Lời nói đầu 1
I.Tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn – một trong những yếu tố quyết định sự tồn tại và phát triển của DNNN trong nền kinh tế thị trường
1.Vốn, vai trò của vốn đối với DNNN trong nền kinh tế thị trường 2
1.1.Khái quát về vốn 2
1.2.Phân loại vốn 2
1.3.Vai trò của vốn đối với các DNNN 3
2.Các công cụ tạo vốn cho các DNNN trong nền kinh tế thị trường 4
3.Vấn đề về hiệu quả sử dụng vốn 6
3.1.Quan điểm về hiệu quả sử dụng vốn 6
3.2.Các chỉ tiêu cơ bản đánh giá hiệu quả sử dụng vốn 7
3.2.1.Các chỉ tiêu đánh giá tổng hợp 7
3.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ 8
3.2.3.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ 9
3.3.Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN trong cơ chế thị trường
10
II.Khái quát thực trạng tạo vốn và sử dụng vốn trong các DNNN ở Việt nam hiện nay 12
1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế
12
2.Thực trạng về vốn và hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN 13
2.1.Đánh giá chung 13
2.1.1.Thời kỳ trước đổi mới kinh tế 13
2.1.2.Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay 13
2.2.Thực trạng về vốn và huy động vốn trong các DNNN 14
2.3.Thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn trong các DNNN 17
2.4.Những kết quả và tồn tại 18
2.4.1.Những kết quả đạt được 18
2.4.2.Những tồn tại
19
III.Giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN 22
1.Một số giải pháp tổng quát 22
2. Những giải pháp cụ thể nhằm tạo vốn cho DNNN 23
3. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các DNNN 24
3.1. Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VCĐ 24
3.2.Giải pháp nâng cao hiệu quả sử dụng VLĐ 24
Kết luận 26
Tài liệu tham khảo 27
26 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1289 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp tạo vốn và nâng cao hiệu quả sử dụng vốn cho các doanh nghiệp nhà nước ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phiến diện. Do mẫu số chỉ đề cập đến vốn chủ sở hữu bình quân trong kỳ, trong khi hầu hết các doanh nghiệp nguồn vốn huy động từ bên ngoài chiếm một tỷ lệ không nhỏ trong tổng nguồn vốn. Do đó nếu chỉ nhìn vào chỉ tiêu này nhiều khi đánh giá thiếu chính xác.
Ba chỉ tiêu trên cho ta một cái nhìn tổng quát về hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Ngoài ra người ta còn sử dụng một số chỉ tiêu khác như tỷ suất thanh toán ngắn hạn, số vòng quay các khoản phải thu.... Tuy nhiên như ta đã biết nguồn vốn của doanh nghiệp được phân làm hai loại là vốn cố định(VCĐ) và vốn lưu động(VLĐ). Do đó, các nhà phân tích không chỉ quan tâm đến việc đo lường hiệu quả sử dụng vốn của tổng nguồn vốn mà còn chú trọng đến hiệu quả sử dụng của từng bộ phận cấu thành nguốn vốn của doanh nghiệp đó là VCĐ và VLĐ.
3.2.2.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn cố định
Doanh thu thuần
Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
Để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ người ta sử dụng những chỉ tiêu sau:
Hiệu suất sử dụng VCĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng vốn cố định tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần trong một năm.
Lợi nhuận
Vốn cố định sử dụng bình quân trong kỳ
Sức sinh lợi của vốn cố định =
Chỉ tiêu này cho biết trung bình một đồng VCĐ tạo ra bao nhiêu đồng lợi nhuận. Chỉ tiêu này càng lớn càng chứng tỏ việc sử dụng VCĐ là có hiệu quả.
Ngoài hai chỉ tiêu trên người ta còn sử dụng nhiều chỉ tiêu khác để đánh giá hiệu quả sử dụng VCĐ như : hệ số đổi mới tài sản cố định, hệ số loại bỏ tài sản cố định....
3.2.3.Chỉ tiêu đánh giá hiệu quả sử dụng vốn lưu động
Doanh thu thuần
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Khi phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta thường dùng các chỉ tiêu sau:
Hiệu suất sử dụng VLĐ =
Chỉ tiêu này cho biết một đồng VLĐ Sử dụng bình quân trong kỳ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu thuần.
Lợi nhuận
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Sức sinh lợi của VLĐ =
Chỉ tiêu này cho biết cứ một đồng VLĐ tham gia vào hoạt động sản xuất kinh doanh trong kỳ thì tạo ra được bao nhiêu đồng lợi nhuận, Chỉ tiêu này càng lớn càng tốt.
Đồng thời, để đánh giá hiệu quả sử dụng VLĐ người ta cũng đặc biệt quan tâm đến tốc độ luân chuyển VLĐ, vì trong quá trình sản xuất kinh doanh,VLĐ không ngừng vận động qua các hình thái khác nhau. Do đó đẩy nhanh tốc độ luân chuyển VLĐ sẽ góp phần giải quyết về nhu cầu vốn cho doanh nghiệp, góp phần nâng cao hiệu quả sử dụng vốn. Để xác định tốc độ luân chuyển VLĐ người ta sử dụng các chỉ tiêu sau:
Doanh thu thuần
VLĐ sử dụng bình quân trong kỳ
Số vòng quay của VLĐ =
Chỉ tiêu này còn được gọi là hệ số luân chuyển VLĐ, nó cho biết VLĐ được quay mấy vòng trong kỳ. Nếu số vòng quay tăng thì chứng tỏ hiệu quả sử dụng VLĐ tăng và ngược lại.
Thời gian của một kỳ phân tích
Số vòng quay của VLĐ trong kỳ
Thời gian của một vòng luân chuyển=
Chỉ tiêu này thể hiện số ngày cần thiết cho VLĐ quay được một vòng, thời gian của một vòng luân chuyển càng nhỏ thì tốc độ luân chuyển của VLĐ càng lớn và làm rút ngắn chu kỳ kinh doanh, vốn quay vòng hiệu quả hơn.
3.3. Sự cần thiết phải nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của DNNN trong cơ chế thị trường.
Các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh thường đặt ra nhiều mục tiêu và tuỳ thuộc vaò giai đoạn hay điều kiện cụ thể mà có những mục tiêu được ưu tiên thực hiện, nhưng tất cả đều nhằm mục đích cuối cùng là tối đa hoá giá trị tài sản của chủ sở hữu, đạt được mục tiêu đó doanh nghiệp mới có thể tồn tại và phát triển được.
Một doanh nghiệp muốn thực hiện tốt mục tiêu của mình thì phải hoạt động kinh doanh có hiệu quả. Trong khi đó yếu tố tác động có tính quyết định đến hiệu quả sản xuất kinh doanh chính là hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp. Do vậy doanh nghiệp cần phải có những biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, đặc biệt trong điều kiện hiện nay.
Trước đây trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, DNNN coi nguồn vốn cấp phát từ ngân sách nhà nước đồng nghĩa với “cho không”, nên khi sử dụng nhiều doanh nghiệp không cần quan tâm đến hiệu quả, kinh doanh thua lỗ đã có Nhà nước bù đắp. Điều đó gây ra tình trạng vô chủ trong quản trị và sử dụng vốn dẫn đến lãng phí vốn và hiệu quả kinh doanh thấp. Theo số liệu thống kê cho thấy việc sử dụng tài sản cố định chỉ đạt 50%- 60% công suất thiết kế, phổ biến chỉ hoạt động 1 ca trên ngày, vì vậy hệ số sinh lời của đồng vốn thấp.
Khi nước ta chuyển sang cơ chế kinh tế thị trường có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, các doanh nghiệp buộc phải chuyển mình theo cơ chế mới, mới có thể tồn tại và phát triển. Cạnh tranh giữa các DNNN với các thành phần kinh tế khác trở lên gay gắt. Bởi vậy, nâng cao hiệu quả sử dụng vốn có vị trí quan trọng hàng dầu của doanh nghiệp.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ đảm bảo an toàn tài chính cho doanh nghiệp. Goạt động trong cơ chế thị trường đòi hỏi mỗi doanh nghiệp phải luôn đề cao tính an toàn, đặc biệt là an toàn tài chính. Đây là vấn đề có ảnh hưởng trực tiếp đến sự tồn tại và phát triển của doanh nghiệp. Việc sử dụng vốn có hiệu quả giúp doanh nghệp nâng cao khả năng huy động vốn, khả năng thanh toán của doanh nghiệp được bảo đảm....
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp nâng cao sức cạnh tranh. Để đáp ứng yêu cầu cải tiến công nghệ, nâng cao chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã sản phẩm... doanh nghiệp phải có vốn, trong khi đó vốn của doanh nghiệp chỉ có hạn, vì vậy nâng cao hiệu quả sử dụng vốn là cần thiết.
Nâng cao hiệu quả sử dụng vốn sẽ giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu tăng giá trị tài sản chủ sở hữu và các mục tiêu khác của doanh nghiệp như nâng cao uy tín của doanh nghiệp trên thị trường , nâng cao đời sống của người lao động. Vì khi hoạt động kinh doanh có hiệu quả thì doanh nghiệp có thể mở rộng quy mô sản xuất, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động và mức sống của người lao động cũng ngày càng được cải thiện. Đồng thời nó cũng làm tăng các khoản đóng góp cho ngân sách Nhà nước.
Như vậy, việc nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp không những đem lại hiệu quả thiết thực cho doanh nghiệp và người lao động mà nó còn ảnh hưởng đến sự phát triển của cả nền kinh tế và toàn xã hội. Do đó, các doanh nghiệp phải luôn tìm ra các biện pháp phù hợp để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp.
II.Khái quát thực trạng tạo vốn và hiệu quả sử dụng trong các DNNN ở Việt nam hiện nay
1.Vai trò của DNNN trong nền kinh tế thị trường.
Trong đường lối cải cách và phát triển của nước ta hiện nay, Đảng và Nhà nước đã khẳng định nền kinh tế nước ta là nền kinh tế nhiều thành phần trong đó khu vực kinh tế Nhà nước giữ vai trò chủ đạo, và do đó các DNNN là lực lượng kinh tế chủ lực, là xương sống cho nền kinh tế quốc dân. Trong nền kinh tế thị trường Nhà nước có thể điều tiết và thúc đẩy gián tiếp vào nền kinh tế thông qua các chính sách vĩ mô hay tác động trực tiếp thông qua các DNNN đầu tư vào các ngành để sản xuất ra của cải vật chất thoả mãn nhu cầu của xã hội.
DNNN là bộ phận quan trọng nhất của nền kinh tế quốc gia, đóng góp nguồn lực tài chính cho Nhà nước. Hiệu quả hoạt động của DNNNcó ý nghĩa quyết định trong sự nghiệp công nghiệp hoá, hiên đại hoá đất nước, trong quá trình hội nhập thương mại với các nước khu vực, với Châu á và thế giới.
DNNN có vai trò chủ đạo nhằm đảm bảo sự cân đối, ổn định và bền vững trong phát triển kinh tế, đảm bảo hài hoà giữa phát triển kinh tế và phát triển xã hội, có trách nhiệm khắc phục và hạn chế những khuyết tật của kinh tế thị trường. Điều đó có ý nghĩa là DNNN có vai trò chiến lược giữ vững sự cân đối và ổn định trong phát triển kinh tế nhiều thành phần. Vai trò đó được thể hiện qua những điểm sau:
Thứ nhất, các DNNN phải giữ được vai trò chủ đạo trong thực tế, nắm giữ các ngành, các lĩnh vực kinh tế có liên quan đến an ninh quốc phòng, các ngành then chốt của nền kinh tế.
Thứ hai, các DNNN phải là đòn bẩy, là công cụ mà Nhà nước sử dụng để huy động vốn tập trung vào những ngành mang tính chiến lược của nền kinh tế, tập trung vào những hoạt động chuyển giao công nghệ, kỹ thuật quản trị... tạo cơ sở cho sự phát triển kinh tế. Thông qua các DNNN cho phép Nhà nước thực hiện các chính sách, các giải pháp thúc đẩy sự phát triển của nền kinh tế.
Thứ ba, các DNNN tham gia tích cực và có hiệu quả vào sự phát triển kinh tế bằng kết quả sản xuất kinh doanh của mình. Đối với nước ta hiện nay đóng góp của các DNNN trong GDP đang ở mức khá cao thì hiệu quả hoạt động của các DNNN có tác động rất lớn đến sự tăng trưởng của nền kinh tế. Hơn nữa hiện nay khu vực DNNN đang chiếm giữ lượng vốn đầu tư lớn với những trang thiết bị kỹ thuật, công nghệ và nhân lực có trình độ cao thì hoạt động của các DNNN sẽ là một yếu tố quyết định đến việc hoàn thành những chỉ tiêu kinh tế đã đề ra.
Thứ tư, các DNNN là những đơn vị đi đầu trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá theo hướng hội nhập với nền kinh tế thế giới. Trong một nền kinh tế lạc hậu với lực lượng sản xuất còn yếu kém như Việt Nam, thì các DNNN được sử dụng như những công cụ trực tiếp nhằm huy động các nguồn lực kỹ thuật để tiến hành quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế, thu hút vốn đầu tư nước ngoài, đồng thời là nhân tố để nâng cao chất lượng sản phẩm hướng tới xuất khẩu nhằm hoà nhập với nền kinh tế thế giới.
Tuy vai trò các DNNN là hết sức quan trọng, nhưng nhìn nhận một cách khách quan thì DNNN chưa đủ tầm để cạnh tranh với nền kinh tế khu vực.
2.Thực trạng vốn, tạo vốn và sử dụng vốn trong các DNNN
2.1.Đánh giá chung
2.1.1. Thời kỳ trước đổi mới kinh tế.
Trong cơ chế kế hoạch hóa tập chung bao cấp, DNNN tồn tại dưới hình thức các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước đã hình thành một mạng lưới thống nhất trên khắp địa bàn cả nước, từ trung ương đến cơ sở. Các xí nghiệp thuộc sở hữu Nhà nước thâm nhập vào mọi lĩnh vực, sản xuất kinh doanh hầu hết mọi sản phẩm hàng hóa, dưới hình thức chỉ tiêu, định mức của nhà nước. Thích ứng với thời kỳ này, vốn của xí nghiệp đều do ngân sách nhà nước cấp. Thực hiện nguyên tắc cấp phát, giao nộp ngân sách, các xí nghiệp không tự khai thác và huy động vốn để đảm bảo vốn kinh doanh, dẫn đến tình trạng các xí nghiệp không quan tâm đến việc bảo toàn và phát triển vốn. Vốn của xí nghiệp thất thoát nghiêm trọng, nhiều xí nghiệp lãi giả, lỗ thật và báo cáo sai lệch trong hạch toán kinh doanh.
2.1.2. Thời kỳ đổi mới kinh tế từ 1986 đến nay.
Chuyển sang nền kinh tế thị trường có sự quản trị điều tiết của nhà nước, các DNNN được tự chủ trong sản xuất kinh doanh. Từ đây vấn đề vốn trở thành vấn đề sống còn của mỗi DNNN.
Trong thời kỳ 1986 – 1990, các DNNN được hình thành trên quy mô rộng lớn cả ở cấp quận huyện và không có sự liên kết chặt chẽ giữa các doanh ngiệp Trung ương và địa phương. Đến năm 1990, cả nước có 12080 DNNN. Các doanh nghiệp trong thời kỳ này có quy mô nhỏ, vốn ít và công nghệ lạc hậu. Sự dàn trải của các DNNN làm cho nguồn vốn đầu tư của nhà nước không thể tập trung cho các ngành trọng điểm dẫn tới sự thiếu hụt vốn thường xuyên, hiệu quả sử dụng vốn rất thấp.
Từ năm 1990 Chính phủ đã ban hành nhiều chính sách như Nghị định 338/HĐBT, Quyết định 315/HĐBT, Chỉ thị 500/Ttg...nhằm sắp xếp và tổ chức lại các DNNN. Qua nhiều lần sắp xếp, sát nhập và giải thể, đến nay còn khoảng 5280 DNNN. Các DNNN đã nâng cao hơn trình độ tích tụ và tập trung, tăng qui mô và kinh doanh có hiệu quả hơn. Tuy nhiên hiện nay DNNN đang đứng trước thực trạng yếu kém về nhiều mặt: sức cạnh tranh còn quá yếu kém, qui mô quá nhỏ, thiếu vốn nghiêm trọng, lãi suất kinh doanh bình quân thấp hơn lãi suất ngân hàng, hiệu quả sút kém. Hầu hết các DNNN đang trong tình trạng “đói vốn” trầm trọng. Theo báo cáo tổng kết của Bộ thương mại năm 1998, trên 90% số doanh nghiệp không đủ mức vốn pháp định theo quy định tại Nghị định số 50/Chính phủ ngày 28/8/1996 của Chính phủ. Và ngay tại TP HCM, trong số 169 doanh nghiệp thương mại Nhà nước có tới 70% doanh nghiệp đang trong tình trạng thiếu vốn. Xét chung các DNNN hiện nay có tới 60% số DNNN không đủ vốn pháp định theo qui định tại NĐ 50/CP. Nghiêm trọng hơn là do thiếu vốn nên các DNNN không có khả năng đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hóa công nghệ, không có khả năng cạnh tranh.
2.2.Thực trạng về vốn và huy động vốn trong các DNNN.
Trong những năm gần đây vốn ở các DNNN đang có xu hướng tăng lên. Tuy nhiên qui mô vốn còn nhỏ bé và dàn trải. Năm 1994 vốn bình quân cho một DNNN chỉ khoảng 3,3 tỷ đồng, năm 1996 tăng lên 11 tỷ đồng, năm 1998 tăng lên 18 tỷ đồng và hiện nay khoảng 22 tỷ đồng. Như vậy tốc độ tăng bình quân hàng năm từ năm 1996 đến nay khoảng 19%. So với tốc độ tăng bình quân giai đoạn 1994 – 1998 có sự giảm sút (giai đoạn 1994 – 1998 tăng bình quân 52,8%)
Tồng nguồn vốn kinh doanh của khu vực DNNN năm 1996 khoảng 67.100 tỷ đồng, đến năm 1998 khoảng gần 100.000 tỷ đồng và hiện nay tăng lên gần 117.000 tỷ đồng. Tốc độ tăng bình quân hàng năm chỉ đạt dưới 15%. So với giai đoạn 1991-1994 tốc độ tăng bình quân giảm sút nhiều (giai đoạn 1991-1994 tăng bình quân 29%)
Đối với tổng công ty nhà nước, vốn nhà nước bình quân của tổng công ty 91 năm 1998 là 3.661 tỷ đồng (tương đương 260 triệu USD). Năm 1999 tăng lên 3900 tỷ đồng (tương đương 280 triệu USD). Năm 1998 trong số 17 tổng công ty 91 có tới 14 tổng công ty (chiếm 82%) có mức vốn nhà nước dưới mức vốn bình quân. Năm 1999 các tổng công ty nắm giữ 66% về vốn. Trong đó riêng 17 tổng công ty 91 đã chiếm tới 56% tổng số vốn kinh doanh.
Với tổng công ty 90 hình thành vốn còn kém xa so với các tổng công ty 91. Hơn 20% số tổng công ty 90 năm 1998 có vốn nhà nước bình quân dưới 100 tỷ đồng, trong đó ở 13 tổng công ty vốn từ ngân sách cấp cho mỗi tổng công ty chỉ được dưới 40 tỷ đồng. Sang năm1999 tình hình cũng không có nhiều tiến triển. Vốn nhà nước bình quân trong các tổng công ty 90 chỉ khoảng dưới 153 tỷ đồng. Như vậy có thể nói vốn trong các tổng công ty hiện nay còn quá nhỏ bé không tương xứng với tầm vóc của nó.
Mặc dù qui mô vốn của các DNNN nhỏ bé như vậy, nhưng số vốn lại không tập trung mà dàn trải, manh mún. Lượng vốn phân bổ trong từng doanh nghiệp rất nhỏ bé và không đều. Xét riêng 82 DNNN hoạt động trong lĩnh vực Thương mại do Bộ Thương mại trực tiếp quản lý. Đầu năm 1996 tổng nguồn vốn của 82 doanh nghiệp này chỉ có 2.603 tỷ đồng. Trong đó vốn cố định là 1.123 tỷ đồng, vốn lưu động là 1.480 tỷ đồng, được phân bổ như sau:
Bảng phân bổ nguồn vốn của các doanh nghiệp
Thương mại Nhà nước năm 1996
STT
Số lượng vốn
Số lượng doanh nghiệp
Tỷ trọng
1
Dưới 1 tỷ đồng
2
2.4%
2
Trên 1 đến 3 tỷ đồng
10
12.2%
3
Trên 3 đến 10 tỷ đồng
43
52.4%
4
Trên 10 đến 50 tỷ đồng
24
29.3%
5
Trên 50 tỷ đồng
3
3.7%
Nguồn: về tiếp tục đổi mới tổ chức và hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp Thương mại Nhà nước tháng 6/1996.
Như vậy, lượng vốn phân bổ cho từng doanh nghiệp rất nhỏ bé và không đồng đều. Có doanh nghiệp vốn chưa đến 1 tỷ đồng. Phần lớn các doanh nghiệp Thương mại Nhà nước có vốn từ 3 đến 10 tỷ đồng, chiếm 52.44%. Chỉ có 3 doanh nghiệp có vốn tương đối khá(Tổng công ty xăng dầu Việt Nam: 1.444 tỷ đồng; Công ty Thương mại và Đầu tư: 234 tỷ đồng; Công ty máy và phụ tùng: 138 tỷ đồng), đang độc chiếm thị trường mà chưa có đối thủ cạnh tranh thực sự.
Xét toàn bộ các DNNN năm 1998 và năm 1999 ta thấy lượng vốn phân bổ trong các DNNN có chiều hướng gia tăng. Tuy nhiên nó vẫn còn nhỏ bé và không đều. Điều đó được biểu hiện trong bảng sau:
Bảng phân bổ nguồn vốn của các DNNN
năm 1998-1999
STT
Số lượng vốn
Tỷ trọng doanh nghiệp
Năm 1998
Năm 1999
1
Dưới 5 tỷ đồng
72,5%
65,45%
2
Từ 5-10 tỷ đồng
7,5%
13,66%
3
Trên 10 tỷ đồng
20%
20,89%
(Nguồn: Tạp chí Tài chính doanh nghiệp số 2/2000 và Tạp chí Con số và sự kiện số 6/2000)
Qua bảng trên cho thấy, số DNNN có vốn dưới 5 tỷ đồng còn chiếm tỷ lệ quá lớn. Năm 1998 chiếm tới 72,5%, năm 1999 mặc dù có giảm nhưng vẫn chiếm 65,45%, trong đó số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng chiếm gần 26%. Riêng số DNNN do địa phương trực tiếp quản trị, số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng (tương đương 70.000 USD) chiếm trên 30%. Số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng chiếm một tỷ lệ nhỏ chỉ khoảng 20% năm 1998 và tăng lên 20,89% năm 1999.
Quy mô vốn đã nhỏ bé, dàn trải, cơ cấu vốn kinh doanh lại có nhiều bất cập. Năm 1997 vốn nhà nước mới chỉ đáp ứng được 20% nhu cầu vốn lưu động gây khó khăn cho doanh nghiệp. Trong năm 1997 vốn bình quân mỗi DNNN khoảng trên 17 tỷ đồng, trong đó VLĐ chiếm 20%, nhưng có tới 50% là vật tư ứ đọng, kém phẩm chất, công nợ khó đòi và lỗ, chỉ còn lại 10% cho hoạt động. VCĐ chiếm 80%, nhưng phần lớn là tài sản cố định cũ, lạc hậu năng suất thấp, thiết bị cũ kỹ....Như vậy VLĐ còn thiếu khoảng 20% mới đạt mức tối thiểu về VLĐ hoạt động. VCĐ lại chiếm tỷ lệ quá lớn làm cho đồng vốn bị ứ đọng và quay vòng chậm. Hiện nay vốn thực tế hoạt động của DNNN chỉ đạt 80%. Riêng VLĐ chỉ có 50% được huy động vào kinh doanh, còn lại nằm ở tài sản, vật tư mất mát, kém phẩm chất, công nợ chưa thu hồi được, lỗ chưa được bù đắp.
Thực tế hiện nay vốn ngân sách và vốn tự có của DNNN chưa được một nửa mức VLĐ cần thiết. Để duy trì sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp phải huy động vốn từ bên ngoài, chủ yếu là vay của các tổ chức tín dụng và chiếm dụng vốn lẫn nhau. Năm 1997 vốn đi vay của DNNN đã chiếm tới 85%-90% VLĐ. Trong khi đó, nguồn vốn hỗ trợ từ ngân sách chỉ bằng 8% so với GDP, vốn tự tích luỹ không đáng kể. Ngoài nguồn vốn vay từ các tổ chức tín dụng, hiện nay các DNNN còn huy động vốn thông qua liên doanh, liên kết, phát hành cổ phiếu, trái phiếu hay sử dụng hình thức tín dụng thuê mua....Tuy nhiên việc thực hiện huy động vốn từ bên ngoài ở DNNN thực hiện chưa đồng bộ, một số DNNN vẫn trông chờ ỷ lại vào vốn ngân sách nhà nước.
2.3.thực trạng về hiệu quả sử dụng vốn của các DNNN
Nhìn chung từ sau khi đổi mới nền kinh tế đến nay, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng của các DNNN đã tăng lên. Tuy nhiên nó vẫn còn ở mức thấp. Nhiều doanh nghiệp chưa bảo toàn được vốn, tình trạng thua lỗ xảy ra trong nhiều doanh nghiệp. Năm 1995 tài sản cố định trong các DNNN chiếm 70% - 80% nhưng chỉ cung cấp 44% tổng sản phẩm trong nước. Năm 1998 số DNNN thực sự có hiệu quả chỉ chiếm khoảng 40%, số bị thua lỗ liên tục chiếm tới 20% (nếu tính đủ khấu haoTSCĐ thì tỷ lệ này còn cao hơn), còn lại 40% là các doanh nghiệp trong tình trạng bấp bênh, nói chung là chưa có hiệu quả. Chỉ xét riêng các DNNN thuộc Thành phố Hà nội từ 1995 đến 1998 ta thấy nhiều doanh nghiệp thuộc thành phố quản trị làm ăn có lãi, trong đó có một số doanh nghiệp đạt doanh thu lớn, đóng góp ngân sách cao. Tuy nhiên số doanh nghiệp bị lỗ có chiều hướng gia tăng, tỷ trọng doanh nghiệp bị lỗ của Thành phố vẫn còn nhiều. Điều đó được thể hiện ở bảng sau:
Tình hình hoạt động của các DNNN thuộc Thành phố Hà nội
Loại doanh nghiệp
1995
1996
1997
1998
TW
TP
TW
TP
TW
TP
TW
TP
1.DNcó lãi
468
273
465
251
481
258
241
2.DNhoà vốn
18
15
15
28
36
38
13
3.DN bị lỗ
48
36
52
47
35
32
43
(Nguồn:Tạp chí kinh tế và phát triển số 38/2000)
Qua bảng trên cho ta thấy các DNNN do trung ương(TW) quản lý có hiệu quả kinh doanh cao hơn các DNNN do Thành phố quản lý. Các DNNN làm ăn thua lỗ có xu hướng giảm đối với các DNNN do TW quản lý, nhưng lại có xu hướng tăng đối với các DNNN do Thành phố quản lý.
Trong một số năm gần đây, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng có xu hướng giảm xuống. Năm 1995, một đồng vốn Nhà nước tạo ra được 3.46 đồng doanh thu và 0.19 đồng lợi nhuận. Năm 1998, các chỉ tiêu tương ứng chỉ đạt 2.9 đồng và 0.14 đồng. Thậm chí trong ngành công nghiệp, một đồng vốn chỉ tạo ra được 0.024 đồng lợi nhuận.
Hiệu quả sử dụng vốn giảm xuống đi kèm với nó là tốc độ tăng trưởng của các DNNN cũng giảm dần.
(Đơn vị: %)
STT
Chỉ tiêu
1996
1997
1998
Tốc độ tăng trưởng GDP nền kinh tế
9.34
8.15
5.80
Tốc độ tăng trưởng GDP của DNNN
11.28
9.67
5.48
Tỷ trọng nộp ngân sách của DNNN
64
56
-
Tỷ trọng GDP của DNNN trong toàn bộ nền kinh tế
-
40.48
40.07
Tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN
0.19
0.11
0.14
Tỷ suất nộp ngân sách trên vốn
0.32
0.21
0.35
(Nguồn: Tạp chí Tài chính doanh nghiệp Tháng 2/2000)
Qua bảng số liệu trên cho thấy tốc độ tăng trưởng của DNNN năm 1996 và 1997 cao hơn tốc độ tăng trưởng GDP của nền kinh tế, nhưng đến năm 1998 thì ngược lại, thấp hơn. Cũng qua bảng số liệu trên cho thấy mặc dù năm 1998 tỷ suất lợi nhuận trên vốn của DNNN có giảm so với năm 1996, nhưng lại tăng so với năm 1997.
Nhìn chung, tình hình huy động và sử sụng vốn trong thời gian qua đã đạt được những kết qủa nhất định, song bên cạnh đó nó đang gặp phải những khó khăn cần phải được giải quyết.
2.4.Những kết quả và tồn tại.
2.4.1. Những kết quả đạt được.
Từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay hệ thống DNNN đã đạt được một số kết quả như sau:
Một là, giảm 68% số DNNN từ 12.080 DNNN vào đầu năm 1990 xuống còn 5.280 DNNN hiện nay. Số doanh nghiệp giảm đi chủ yếu là do sát nhập giải thể. Trong đó giải thể hầu hết các DNNN cấp huyện, quy mô quá nhỏ bé, không có điều kiện tồn tại trong cơ chế thị trường. Điều này góp phần tăng sự tích tụ tập trung vốn , tăng quy mô doanh nghiệp.
Hai là, nâng cao rõ rệt trình độ tích tụ và tập trung, tăng qui mô DNNN. Số DNNN có vốn dưới 1 tỷ đồng đã giảm từ 50% (năm 1994) xuống còn 26% (năm 1998). Số DNNN có số vốn trên 10 tỷ đồng đã tăng tương ứngtừ 10% lên gần 20%. Đến năm 1999 số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng đã tăng lên gần 21%. Vốn bình quân của một DNNN tăng từ 3,3 tỷ đồng năm 1994 lên gần 22 tỷ đồng hiện nay. Đã hình thành các DNNN dưới dạng các tổng công ty 90,91. Tính đến cuối tháng 2/2000 cả nước đã có 76 tổng công ty 90 và 17 tổng công ty 91. Các tổng công ty Nhà nước nắm giữ 66% về vốn. Trong đó riêng các tổng công ty 91 đã chiếm tới 56% tổng số vốn kinh doanh, bình quân số vốn của một tổng công ty 91 hiện nay lên đến gần 3900 tỷ đồng( tương đương 280 triệu USD).
Ba là, tổng số lượng DNNN giảm gần 70%, song hệ thống DNNN vẫn phát triển ổn định thích nghi dần với cơ chế thị trường, góp phần quan trọng trong việc phát huy vai trò chủ đạo của kinh tế nhà nước. Tỷ trọng trong tổng sản phẩm quốc nội (GDP) do các DNNN tạo ra tăng từ 36.5% (năm 1991) lên 40.2% (năm 1999), tỷ lệ nộp ngân sách trên vốn Nhà nước tăng từ 14.7% (năm 1991) lên gần 35% (năm 1998).
Bốn là, đã cổ phần hóa được hơn 400 DNNN. Hầu hết các DNNN sau khi cổ phần hóa, đều hoạt động có hiệu quả. Tính đến năm 1999, đã có 370 DNNN cổ phần hóa đã thu hút thêm từ trong xã hội gần 1.432 nghìn tỷ đồng, bằng 111% tổng số vốn có tại thời điểm cổ phần hóa của các DNNN này để mở rộng sản xuất kinh doanh.
Năm là, hiệu quả sản xuất kinh doanh nói chung, hiệu quả sử dụng vốn nói riêng tăng lên rõ rệt. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn nhà nước năm 1993 là 6.8% đã tăng lên 14% năm 1998.
Tuy nhiên các DNNN vẫn có những tồn tại nhất định.
2.4.2. Những tồn tại trong các DNNN hiện nay.(3)
Thứ nhất, qui mô của các DNNN còn bé và dàn trải, trùng chéo về ngành nghề. đến nay vốn bình quân trong các DNNN chỉ khoảng 22 tỷ đồng (tương đương 1.5 triệu USD). Đây là số vốn quá nhỏ bé so với vai trò của DNNN và so với các DNNN của các nước trong khu vực. Số DNNN có vốn 5 tỷ đồng trở xuống chiếm tới 65,45%, số DNNN có vốn trên 10 tỷ đồng chỉ chiếm gần 21%. Các DNNN dàn trải trên tất cả các ngành nghề từ sản xuất đến thương mại, dịch vụ gây tình trạng phân tán manh mún về vốn, trong khi vốn đầu tư nhà nước rất hạn chế, không tập trung được vào những ngành, lĩnh vực chủ yếu, then chốt.
Thứ hai, trình độ kỹ thuật, công nghệ các DNNN lạc hậu, năng lực cạnh tranh kém, rất hạn chế và thua thiệt trong hội nhập thị trường quốc tế. Hầu hết các DNNN được trang bị máy móc, thiết bị từ nhiều nước khác nhau và thuộc nhiều thế hệ, chủng loại. Theo kết quả khảo sát của bộ Khoa học, Công nghệ và Môi trường tại nhiều DNNN thuộc 7 ngành thì dây truyền sản xuất, máy móc thiết bị của ta lạc hậu so với thế giới từ 10 đến 20 năm, mức độ hao mòn hữu hình từ 30%-50%, có tới 38% ở dạng phải thanh lý. Thời hạn khấu hao tài sản cố định kéo dài bình quân từ 10 đến 12 năm, trong khi mức khấu hao bình quân của khu vực và Thế giới chỉ từ 7 đến 8 năm. Báo cáo điều tra ở Hà nội và TP HCM cho biết số máy móc có tuổi trung bình trên 10 năm, chiếm tới 40% và chỉ có 30% dưới 5 năm. Thiết bị cũ kỹ, lạc hậu đã ảnh hưởng lớn đến chất lượng, giá cả và hạn chế năng lực canh tranh của sản phẩm được tạo ra. Điều này đòi hỏi phải có lượng vốn đủ lớn để đầu tư đổi mới trang thiết bị, hiện đại hoá công nghệ nhằm tăng khả năng cạnh tranh của các DNNN trên thị trường.
Thứ ba, nợ của các DNNN là quá lớn. Năm 1996 là 174.797 tỷ đồng, năm 1999 là 199.060 tỷ đồng. So với tổng số vốn DNNN, nợ phải trả bằng 109% (tương đương 126.366 tỷ đồng), nợ phải thu bằng 62% ( tương đương 72644 tỷ đồng), trong khi khả năng thanh toán của các DNNN rất thấp. Nợ quá hạn hoặc khó đòi chiếm tỷ lệ không nhỏ đang là gánh nặng đối với các DNNN. Ngoài phần vốn đầu tư ban đầu khi thành lập, hàng năm DNNN còn phải vay tới 85% vốn từ nhà nước với lãi suất ưu đãi. Trong khi ngân sách luôn thiếu hụt nhưng Nhà nước vẫn phải giành một tỷ lệ đáng kể để hỗ trợ cho một số DNNN. Trong ba nă
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 6204.doc