhà tài trợ, ý kiến đồng thuận hoặc ý kiến khác nhau giữa các bên phải được phản ánh trong báo cáo thẩm định” (điều 18.6) hoặc trong quá trình chuẩn bị dự án, Quy chế quy định rằng ngoài các nội dung bắt buộc theo quy chế quản lý đầu tư và xây dựng hiện hành, báo cáo nghiên cứu tiền khả thi các chương trình, dự án ODA đầu tư phải có thêm nội dung mang tính chất đặc thù của chương trình, dự án có sử dụng vốn ODA như “ lý do sử dụng vốn ODA,thế mạnh của Nhà tài trợ về công nghệ, kinh nghiệm quản lý, tư vấn chính sách thuộc lĩnh vực được tài trợ hoặc đánh giá các điều kiện ràng buộc theo quy định của Nhà tài trợ đối với chương trình, dự án ODA”.
(5) So với Nghị định 87/CP, Nghị định 17/CP đã bổ sung thêm các quy định về vốn bao gồm vốn chuẩn bị chương trình,dự án ODA (điều 5.12.a và 12), vốn đối ứng chuẩn bị thực hiện chương trình, dự án ODA (điều 5.12.b và 26), vốn ứng trước để thực hiện chương trình,dự án ODA (điều 27) làm cơ sở cho việc lên kế hoạch và giải ngân nguồn vốn đối ứng cần thiết cho dựa án. Việc thể chế hoá các quy định liên quan đến các loại vốn này vào trong Nghị định mới thực chất là tạo cơ sở pháp lý cho việc xác định nguồn, lập kế hoạch và giải ngân các nguồn vốn này từ các nguồn thích hợp đã được đưa vào kế hoạch, kể cả từ Ngân sách nhà nước, tránh tình trạng nhiều dự án vì thiếu hoặc gặp khó khăn về vốn đối ứng của phía Việt Nam mà bị chậm trễ so với tiến độ.
(6) Bổ sung thêm các nhiệm vụ có tính chất quản lý vĩ mô cho các cơ quan quản lý nhà nước về vốn ODA.Đây là các chức năng có tính hướng dẫn và hỗ trợ các cơ quan, các cấp trong quá trình vận động, thu hút và sử dụng nguồn vốn ODA,như chức năng biên soạn và hướng dẫn thực hiện các tài liệu nghiệp vụ cho quá trình thực hiện các chương trình, dự án ODA đối với các nội dung công việc mà ngành mình quản lý.
(7) Theo
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 62043.doc