Đề tài Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010

MỤC LỤC

LỜI MỞ ĐẦU 1

CHƯƠNG I: Lý luận chung về nền tài chính đô thị. 3

I. Hệ thống tài chính quốc gia và nền tài chính đô thị. 3

II. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính. 9

III. Quan hệ của các cấp chính quyền qua hệ thống tài chính 10

IV. Các nội dung thu của ngân sách đô thị từ trong nước 11

V. Nguồn thu từ nước ngoài 15

CHƯƠNG II: Thực trạng tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của thành phố thanh hoá trong giai đoạn

2001-2005 16

I. Giới thiệu về Thành phố Thanh hoá 16

II.Thực trạng tăng nguồn thu cho sự phát triển của thành phố Thanh hoá trong giai đoạn 2001- 2005 17

III. Những nguyên nhân tồn tại. 29

CHƯƠNG III: Những giải pháp nâng cao hiệu quả tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2005-2010. 31

I. nhiệm vụ của Thành phố trong thời gian tới 32

II. định hướng quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế- xã hội thành phố thanh hoá đến năm 2010. 34

III. Một số giải pháp để tăng nguồn thu ngân sách của thành phố trong giai đoạn 2006-2010 35

KẾT LUẬN 41

Nhận xét nơi thực tập

Tài liệu tham khảo

Mục lục

 

 

 

doc43 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1613 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
kết vào cuối năm. - Bổ sung từ ngân sách tỉnh: Là những khoản trợ cấp ngân sách tỉnh cho thành phố, thị xã, huyện, xã. - Các khoản thu khác theo quy định của nhà nước: Thuế tắc nghẽn giao thông, thuế ô nhiễm môi trường… cũng là những nguồn thu quan trọng, đồng thời góp phần khắc phục các vấn đề về giao thông và cải thiện môi trường. * Các khoản thu phân chia theo tỉ lệ phần trăm giữa ngân sách tỉnh và ngân sách thành phố thuộc tỉnh. - Thuế chuyển quyền sử dụng đất: Là chênh lệch giá của đất trong quá trình chuyển quyền sử dụng. Thuế có tác dụng nâng cao hiệu quả sử dụng đất, nên người sử dụng phải cân nhắc khi chuyển quyền sử dụng đất. - Thuế đất ở: đất xây dựng các công trình sử dụng vào các mục đích phi nông nghiệp. Căn cứ để tính thuế là diện tích và khả năng thu nhập của các công trình. Nếu đất đô thị chỉ để ở thì đất phụ thuộc vào vị trí từng loại phố, tuỳ loại đô thị, thuế đất ở đô thị cao hơn thuế đất nông nghiệp từ 2 đến 32 lần. Đất ven đô, ven trục giao thông chính có mức thuế cao hơn từ 1,5 đến 2,5 lần thuế đất nông nghiệp vào loại cao nhất trong vùng. - Tiền thuê đất: Là khoản thu điều tiết vào thu nhập do sử dụng đất mang lại. Tiền thuê đất phải lớn hơn thuế đất một khoản bằng lợi nhuận của người có tài sản cho thuê. Các đơn vị không được nhà nước giao đất phải đi thuê đất để xây dựng nhà xưởng để hoạt động. - Thuế sử dụng đất nông nghiệp (cho thị trấn, xã tối là 20%): Thực hiện điều tiết đối với đất được sử dụng vào sản xuất nông nhiệp. Căn cứ để tính thuế là diện tích và chất lượng kinh tế đất. Thuế suất được tính bằng kg thóc/sào/năm. Thực tế thường quy đổi thành tiền để đơn giản khâu thu nộp. - Tiền sử dụng đất: Nhà nước giao đất cho các tổ chức, cá nhân sủ dụng ổn định lâu dài, người sử dụng đất phải nộp tiền sử dụng đất cho Nhà nước. - Thuế tài nguyên: Đánh vào các chủ thể sử dụng tài nguyên khoáng sản hoặc người trực tiếp khai thác. - Lệ phí trước bạ nhà đất: Là khoản tiền mà người mua đất hoăc mua nhà phải nộp thay người bán cho chi cục thuế. - Thuế tiêu thụ đặc biệt kinh doanh hàng mã, vũ trường, karaoke, massage…. - Nguồn thu từ hàng hoá công cộng. Chính quyền địa phương có nhiệm vụ cung cấp một số hàng hoá dịch vụ, dịnh vụ giao thông, bảo vệ của cảnh sát, phòng cháy chữa cháy, công viên và thoát nước… Tuy nhiên trong một số các điều kiện nhất định thì việc cung cấp hàng hoá của chính quyền địa phương đạt hiệu quả cao. Nói chung nguồn thu từ hàng hoá công cộng là rất ít vì nó mang tính chất phục vụ cho tầng lớp nhân dân. Người dân sử dụng các hàng hoá công cộng đó họ phải trả tiền thông qua các dịch vụ. Các loại lệ phí: + Lệ phí giao thông + Lệ phí cấp giấy phép xây dựng + Lệ phí xử phạt hành chính + Lệ phí lưu trú đô thị + Lệ phí khác: Phòng cháy chữa cháy, sử dụng bến bãi, lề đường, quảng cáo công chứng, vệ sinh môi trường... * Trợ cấp của Chính phủ Trợ cấp của chính phủ cho các công trình của địa phương như trợ cấp giáo dục, phúc lợi xã hội, nhà ở và phương tiện công cộng, đường giao thông, bệnh viện, y tế… là những nguồn tài chính quan trọng cho đô thị. * Nguồn thu ngân sách từ trong nhân dân Nguồn thu từ trong nhân dân có vai trò cũng rất quan trọng cho sự phát triển đô thị, huy động được lượng tiền nhàn rỗi trong nhân dân sẽ rất tốt cho sự phát triển đô thị. Chính quyền đô thị nên tạo ra nhiều dịch vụ mới để thu hút nhân dân tham gia và dựa trên nguyên tắc người được hưởng phải trả tiền. V. Nguồn thu từ nước ngoài Đó là các khoản viện trợ không hoàn lại của các tổ chức, cá nhân ở nước ngoài trực tiếp cho tỉnh, thành phố theo quy định của pháp luật. Vay nước ngoài như từ nguồn vốn World Bank, IMF…Các nguồn vốn khác như ODA, FDI thì chủ yếu đầu tư vào nông thôn, vùng miền núi kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. CHƯƠNG II THỰC TRẠNG TĂNG NGUỒN THU NGÂN SÁCH CHO SỰ PHÁT TRIỂN CỦA THÀNH PHỐ THÀNH HÓA TRONG GIAI ĐOẠN 2001 - 2005 I. Giới thiệu về Thành phố Thanh Hoá Một người pháp tên là Charles Robequin viết lại những quan sát về thành phố Thanh hoá trong một luận văn tiến sĩ của mình, ông đặc biệt tán thưởng chất lượng các đồ gốm sành màu tím ngắt hoặc màu da lươn vàng ươm ở Lò Chum Bến Ngự chất đầy trên các con thuyền mành và thuyền đinh, mỗi năm có sản lượng 1.500 tấn và xuất khẩu ít nhất 270 tấn ra thị trường Bắc Bộ. Thành phố Thanh hoá được biết đến với chiến thắng Hàm Rồng vẻ vang thể hiện tinh thần chiến đấu quật cường của quân dân Nam Ngạn trong kháng chiến chống Mĩ. Bây giờ lại rất nổi tiếng bởi là nơi cung ứng hàng trăm mặt hàng đá ốp lát có hàm lượng Silic cao với nhiều màu sắc tuyệt vời. Thành phố nằm ở vị trí cửa ngõ nối liền Bắc Bộ với Trung Bộ và Nam Bộ. Chịu ảnh hưởng trực tiếp của địa bàn kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Vị trí địa lý trên là một lợi thế quan trọng tạo điều kiện cho phát triển Thành phố mở rộng giao lưu kinh tế với các tỉnh trong khu vực và trong cả nước cũng như với nước bạn Lào. Ngày 1/5/1994 Thủ tướng Chính phủ ký quyết định thành lập Thành phố Thanh hoá trên cơ sở là Thị xã Thanh hoá, Địa giới bao gồm: Phía Bắc tới núi Vôi- Xã Đông Cương Phía Đông tới cảng Lễ Môn- Xã Quảng Hưng Phía Nam tới Cầu Quán Nam- Xã Đông Vệ Phía Tây tới cây số Ba- Phường Phú Sơn Năm 2003, Thành phố có diện tích tự nhiên là 58,58 km2 riêng đất xây dựng đô thị là 14.926 km2. Có 12 phường và 6 xã. Tính đến 01/01/2003 tổng số dân toàn thành phố là 286.848 người, mật độ dân số nội thành là 17.188 người/km2 Khu trung tâm có các phường Ba Đình, Điện Biên, Lam Sơn, Ngọc Trạo, Tân Sơn, Trường Thi. Kế cận có phường Đông Sơn, Đông Vệ, Phú Sơn, Đông Thọ, Nam Ngạn, Hàm Rồng. Ngoại vi thành phố có các xã Đông Cương, Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng, Quảng Thành, Quảng Thắng. Hướng phát triển của thành phố là Đông- Đông Bắc(xã Đông Cương) và Đông- Đông Nam(xã Quảng Thành). Các xã Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng và Quảng Thắng là những quỹ đất tiềm năng rộng lớn cho các khu đô thị mới có quy hoạch hiện đại. Thành phố có khu công nghiệp có tổng diện tích 180 ha: khu công nghiệp Đình Hương 30 ha, khu công nghiệp vừa và nhỏ Tây Bắc ga 50 ha, khu công nghiệp Lễ Môn 100 ha. Giá trị Sản xuất chiếm 34,4% tổng GDP của thành phố. II. Thực trạng tăng nguồn thu cho sự phát triển của thành phố Thanh hoá trong giai đoạn 2001- 2005 2.2.1 Vấn đề xây dựng nguồn thu: Đây không phải là hạn chế riêng của Thành phố Thanh hoá mà còn là hạn chế của nhiều đô thị khác. Xây dựng nguồn thu là một phạm trù mới trong quản lý thu ngân sách Nhà nước. Cho nên vấn đề xây dựng và nuôi dưỡng nguồn thu chưa được các cấp chính quyền Thành phố quan tâm. Nguồn thu ngân sách chủ yếu là nguồn thu từ thuế, phí, lệ phí và các khoản thu khác. Các cán bộ quản lý chưa nhận thấy được tầm quan trọng khi tạo nên các nguồn thu mới trên địa bàn Thành phố. Ví dụ như thất thu từ việc không áp dụng thu thuế xây dựng nhà ở mà chỉ thu lệ phí cấp giấy phép xây dựng. Mà vô tình làm mất hàng chục tỷ đồng vào ngân sách Nhà nước. Các nguồn thu thường xuyên hàng năm không thể thay đổi được mà chính quyền các cấp thực hiện công tác thu tốt hơn, ngày một có hiệu quả hơn. Chính quyền thực hiện còn nhiều khó khăn như phụ thuộc vào quyết định của lãnh đạo tỉnh, theo đúng pháp luật hiện hành. Có một ví dụ về việc tạo thêm nguồn thu ngân sách của thành phố trong năm 2003-2004: Xã Quảng Thành năm 2003 lập quy hoạch một khu dân cư 50 lô đất, xã tiến hành đầu tư xây dựng hạ tầng đền bù giải phóng mặt bằng trước khi đấu giá đất. Năm 2004 thành phố thực hiện việc đấu giá đất, mỗi lô có giá trị gần 200 triệu đồng. Như vậy tổng thu là 50 tỷ đồng nếu được thực hiện thành công. Tài chính thành phố quy định số tiền này nộp vào Kho bạc Nhà nước để thu vào ngân sách thành phố 100% và yêu cầu xã giải trình để xin lại các chi phí đã bỏ ra. Quá trình giải quyết kéo dài nên quyền lợi của xã không được đảm bảo. Xã dừng việc thực hiện khu dân cư thứ hai lại. Xã Quảng Hưng bên cạnh biết như thế cũng dừng hạ tầng khu dân cư của mình lại. Như vậy nguồn thu kia đã vô tình bị mất do không thực hiện được dự án. Việc làm ấu trĩ về hạch toán và phân chi quyền lợi, chi phí về đất sử dụng nguyên thuỷ, quyền lợi về đất xã được bao nhiêu phần trăm. Bởi vậy việc làm của chính quyền thành phố vừa làm mất tiền vừa làm mất lòng tin của nhân dân của chính quyền thành phố. 2.2.2 Thực trạng thực hiện thu ngân sách Năm 2001 là năm đầu tiên thực hiện Nghị quyết đại hội Đảng bộ thành phố lần thứ 14 nhiệm kỳ 2001-2005. Là năm tạo tiền đề cho xây dựng kế hoạch 5 năm 2001-2005. Trong năm qua UBND thành phố đã tích cực chỉ đạo công tác thu trên địa bàn và đạt được những kết quả khả quan, cụ thể: Đơn vị: 1000đ STT Chỉ tiêu thu Dự toán tỉnh giao Thành phố thực hiện % thực hiện/ dự toán 1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 1.7300.000 1.7546.000 101 2 Thuế nông nghiệp 1.050.000 501.000 47 3 Thuế trước bạ nhà đất 750.000 2.741.900 365 4 Thuế nhà đất 1.800.000 2.001.700 111 5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 2.000.000 3.742.800 187 6 Tiền sử dụng đất 8.000.000 8.524.400 106 7 Tiền thuê đất 100.000 102.100 102 8 Phí, lệ phí 900.000 1.105.800 123 9 Thu khác ngân sách 600.000 314.300 52 10 Thu đóng góp 5.241.500 11 Thu sự nghiệp 245.700 12 Các khoản phụ thu 300.000 13 Trợ cấp ngân sách 9.547.500 14 Tổng 32.500.000 51.644.700 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2001) Tổng thu ngân sách năm 2001 đạt 51.644.700 (1000đ) bằng 113 % so với cùng kỳ. Các khoản thu thành phố thực hiện đều đạt và vượt chỉ tiêu là thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế trước bạ nhà đất, thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất, trong đó thuế trước bạ nhà đất là cao nhất 365%. Chỉ có thuế nông nghiệp không đạt dự toán tỉnh giao(47%). Nguyên nhân là do thành phố có chính sách giảm, miễn thuế nông nghiệp cho các hộ nông dân có hoàn cảnh khó khăn và hiện tại tỷ trọng lao động trong nông nghiệp đang có xu hướng giảm dần (4%). Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đó còn tồn tại nhiều khó khăn: Thành phố có khoảng 3.000 hộ kinh doanh vừa và nhỏ, 167 doanh nghiệp tư nhân nhưng vẫn còn tình trạng trốn thuế, nợ đọng thuế, quản lý các nguồn thu để xác định doanh thu thuế ở một số mặt hàng không đúng gây thất thu cho ngân sách. Nguồn thu từ đất thấp, một phần là do thành phố chưa duyệt quy hoạch chi tiết sử dụng đất thành phố các khu chung cư trên địa bàn phường Đông Thọ, Điện Biên, các khu đô thị trong tương lai ở xã Đông Hải, Quảng Hưng. Tại kỳ họp thứ 8 Hội Đồng Nhân Dân Thành phố khoá 18 đã có nghị quyết phấn đấu thực hiện dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2002, thành phố đã tổ chức thực hiện thu ngân sách đạt được những kết quả sau: Đơn vị: 1000đ STT Chỉ tiêu thu Dự toán tỉnh giao Thành phố thực hiện % thực hiện/ dự toán 1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 19.800.000 20.331.800 103 2 Thuế nông nghiệp 400.000 628.600 157 3 Thuế trước bạ nhà đất 2.800.000 2.961.200 106 4 Thuế nhà đất 1.750.000 1.900.600 108 5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 3.700.000 2.702.600 73 6 Tiền sử dụng đất 13.000.000 16.251.800 125 7 Tiền thuê đất 36.000 105.000 291 8 Phí, lệ phí 1.400.000 1.033.700 74 9 Thu khác ngân sách 735.000 515.100 70 10 Thu đóng góp 3.375.700 11 Thu sự nghiệp 330.000 12 Các khoản phụ thu 0 13 Trợ cấp ngân sách 5.200.500 14 Tổng 43.621.000 55.336.900 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2002) Tổng thu ngân sách đạt 55.336.900(1000đ) bằng 107% so với cùng kỳ. Như vậy nguồn thu năm 2002 đạt chỉ tiêu dự toán tỉnh giao nhưng tổng thu tăng không đáng kể (7%). Các chủ tiêu thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế sử dụng đất nông nghiệp, thuế trước bạ nhà đất, thuế nhà đất, tiền sử dụng đất, tiền thuê đất đều đạt chỉ tiêu. Nguyên nhân là do thành phố duyệt quy hoạch chi tiết các khu chung cư và quy hoạch phát trển thành phố đến năm 2010. Chi cục thuế kết hợp tốt với các ban ngành liên quan như chi cục quản lý thị trường, phòng tài chính thực hiện thu và xử phạt hành chính đối với các đối tượng trốn thuế,gian lậu thuế, kinh doanh, buôn bán trên các phường trung tâm. Các ngành chức năng ở cấp phường xã đã rà soát hầu hết các đối tượng phải nộp thuế, đưa vào sổ bộ quản lý, đã bước đầu điều chỉnh doanh thu tính thuế sát và đúng. Tuy nhiên vẫn còn tình trạng đọng thuế xác định doanh thu các hộ kinh doanh vẫn còn sai sót, còn thất thu ở các lĩnh vực kinh doanh anư uống buổi sáng, tối, hộ kinh doanh vận tải, hoạt động buôn chuyến, xây dựng cơ bản tư nhân… Thuế chuyển quyền sử dụng đất, phí, lệ phí, thu khác ngân sách không đạt dự toán ngân sách là do các cấp các ngành liên quan chưa phối kết hợp thường xuyên và có hiệu lực trong việc nắm bắt quản lý và thu thuế đối với các hộ mua bán nhà ở trên địa bàn. Công tác thu phí gặp nhiều khó khăn do, mức thu của nhà nước quy định giảm. Mặt khác trong thời gian qua tỉnh có chính sách cho các đơn vị kinh doanh nhà đất được nộp chậm tiền cấp quyền sử dụng đất một số dự án lớn như khu công nghiệp Tây Bắc ga, khu Bệnh viện Hợp Lực. Nguồn thu ngân sách năm 2003 đạt kết quả như sau: Đơn vị: 1000đ Số thứ tự Chỉ tiêu thu Dự toán tỉnh giao Thành phố thực hiện % thực hiện/ dự toán 1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 25.700.000 25.650.000 100 2 Thuế nông nghiệp 20.000 52.100 13 3 Thuế trước bạ nhà đất 3.000.000 5.077.200 149 4 Thuế nhà đất 1.900.000 2.243.500 112 5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 3.500.000 6.140.200 157 6 Tiền sử dụng đất 25.000.000 83.483.000 334 7 Tiền thuê đất 70.000 516.800 345 8 Phí, lệ phí 1.000.000 1.857.200 169 9 Thu khác ngân sách 500.000 453.000 91 10 Thu đóng góp 2.364.000 11 Thu sự nghiệp 620.300 12 Các khoản phụ thu 0 13 Trợ cấp ngân sách 726.600 14 Tổng 60.690.000 129.183.900 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2003) Tổng thu ngân sách đạt 129.183.900 bằng 233,5% (tăng 126,5%) so với cùng kỳ. So với năm 2002 thì năm 2003 tổng thu ngân sách có sự tăng trưởng vượt bậc. Tại sao lại đạt được kết quả cao như vậy? Nhìn vào bảng ta thấy năm nay do có sự tăng trưởng vượt bậc của tiền sử dụng đất là 83.483 triệu đồng đạt 334% thành phố thục hiện/ dự toán tỉnh giao. Tăng 513,7% so với cùng kỳ. Tiền sử dụng đất cao như vậy là do thành phố thực hiện quy hoạch chi tiết sử dụng đất thành phố các khu chung cư trên địa bàn phường Đông Thọ, Điện Biên, các khu đô thị trong tương lai ở xã Đông Hải, Quảng Hưng. Thu tiền đơn vị kinh doanh nhà đất dự án lớn như khu công nghiệp Tây Bắc ga, khu Bệnh viện Hợp Lực. Người dân mua nhiều đất để xây dựng nên đẩy giá đất lên cao. Tuy nhiên đây là sự tăng tưởng tạm thời không bền vững vì giá đất tăng cao rồi thì sẽ dừng lại và giảm xuống. Tồn tại trong công tác thu thuế là chưa quản lý hết các đối tượng sản xuất kinh doanh, dịch vụ trên địa bàn, doanh thu tính thuế phần lớn chưa được xác định sát đúng thực tế, công tác quản lý hộ nộp thuế kê khai chưa có chuyển biến so với năm 2002. Việc ghi chép trên sổ sách kế toán đối với nhiều hộ kinh doanh chỉ là hình thức đối phó với cơ quan thuế. Thu chưa được gọn bộ thuế, tình trạng dây dưa nợ đọng thuế vẫn còn tồn tại. Tình trạng bán hàng không xuất đủ hoá đơn, ghi không đúng giá bán trên hoá đơn, kê khai không đủ doanh thu thực tế tuy có giảm nhưng vẫn chưa được ngăn chặn, do vậy thuế GTGT còn thất thu. Nguồn thu thành phố thực hiện năm 2004 như sau: Đơn vị: 1000đ Số thứ tự Chỉ tiêu thu Dự toán tỉnh giao Thành phố thực hiện % thực hiện/ dự toán 1 Thuế CTN ngoài quốc doanh 34.400.000 39.500.000 126 2 Thuế nông nghiệp 40.000 33.900 85 3 Thuế trước bạ nhà đất 4.850.000 4.293.000 89 4 Thuế nhà đất 2.100.000 2.669.000 127 5 Thuế chuyển quyền sử dụng đất 5.600.000 9.828.000 175 6 Tiền sử dụng đất 85.000.000 67.367.000 79 7 Tiền thuê đất 40.000 3.720.000 9.300 8 Phí, lệ phí 1.050.000 2.178.000 207 9 Thu khác ngân sách 530.000 995.100 95 10 Thu đóng góp 1.335.600 11 Thu sự nghiệp 400.000 12 Các khoản phụ thu 0 13 Trợ cấp ngân sách 30384000 14 Tổng 130.610.000 162.704.200 (Nguồn: Báo cáo tài chính năm 2004) Thu ngân sách Nhà nước năm 2004 thực hiện đạt dự toán tỉnh giao. Các chỉ tiêu thu vượt dự toán tỉnh giao là thuế CTN ngoài quốc doanh, thuế nhà đất, thuế chuyển quyền sử dụng đất, tiền thuê đất, phí, lệ phí. Trong đó tiền thuê đất vượt dự toán (9.300%) cao nhất trong các chỉ tiêu. Các chỉ tiêu thu không đạt dự toán là thuế nông nghiệp, thuế trước bạ nhà đất, tiền sử dụng đất, thu khác ngân sách. Công tác thu thuế còn nhiều tồn tại, thu hộ cá thể trực tiếp năm 2004 vẫn chưa quản lý hết diện hộ có sản xuất kinh doanh, số hộ nộp thuế theo kê khai nhưng vẫn phải thực hiện biện pháp ấn định thuế hàng tháng, vẫn còn hộ dây dưa, nợ đọng thuế Nguyên nhân là do năm nay từ thành phố đến các địa phương tập trung cho công tác bầu cử HĐND các cấp và kỷ niệm 200 năm đô thị tỉnh lỵ, 10 năm thành lập và phát triển thành phố nên một phần cũng ảnh hưởng đến việc tập trung thường xuyên cho công tác thu ngân sách Nhà nước. Trong năm qua do chủ trương về quy hoạh đất ở tại các mặt bằng và khu đô thị đầu năm có dự kiến sau đó lại có sự thay đổi nên nguồn đất đấu giá bị giảm, mặt khác giá đất bị chững lại do nhu cầu mua đất ở các tổ chức và nhân dân bị giảm đáng kể nên các mặt bằng đấu giá không hấp dẫn. Đánh giá chung: Trong những năm tình hình thu ngân sách của thành phố đạt nhiều kết quả khả quan. Tổng thu ngân sách luôn tăng qua các năm, những kết qủa đạt được một phần là do các cấp các ngành kết hợp tăng cường công tác kiểm tra giám sát chặt chẽ công tác thu trên địa bàn. Kết quả đạt được góp phần phát triển, ổn định tình hình kinh tế- xã hội trên địa bàn thành phố. Thành phố đang trong giai đoạn phát triển, năm 2004 thành phố kỷ niệm 10 năm thành lập, 200 đô thị tỉnh lỵ, thành phố trở thành đô thị loại II. Đó là động lực phấn đấu rất lớn của các cấp các ngành và nhân dân trong tỉnh nói chung và thành phố nói riêng quyết tâm đạt những kế hoạch, nhiệm vụ trong năm 2005 và trong giai đoạn phát triển kinh tế 5 năm 2006-2010. Đơn vị:Triệu đồng Thời gian 2000 2001 2002 2003 2004 Tổng thu ngân sách 48.603,7 51.644,7 55.337,9 129.183,9 162.704,2 Qua bản đồ ta thấy tổng thu ngân sách năm 2000-2002 tăng đều nhưng tốc độ tăng chậm. Năm 2003 có sự tăng lên đột biến trong 5 năm qua, so với năm 2002 tăng 73.847.000 (1000đ). Năm 2004 tổng thu ngân sách tăng lên nhưng riêng trợ cấp ngân sách là 30.384.000 (1000đ) nên tổng thu năm 2004 so với cùng kỳ tăng không đáng kể. Đánh giá về thu CTN ngoài quốc doanh. Trong những năm qua thu thuế CTN ngoài quốc doanh đã có những biến chuyển tốt, kết quả đạt được cụ thể như sau: Đơn vị: Triệu đồng Thời gian 2000 2001 2002 2003 2004 Thu CTN ngoài quốc doanh 16.465 17.546 20.331 25.650 39.500 Từ năm 2000 đến 2003 nguồn thuế CTN ngoài quốc doanh tăng lên đều đặn, tăng 56%. Năm 2004 đạt 39.500 triệu tăng 54% so với cùng kỳ. Trên địa bàn thành phố năm 2001 có khoảng 3.000 hộ kinh doanh vừa và nhỏ, 167 doanh nghiệp tư nhân đến năm 2004 thì thành phố có khoảng 5.000 hộ kinh doanh vừa và nhỏ, 300 doanh nghiệp tư nhân. Như vậy số lượng tăng lên không đáng kể, các doanh nghiệp có số vốn ít hoạt động trong thị trường nhỏ có tính cạnh tranh không cao. Công tác thu các doanh nghiệp tuy có thuận lợi hơn nhưng vẫn chưa quản lý hết diện hộ có sản xuất kinh doanh, số hộ nộp thuế theo kê khai nhưng vẫn phải thực hiện biện pháp ấn định thuế hàng tháng, vẫn còn hộ dây dưa, nợ đọng thuế. Chưa khắc phục được tình trạng bán hàng không ghi đúng giá, hoặc bán lẻ không xuất hoá đơn. Một số đơn vị còn để ngoài sổ sách kế toán những khoản thu nộp như: Hỗ trợ cước vận tải, hỗ trợ bán hàng và một số thu nhập khác. Đánh giá về nguồn thu từ đất: Đất là nguồn tài nguyên quý giá của mỗi quốc gia nói chung và của đô thị nói riêng. Là tài sản mang lại giá trị kinh tế lớn, vì thế mà ông cha ta đã nói “ Tấc đất tấc vàng” nên chúng ta phải biết quý trọng giữ gìn nó. Đất đô thị là một tư liệu sản xuất đặc biệt, sự đặc biệt của nó thể hiện ở chỗ: Diện tích đất thì có giới hạn, đất không di chuyển được, không thuần nhất về chức năng, vị trí, không bị hao mòn. Đất thuộc sở hữu nhà nước nhưng vẫn được người sử dụng mua bán trao đổi, chuyển nhượng và đó là một hàng hoá đặc biệt. Vì có diện tích có hạn nên mức độ khan hiếm của hàng hoá này rất cao. Nên thành phố đã duyệt quy hoạch sử dụng đất năm 2003 trên khu vực 12 phường và 6 xã đến năm 2010 với tổng diện tích 58,58 km2. Phát triển thành phố theo hướng chính là Đông Nam quy hoạch các xã Đông Hương, Đông Hải, Quảng Hưng và Quảng Thắng. Đây là những quỹ đất có tiềm năng rất lớn cho sự phát tiển các khu đô thị mới có quy hoạch hiện đại nối liền với thị xã Sầm Sơn. Đơn vị: triệu đồng Thời gian 2000 2001 2002 2003 2004 Thu từ đất 14.879 17.613,9 24.550 97.512,8 87.910,9 Nguồn thu từ đất qua các năm liên tục tăng và tăng cao nhất là năm 2003. Năm 2003 nguồn thu từ đất đạt 97.512,8 triệu đồng chiếm tỷ trọng 75,5% tổng thu ngân sách. Trong đó riêng tiền sử dụng đất thành phố thu đạt 83.483 triệu đồng chiếm 85,6% tổng nguồn thu từ đất. Những tồn tại: Nhìn vào đồ thị ta thấy sự bất hợp lý trong tổng thu từ đất trong các năm cụ thể, từ năm 2000 đến năm 2002 nguồn thu tăng rất chậm, nhưng đến năm 2003, 2004 tăng với tốc độ cao. Công tác thu thuế tiền sử dụng đất, tiền thuê đất…của các đội thuế chưa thực sự bám sát nhiệm vụ được giao, chưa chủ động tổ chức thực hiện những biện pháp, công tác cụ thể. Thành phố áp dụng việc bán đấu giá chậm, các mặt bằng đấu giá không hấp dẫn, giá cứng nhắc cho từng lô đất nên chưa mang lại hiệu quả cao. Chưa hình thành thị trường nhà đất nên dẫn đến nạn đầu cơ đất đẩy giá đất của thành phố lên cao. Trên địa bàn có một số khu đất của một số cơ quan doanh nghiệp được nhà nước giao đất từ lâu, nay do làm ăn thua lỗ nên bị giải thể hoặc thanh lý. Do sử dụng đất không đúng mục đích, vi phạm quy hoạch xây dựng và luật đất đai nghiêm trọng. Cần xử lý thu hồi và chuyển mục đích sử dụng. Nhà nước quản lý đấu giá chuyển sang đất ở hoặc đấu giá cho thuê kinh doanh. Số lượng ước 20 x 5.000 m2 = 100.000 m2 Đất ở : 3 triệu/m2 x (30% x 100.000)m2 = 90.000 triệu (90 tỷđồng ) Thuê đất 60.000đ/m2/năm x (50% x 100.000)m2 = 3.000 triệu ( 3tỷ/năm) Chi phí cho công tác thanh tra kiểm tra, quy hoạch xây dựng lập lại quy hoạch xử dụng đất, chi phí bồi thường giải phóng mặt bằng, chi phí khác. Tổng chi phí ước tính 15 tỷ đồng. Vậy ước thu được 78 tỷ đồng đóng góp vào ngân sách. Hàng năm thu thuế là 30.000m2 x 5.000đồng/m2/năm = 150 triệu đây cũng là nguồn nuôi dưỡng nguồn thu. Đánh giá nguồn thu từ phí, lệ phí. Đơn vị: triệu đồng Thời gian 2000 2001 2002 2003 2004 Phí ,lệ phí 1.005,1 1.105,8 1.033,7 1.857,2 2.178 Nguồn thu từ phí, lệ phí qua các năm tăng nhưng tăng chặm với quy mô nhỏ. Cao nhất là năm 2004 2.178 triệu đồng chiếm tỷ trọng 1,34% trong tổng thu ngân sách.Nguồn thu từ phí, lệ phí chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong tổng thu ngân sách. Công tác thu phí lại mất nhiều thời gian và chi phí nên nguồn thu này trên địa bàn thành phố không được chính quyền quan tâm. Đánh giá về nguồn thu khác ngân sách Nguồn thu khác ngân sách của thành phố chủ yếu là từ chênh lệch giá đất do thành phố quy hoạch các khu chung cư, khu công nghiệp nên có sự chênh lệch giữa đất các khu vực với nhau. Nguồn thu từ quỹ phát triển nhà ở hiện tại chưa có, nguồn thu từ trong nhân dân vẫn chưa được quan tâm. Các nguồn thu khác như thu đóng góp, thu sự nghiệp, các khoản phụ thu hay trợ cấp ngân sách là những nguồn thu thường xuyên, ổn định hàng năm. Nguồn vốn từ nước ngoài: Nguồn vốn nước ngoài đầu tư (viện trợ không hoàn lại) vào thành phố từ năm 1998-2008 với các dự án sau: - Dự án ADB- cấp nước với tổng mức đầu tư 200 tỷ đồng - Dự án ADB Pháp- điện lực với tổng mức đầu tư 200 tỷ đồng - Dự án ADB cải thiện môi trường 300 tỷ đồng Tổng số 700 tỷ đồng được giải ngân trong 10 năm, như vậy mỗi năm 70 tỷ đồng. III. Những nguyên nhân tồn tại Bên cạnh những kết quả đạt được còn những tồn tại trong công tác xây dựng và công tác thu đúng thu đủ tăng nguồn thu cho ngân sách nhà nước của thành phố Thanh hóa. Những tồn tại trên là do một số nguyên nhân chủ yếu sau Về nguyên nhân chủ quan: Các đội thu thuế chưa thực sự bám sát nhiệm vụ được giao, chưa chủ động tổ chức thực hiện những biện pháp, công tác để khai thác nguồn thu, quản lý chặt chẽ đối tượng sản xuất, kinh doanh trên địa bàn. Sự phối kết hợp giữa các tổ trong đội trong quá trình thực hiện quy trình có nơi thiếu chặt chẽ. Trình độ nghiệp vụ chuyên môn, năng lực công tác của một số cán bộ còn hạn chế, chưa đáp ứng với yêu cầu công tác quản lý trong giai đoạn hiện nay, nhất là trong việc tuyên truyền, hướng dẫn chính sách thuế. Còn biểu hiện ngại khó khăn, ngại va chạm, chưa thực sự cố gắng tích cực để hoàn thành các mục tiêu, nhiệm vụ được giao. Cá biệt còn có cán bộ thiếu rèn luyện tu dưỡng vi phạm kỷ luật, vi phạm chế độ thu nộp tiền thuế. Công tác phối hợp tranh thủ sự chỉ đạo của các cấp các ngành có lúc, có nơi chưa được thường xuyên, liên tục. Cơ sở hạ tầng kỹ thuật sau 10 năm phát triển chưa hoàn chỉnh, nền kinh tế còn gặp nhiều khó khăn. Nguồn thu ngân sách cho phát triển thành phố nhỏ. Nguồn thu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docMột số giải pháp tăng nguồn thu ngân sách cho sự phát triển kinh tế của Thành phố Thanh Hoá trong giai đoạn 2001- 2010.doc
Tài liệu liên quan