Đề tài Một số giải pháp và kiến nghị để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam

MỤC LỤC

Trang

Lời nói đầu 1

Chương I: Tính tất yếu khách quan xuất hiện và vai trò của dnv&n ở việt nam 2

I. Tính tất yếu khách quan xuất hiện DN VVN . 2

II. Vai trò của DNVVN 3

1. Khái niệm DNVVN . 3

2. Vai trò của DNVVN đối với sự phát triển kinh tế-xã hội của nước ta hiện nay. 4

Chương II: Thực trạng, xu thế, yêu cầu phát triển DNVVN ở việt nam 8

I . Thực trạng của các DN&VN nước ta : 8

1. Chỉ tiêu vốn và lao động: 8

2. Về tình hình sản xuất kinh doanh 8

3. Vốn : 10

4. Về thị trường : 10

5. Về trình độ kỹ thuật công nghệ , đất đai của DNVVN : 12

6. Về kiến thức và tay nghề của lực lượng lao động và đội ngũ quản lý ở các DNVVN : 13

7. Về quy mô sản xuất 16

II. Xu thế phát triển DNVVN ở Việt Nam hiện nay 17

Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị để phát triển DNVVN ở Việt Nam 18

I- Trước hết phải đổi mới về phương hướng – Cơ chế quản lý DNVVN 18

1. Tính tất yếu khách quan của việc đổi mới 18

2. Phương pháp đổi mới: 20

II. Một số kiến nghị nhằm đổi mới cơ chế quản lý 29

1. Chính sách hỗ trợ DNV&N 29

2. Kiến nghị về tài chính. 35

3. Kiến nghị về thuế. 37

4. Kiến nghị về tổ chức. 38

III. So sánh với một số nước trên thế giới. 40

1. Đài Loan. 40

2. Hàn Quốc. 40

Kết luận và kiến nghị 41

 

doc45 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1583 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp và kiến nghị để phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đến địa phương còn cồng kềnh, phức tạp, hoạt động chưa có sự phối hợp chặt chẽ, phân công trách nhiệm rõ ràng. Mặt khác, việc quản lý các DNVVN ngoài quốc doanh quản lý một số lĩnh vực sản xuất kinh doanh còn buông lỏng. Các cơ quan quản lý và cán bộ quản lý chưa thực sự đổi mới kịp với quá trình phát triển của DNVVN. Vì vậy cần thiết phải có sự kiện toàn, sắp xếp, đổi mới hệ thống và phương pháp quản lý, kiểm soát trên tinh thần hỗ trợ DNVVN phát triển. 7. Về quy mô sản xuất Vốn ban đầu của doanh nghiệp ở nông thôn rất thấp so với thành thị; năm 1992 ở nông thôn vốn sản xuất bình quân của doanh nghiệp hộ gia đình là 1010 USD, của doanh nghiệp tư nhân là 2500 USD, ở thành thị tương ướng là 4200 USD và 15140 USD; có sự khác nhau rất lớn về quy mô vốn ban đầu giữa các tỉnh và giữa các doanh nghiệp trong một tỉnh. Tỉnh có mức cao nhất và tỉnh có mức thấp nhất chênh lệch tới gần 4 lần. Tín dụng của khu vực nhà nước hầu như chưa có vai trò gì trong việc tạo vốn ban đầu cho các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn: 60% doanh nghiệp dựa vào vốn tự có và vốn vay không có lãi của bạn bè, ngươì thân; khoảng 15% doanh nghiệp hộ gia đình và 29% doanh nghiệp tư nhân có tạo thêm vốn từ các nguồn vay không chính thức nhưng mức độ cũng không nhiều; so với các doanh nghiệp nhỏ ở thành thị, thì khả năng thu hút lao động của các doanh nghiệp nhỏ ở nông thôn thường ít hơn từ 1 đến 3 lần và mức đầu tư cho một lao động chỉ bằng khoảng 30%. II. Xu thế phát triển DNVVN ở Việt Nam hiện nay Đường lối đổi mới của Đảng ta là phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN, giảI phóng sức sản xuất xã hội, dân chủ hoá đời sống kinh tế, DNVVN có tiềm năng to lớn, tiềm ẩn trong các thành phần kinh tế và trong nhân dân, đang được khơI dậy và phát triển. Số lượng DN ngoàI quốc doanh mà phần lớn là DNVVN tăng lên nhanh chóng trong khu vực kinh tế tập thể và DN Nhà nước đang được tổ chức sắp xếp lạI theo xu hướng giảm về số lượng, nâng cao chất lượng và hiệu quả kinh doanh. Về cơ cấu theo loạI hình hộ gia đình, DN Tư nhân có tốc độ tăng nhanh nhất so với các loạI hình DN khác . Cho đến nay nước ta vẫn là một nước kém phát triển năng suất lao động và tích luỹ còn thấp, dân chưa có khả năng đầu tư lớn nên giảI pháp thực tế là đầu tư nhỏ với diện rộng để có tích luỹ từ nội bộ dân cư, từ số lượng chuyển hoá thành chất lượng. Bên cạnh các DN lớn sở hữu Nhà nước giữ vị trí then chốt trong nền kinh tế, chúng ta có một hệ thống DNVVN rộng khắp. Với lợi thế vốn có, DNVVN sẽ giảI quyết được nhiều vấn đề mà DN lớn khó có thể làm tốt được : lao động, việc làm, môI trường, chi phí đầu tư thấp, phù hợp với khả năng quản lý của chủ DN . Trong tương lai DNVVN sẽ phát triển rộng khắp như một yếu tố phụ trợ cho các khu Công nghiệp tập trung. DNVVN sẽ là cầu nối giũa công nghiệp với nông thôn, nông nghiệp, sản xuất với tiêu dùng theo xu hướng xã hội hoá. Nền kinh tế sẽ cùng một lúc phát triển theo hai hướng : vi hoá và tập đoàn hoá ; hai xu hướng đó không biệt lập mà xâu chuỗi, hợp tác thành một hệ thống mà DNVVN là hạ tầng cơ sở cho cấu trúc nền sản xuất xã hội. Sự co giãn và chuyển động xen kẽ của các DNVVN và DN lớn là liệu pháp cho cả sự trì trệ lẫn sự phát triển “ quá nóng “ của nền kinh tế. Đảng ta chủ trương thực hiện CNH, HĐH đất nước mà trọng tâm là công nghiệp hoá nông nghiệp và kinh tế nông thôn. Với mạng lưới rộng khắp và truyền thống gắn bó với nông nghiệp và kinh tế nông thôn. DNVVN là động lực quan trọng thúc đẩy nền kinh tế phát triển ; hình thành những tụ điểm, cụm công nghiệp để tác động chuyển hoá sản xuất nông nghiệp theo hướng CNH, HĐH. Hệ thống Công nghiệp chế biến và sản xuất đồ gia dụng sẽ phát triển. Các làng nghề sẽ được hiện đại hoá . Chương III: Một số giải pháp và kiến nghị để phát triển DNVVN ở Việt Nam I- Trước hết phải đổi mới về phương hướng – Cơ chế quản lý DNVVN 1. Tính tất yếu khách quan của việc đổi mới 1.1 Đổi mới cơ chế quản lý là đòi hỏi khách quan của nền kinh tế, vì bản thân bất cứ một nền kinh tế nào cũng có xu hướng vận động phát triển theo xu hướng xoáy trôn ốc, ngày một cao hơn. Vì vậy, đổi mới hoàn thiện cơ chế quản lý nền kinh tế nói chung, quản lý doanh nghiệp nói riêng là việc làm thường xuyên. Đối với nước ta, một thời gian dài duy trì nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung, tương ứng với nó là cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Khi chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước đòi hỏi phải chuyển từ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp sang cơ chế quản lý thị trường. Muốn phát triển nền kinh tế đất nước trước hết phải dựa vào doanh nghiệp vừa và nhỏ, từ doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đi lên doanh nghiệp lớn. Xuất phát từ vai trò quan trọng của doanh nghiệp vừa và nhỏ và đặc điểm nước ta khi bước vào nền kinh tế thị trường, với xuất phát điểm rất thấp so với các nước trong khu vực trên thế giới đòi hỏi phải có cơ chế quản lý mới phù hợp, tạo ra được hành lang pháp lý và môi trường kinh tế- xã hội thuận lợi, để thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. 1.2. Quan điểm của chủ nghĩa duy vật biện chứng cho rằng cơ chế quản lý cũ không tự nhiên mất đi, cơ chế quản lý mới không tự nhiên hình thành, mà nó phải trải qua một quá trình đấu tranh, để cơ chế quản lý mới từng bước loại bỏ cơ chế quản lý cũ. Thực tế hơn 8 năm qua chuyển sang nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường chưa đủ thời gian, kinh nghiệm để hoàn thiện cơ chế quản lý mới, ảnh hưởng của cơ chế quản lý cũ vẫn còn dai dẳng. Nền kinh tế thị trường với những quy luật khách quan vốn có của nó, chính những quy luật ấy điều chỉnh kinh tế phát triển. Song không phải không có những hạn chế, trái ngược với mục tiêu phát triển xã hội, đó là sự độc quyền, cá lớn nuốt cá bé, sự phân hoá giàu nghèo…Trong điều kiện nước ta hiện nay, với xu hướng nền kinh tế mở cửa bên cạnh sự tồn tại của hàng trăm nghìn doanh nghiệp vừa và nhỏ là hàng ngàn các doanh nghiệp lớn của các thành phần kinh tế, đặc biệt là doanh nghiệp lớn tư nhân, kể cả tư nhân trong nước và tư nhân nước ngoài. Mà các doanh nghiệp đều có quyền tự định đoạt sản xuất cái gì ? Sản xuất như thế nào? Điều đó dẫn đến sự bất lợi cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ khi cùng sản xuất một loại sản phẩm với doanh nghiệp lớn. Các doanh lớn với nguồn vốn lớn, công nghệ kỹ thuật hiện đại sẽ tạo ra sản phẩm với chi phí thấp, ngược lại các doanh nghiệp vừa và nhỏ mà đặc biệt là các doanh nghiệp nhỏ với nguồn vốn hạn hẹp, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, lao động thủ công là chủ yếu, sẽ tạo ra cùng loại sản phẩm với chi phí lớn hơn doanh nghiệp lớn. Trong môi trường cạnh tranh nếu cung nhỏ hoặc ngang bằng về loại sản phẩm mà doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất ra, thì nó mới có thể bù đắp được chi phí sản xuất, có lợi nhuận, tồn tại và phát triển được. Ngược lại cung lớn hơn cầu thì doanh nghiệp vừa và nhỏ khó có thể bù đắp được chi phí sản xuất và dễ dẫn tới nguy cơ phá sản. Vì vậy đòi hỏi phải có cơ chế chính sách bảo vệ doanh nghiệp vừa và nhỏ để nó tồn tại và phát triển. 1.3 Để thực hiện được mục tiêu dân giàu nước mạnh, xã hội công bằng văn minh thì trước hết phải phát triển sản xuất. Nước ta cũng như các nước đanh phát triển khác, nguồn vốn hạn hẹp, nhân lực dồi dào, công nghệ kỹ thuật lạc hậu, thị trường chưa phát triển do vậy việc phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là phù hợp nhất đáp ứng được mục tiêu tạo ra công ăn việc làm, nâng cao thu nhập cho người lao động, đáp ứng yêu cầu bức bách của đất nước. Về lâu dài, sự phát triển của doanh nghiệp vừa và nhỏ sẽ đóng góp tỷ trọng lớn trong thu nhập quốc dân. Quá trình chuyển đổi nền kinh tế từ cơ chế kế hoạch hoá tập chung sang cơ chế thị trường, có sự điều tiết của nhà nước theo định hướng xã hội chủ nghĩa, đòi hỏi hình thành một hệ thống chính sách những văn bản pháp luật tạo cơ sở pháp lý cho việc vận hành của toàn bộ nền kinh tế cũng như trong hoạt động ccủa các doanh nghiệp. Đối với khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ vấn đề ban hành các thể chế pháp lý càng có yêu cầu bức bách hơn. 2. Phương pháp đổi mới: 2.1. Đổi mới về nhận thức tư tưởng. Trong quá trình đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta phải quán triệt sâu sắc những vấn đề sau: Xuất phát từ học thuyết của Mác về quan hệ sản xuất phải phù hợp với tính chất và trình độ phát triển của lực lượng sản xuất, kiến trúc thượng tầng phải phù hợp với hạ tầng kinh tế. Vì vậy, cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải được xây dựng phù hợp với mô hình kinh tế đã lựa chọn, đó là nền kinh tế thị trường có định hướng xã hội chủ nghĩa và bản chất của cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải phù hợp với bản chất của mô hình kinh tế đó. Cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ là cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Cơ chế thị trường được thể hiện thông qua ai là người quyết định vấn đề cơ bản của doanh nghiệp, bao gồm: sản xuất dịch vụ cái gì? sản xuất dịch vụ như thế nào? sản xuất dịch vụ cho ai? Vấn đề thứ nhất giải pháp cho việc lựa chọn hàng hoá sản xuất hoặc dịch vụ, cái cầu cho nhu cầu thị trường tức là sản xuất, dịch vụ các thị trường cần chứ không phải các doanh nghịêp có sẵn. Vấn đề thứ hai là giải pháp lựa chọn công nghệ như thế nào, để chất lượng hàng hoá có thể đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Vấn đề thứ ba là cung cấp cho ai, ai là người mua. Doanh nghiệp phải tìm lấy thị trường tiêu thụ hàng hoá của mình, xác định rõ đối tượng tiêu dùng và nhu cầu thị hiếu của họ. Cả ba vấn đề trên đã phản ánh rõ ràng là thị trường sẽ đóng vai trò quyết định ba vấn đề cơ bản của doanh nghiệp. Điều này cũng nói lên sự khác biệt của cơ chế thị trường với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp. Tuy rằng nền kinh tế thị trường phát triển là phù hợp với quy luật phát triển kinh tế nước ta. Nhưng nó vẫn phải có sự tác động quản lý của nhà nước. Bởi vì trong nền kinh tế thị trường sẽ nảy sinh rất nhiều khuyết tật như độc quyền, ô nhiễm môi trường, khủng hoảng, thất nghiệp…Do đó cần có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật để các doanh nghiệp hoạt động đúng mục tiêu mà chúng ta hướng tới sao cho lợi ích của họ cũng không bị thay đổi. Cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải phù hợp với chủ trương xây dựng và phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần. Bởi phát triển nền kinh tế thành phần là một tất yếu khách quan. Cơ chế mới cần tạo được môi trường cạnh tranh hoàn hảo cho các doanh nghiệp. Hơn nữa nó xác định phát triển nền kinh tế nhiều thành phần ổn định, lâu dài, thì các ông chủ tư nhân mới thực sự yên tâm đầu tư vốn vào sản xuất kinh doanh, đầu tư chiều sâu vào đổi mới công nghệ và hoạch định chiến lược lâu dài. Phát triển nền kinh tế hàng hóa nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước là nền tảng cho mọi quan điểm hệ thống pháp luật, chính sách về quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. Thiếu nó hoặc vận dụng nó không đúng thì cơ chế quản lý doanh nghiệp nói chung, cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng sẽ bị kìm hãm sự phát triển của doanh nghiệp. Mặt khác cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ phải dưạ trên nền tảng lý luận về quản lý doanh nghiệp nói chung, phải biết kế thừa tinh hoa của nhân loại, không có sự mặc cảm tư bản hay xã hội chủ nghĩa trong khoa học quản lý. Điều đó đòi hỏi phải có một hệ thống quan điểm đồng bộ, nhất quán có tính ổn định lâu dài. 2.2. Những quan điểm cơ bản trong đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. Quan điểm hiệu quả kinh tế xã hội. Trong cơ chế thị trường, tiêu thức quan trọng để đánh giá doanh nghiệp là hiệu quả kinh tế xã hội, mặc dù doanh nghiệp hoạt động vì mục tiêu tìm kiếm lợi nhuận tức hiệu quả kinh tế là chủ yếu. Nhưng trên góc độ quản lý không thể xem nhẹ vấn đề xã hội vì vậy phải gắn hiệu quả kinh tế với xã hội làm một. Do đó cơ chế mới cần bảo đảm yêu cầu: thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ tăng lợi nhuận, đảm bảo mức doanh thu, mức lãi trên một đồng vốn, thu hút nhiều lao động xã hội. Để đảm bảo hiệu quả kinh tế xã hội- pháp luật, chính sách và định hướng phát triển phải nhằm vào sự khuyến khích phát triển mạnh mẽ doanh nghiệp vừa và nhỏ . Quan điểm phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Để hội nhập vào nền kinh tế thê giới, tránh nguy cơ tụt hậu về kinh tế, phải tập trung thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá có ý nghĩa là từng bước chuyển đổi căn bản toàn diện phương thức sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp từ hoạt động thủ công, lao động bằng máy móc lạc hậu sang lao động bằng máy móc, thiết bị hiện đại là chủ yếu tạo ra năng suất lao động cao. Quan điểm tiên tiến và hiện thực. Quá trình xây dựng và hoàn thiện cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ trước hết phải đảm bảo yêu cầu tiên tiến hiện đại. Điều đó đòi hỏi ccác nghiên cứu ứng dụng các thành tựu của khoa học kỹ thuật. Nước ta chỉ có thuận lợi là nguồn nhân lực dồi dào, còn lại các mặt như vốn, thị trường thì đều yếu kém. Chính vì thế việc xây dựng hệ thống pháp luật, chính sách phải linh hoạt, mềm dẻo đảm bảo tính khả thi, tức là sự tiên tiến hiện đại phải phù hợp với khả năng về vốn và trình độ lao động trong từng giai đoạn, tạo điều kiện cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ sử dụng hợp lý nguồn nhân lực đặc biệt là sự hài hoà trong việc sử dụng nguồn lao động và công nghệ để đạt hiệu quả kinh tế xã hội cao nhất. Quan điểm kết hợp hài hoà lợi ích của chủ doanh nghịêp, người lao động và nhà nước. Cơ chế mới phải đảm bảo lợi ích của ba bên chủ doanh nghịêp, người lao động và lợi ích của nhà nước. Lợi ích thoả đáng sẽ là động lực quan trọng thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Quan điểm này được quán triệt trong các khâu: phân phối thu nhập, giải quyết các mối quan hệ trong quá trình sản xuất kinh doanh. Quan điểm kết hợp nhịp nhàng giữa phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ với các doanh nghiệp lớn. Doanh nghiệp vừa và nhỏ với doanh nghiệp lớn có mối quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình phát triển kinh tế của một đất nước, nó hỗ trợ đắc lực cho nhau trong quá trình sản xuất kinh doanh. Vì vậy theo quan điểm này xác định doanh nghiệp lớn là những hạt nhân đứng ở vị trí trung tâm, doanh nghiệp vừa và nhỏ là những vệ tinh xung quanh, đó là cơ sở ban đầu để hình thành các tập đoàn kinh tế lớn, có đủ sức cạnh tranh trên thương trường, có khả năng đáp ứng nhu cầu của cùng về một số loại hàng hóa nhất định. Tuy nhiên, doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng có những đối lập riêng, nên yêu cầu của quan điểm này là cơ chế mới phải tạo ra môi trường cho sự liên kết hợp tác sản xuất kinh doanh giữa doanh nghiệp lớn với doanh nghiệp vừa và nhỏ. 2.3. Đổi mới cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ là hướng tiếp tục hoàn thiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Trước hết chúng ta cần đoạn tuyệt dứt khoát với cơ chế quản lý tập trung quan liêu bao cấp, thiết lập và thực hiện cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước. Nhà nước không trực tiếp can thiệp vào hoạt động kinh tế của doanh nghiệp, quyền tự chủ của doanh nghiệp được trả đúng vị trí của nó. Đại hội Đảng lần thứ VII khẳng định: “ tiếp tục xoá bỏ cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, chuyển sang cơ chế thị trường có sự quản lý của nhà nước bằng pháp luật kế hoạch chính sách và các công cụ khác”. Nhà nước quản lý bằng kế hoạch, pháp luật và các công cụ kinh tế vĩ mô chứ không can thiệp vào hoạt động sản xuất kinh doanh vi mô. Các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng của bất cứ hình thức nào cũng luôn luôn chịu sự chi phối từ hai phía: quan hệ cung cầu, giá cả thị trường và vai trò điều tiết của, nhà nước. Cơ chế mới đòi hỏi sự “ tự điều chỉnh” hoạt động sản xuất- kinh doanh của doanh nghiệp cho phù hợp với pháp luật chính sách của nhà nước và nhu cầu và nhu cầu thị trường. Vì vậy quá trình đổi mới đòi hỏi nhà nước phải tạo ra được khuôn khổ pháp luật, chính sách hoàn chỉnh cũng như tạo môi trường thuận lợi cho các doanh nghiệp hoạt động. Tác động của nhà nước chính là tác động vào môi trường và chủ yếu thông qua chính sách tiền tệ, lãi suất giá cả, tín dụng…Các doanh nghiệp vừa và nhỏ nói chung cần được bảo vệ ưu đãi hỗ trợ cả bằng pháp luật, chính sách, và tổ chức thực hiện, tạo điều kiện cho quá trình tự điều chỉnh. Tiếp theo nhà nước thực hiện chức năng quản lý của mình đối với các doanh nghiệp bằng pháp luật, chính sách. Nhà nước ban hành các văn bản pháp luật, chính sách, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp và điều tiết các hoạt động kinh tế. Đối với loại hình doanh nghiệp vừa và nhỏ quy định rõ lĩnh vực ưu tiên, ngành nghề ưu tiên, cần thiết các quy định trên phải được thực hiện bằng luật, chính sách riêng. Song song với việc quản lý bằng pháp luật, nhà nước còn phải đảm nhiệm chức năng cung cấp dịch vụ công cộng, duy trì sự ổn định của nền kinh tế, tác động phân phối hợp lý của các nguồn lực và bảo vệ môi trường. Nhà nước đảm bảo vai trò điều tiết nền kinh tế, điều tiết hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bằng các công cụ hành chính- pháp luật và công cụ kinh tế như thuế, tín dụng, đơn đặt hàng… Công cụ hành chính- pháp luật quan trọng đối với quá trình phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ là các đạo luật, đặc biệt là luật cơ bản và doanh nghiệp nhỏ, luật khuyến khích đầu tư, chính sách ngành nghề… Nhà nước còn sử dụng các công cụ kinh tế gián tiếp tác động đến các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thông qua hoạt động của cả thị trường như đơn đặt hàng của các cơ quan nhà nước, dịch vụ phi hàng hoá. Nhà nước tác động đến việc sản xuât cái gì? Sản xuất như thế nào? sản xuất cho ai? Của các doanh nghiệp thông qua hệ thông pháp luật, thông qua điều tiết bằng công cụ vĩ mô chứ không phải bằng chỉ tiêu pháp lệnh, bằng mệnh lệnh hành chính… Các doanh nghiệp nói chung, doanh nghiệp vừa và nhỏ nói riêng với chức năng quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh, doanh nghiệp có quyền tự chủ hoàn toàn về qúa trình sản xuất kinh doanh theo luật định, tự chịu trách nhiệm về kết quả sản xuất kinh doanh, thực hiện lời ăn lỗ chịu. Doanh nghiệp quản lý hoạt động sản xuất kinh doanh bằng chiến lược, kế hoạch sản xuất kinh doanh, trực tiếp điều hành quá trình sản xuất- kinh doanh bao gồm huy động các yếu tố đầu vào, tổ chức sản xuất kinh doanh, giải quyết các yếu tố đầu ra. Quá trình sản xuất kinh doanh là quá trình điều chỉnh kế hoạch lựa chọn phương án sản xuất kinh doanh cho phù hợp với cung – cầu, giá cả thị trường, chịu sự chi phối trực tiếp của thị trường. Doanh nghiệp thực hiện các chức năng quản lý các biện pháp hành chính và biên pháp kinh tế kỹ thuật, trong đó biện pháp kỹ thuật là chủ yếu. 2.4. Đổi mới nội dung các bộ phận cấu thành cơ chế quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trước hết phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống pháp luật xuất phát từ thực tiễn hệ thống pháp luật, chính sách chưa đầy đủ và đồng bộ, thậm chí có vấn đề trái ngược nhau, tính hiệu lực chưa cao, do đó trong thời gian tới phải ban hành thêm một số luật cần thiết và triển khai các bộ luật ban hành. Tiến hành xây dựng và ban hành luật thương mại, triển khai thực hiện luật khuyến khích đầu tư trong nước. Bộ luật lao động, luật công ty, luật doanh nghiệp tư nhân, luật doanh nghiệp nhà nước, luật phá sản doanh nghiệp, luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam… đồng thời hoàn thiện luật thuế, bao gồm cả thuế doanh thu, thuế lợi tức, thuế nhập khẩu. Ngoài ra còn nghiên cứu để ban hành luật bộ luật cơ bản về doanh nghiệp vừa và nhỏ. Trong bộ luật này phải xác định mục tiêu thành lập và hoạt động của doanh nghiệp, mô hình doanh nghiệp và tổ chức quản lý, chế độ trách nhiệm của chủ doanh nghiệp đối với nhà nước và người lao động đồng thời cũng phải xác định rõ ngành, nghề, lĩnh vực ưu tiên giành cho doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoặc doanh nghiệp nhỏ nói riêng các ưu đãi về tín dụng, thuế, trợ giúp đào tạo quản lý, đào tạo tay nghề trong những năm đầu thành lập doanh nghiệp. Thực hiện các chế định có liên quan đến tài chính doanh nghiệp, kiểm toán, kế toán, tiếp đến là vấn đề ngành hàng, chất lượng sản phẩm và thuế. Khuôn khổ pháp luật cũng như quy chế quản lý phải đảm bảo tính ổn định lâu dài và tính đồng bộ thống nhất để các doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào hoạt động sản xuất kinh doanh. Tính ổn định lâu dài trước hết thể hiện ở quan điểm nhất quán của nhà nước đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc các thành phần kinh tế, không có sự phân biệt đối xử trong ccác văn bản pháp luật cũng như tổ chức thực hiện. Sự ổn định lâu dài còn thể hiện ở tính khả thi của hệ thống văn bản pháp luật. Xuất phát từ thực tiễn của các doanh nghiệp vừa và nhỏ trong nền kinh tế thị trường, để hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội, xây dựng pháp luật, chính sách để quản lý trong một số năm nhất định tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp yên tâm đầu tư vào sản xuất kinh doanh trên cơ sở chiến lược và kế hoạch, khắc phục tình trạng làm ăn theo kiểu “ chụp giật”. Sự ổn định lâu dài của pháp luật, chính sách là tiền đề quan trọng để đảm bảo quyền tự chủ thực sự trong sản xuất- kinh doanh của các doanh nghiệp. Một xu hướng mới là đồng nhất cơ chế quản lý các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hoạt động vì mục tiêu lợi nhuận, không phân biệt hình thức sở hữu quốc doanh hay ngoài quốc doanh. Một hoạt động của doanh nghiệp hoàn toàn độc lập theo pháp luật và chịu sự kiểm soát của các cơ quan quản lý nhà nước theo luật định và các chính sách mới bổ sung ( nếu có). Không có hệ thống các cơ quan chủ quản để “chỉ thị” và cho “ý kiến chỉ đạo” như hiện nay đối với các doanh nghiệp nhà nước. Để tăng cường hiệu lực quản lý của nhà nước trong việc kiểm tra, giám sát hoạt động kinh tế của doanh nghiệp thì cơ chế kiểm tra, giám sát hoạt động của các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc về các cơ quan chức năng của nhà nước. Phải luật hoá, chi tiết hoá các quy định trong các văn bản pháp lý của nhà nước, đặc biệt là các thủ tục hành chính quản lý doanh nghiệp vừa và nhỏ, chấm dứt tình trạng mỗi địa phương tự đặt ra những quy định riêng từ thủ tục đăng ký, cấp phép thành lập doanh nghiệp đến việc kiểm soát chất lượng sản phẩm, định thuế suất và quản lý thuế. Tiếp theo chúng ta phải đổi mới và hoàn thiện hệ thống chính sách thúc đẩy doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển. Chúng ta cần tập trung đổi mới các chính sách sau: Chính sách về ngành nghề và ngành hàng. Tính đa dạng phong phú về ngành nghề, ngành hàng kinh doanh của các doanh nghiệp vừa và nhỏ là vấn đề khách quan phù hợp với điều kiện nền kinh tế thị trường mới phát triển ở Việt Nam. Về thị trường phát triển chưa ổn định, các doanh nghiệp vốn ít, do đó các doanh nghiệp nhỏ vẫn hoạt động theo phương châm vốn ít, lãi nhiều, giải thể nhanh. Chính vì vậy chỉ có 30% tổng vốn của nhà kinh doanh đầu tư vào sản xuất, còn 70% đầu tư vào thương nghiệp, dịch vụ. Chính vì vậy để phù hợp với đặc điểm Việt Nam và phát huy lợi thế so sánh tương đối, chính sách ngành nghề cần có sự ưu đãi đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ, đặc biệt là doanh nghiệp nhỏ hoạt động trong lĩnh vực nông nghiệp, lâm nghiệp, ngư nghiệp, chế biến các sản phẩm từ nông nghiệp rừng, biển thông qua thuế, trợ cấp thông tin, trợ giúp kỹ thuật… để thu hút các doanh nghiệp chuyển vào sản xuất- kinh doanh theo định hướng chiến lược và kế hoạch của nhà nước. Trước mắt nhà nước chấp nhận tăng cường quản lý, kiểm soát và áp dụng chế độ thuế khoán là hợp lý nhất. Mặt khác để hạn chế các rủi ro cho các doanh nghiệp nhỏ, nhà nước cần thiết quy định những ngành nghề, ngành hàng dành riêng cho các doanh nghiệp vừa và nhỏ như: gia công một số chi tiết máy móc, thiết bị, thực hiện các hợp đồng phụ cho các doanh nghiệp lớn, sản xuất hàng tiểu thủ công nghiệp sử dụng nhiều lao động, thực hiện các công đoạn sử dụng các công cụ thủ công, bấn thủ công đối với tất cả các loại sản phẩm sản xuất trong nước, sản xuất hàng tiêu dùng thônh thường phục vụ quốc tế dân sinh. Chính sách thuế: Thuế là một trong những chính sách quan trọng tác động đến hoạt động của các doanh nghiệp vừavà nhỏ ở nước ta, nó không chỉ điều tiết phân phối tu nhập mà quan trọng hơn là điều chỉnh cơ cấu kinh tế, kích thích hoặc hạn chế các hoạt động sản xuất kinh doanh của từng ngành, từng lĩnh vực. Chính sách thuế hiện hành chưa thật sự khuyến khích đầu tư vốn mở rộng sản xuất thu hút nhiều lao động vấn đề không chỉ là hiện tượng thuế chồng thuế, thuế suất cao, mà doanh nghiệp có vốn đầu tư càng lớn, lao động càng đông thì phải đóng thuế càng cao, điều đó đang làm cho doanh thu hẹp phạm vi hoạt động. Để khắc phục tình trạng “ thuế chồng thuế” khi có đủ điều kiện cần phải thay thế thuế doanh thu bằng thuế giá trị gia tăng. Trước mắt thuế đối với doanh nghiệp vừa và nhỏ cần thực hiện theo hướng sau: Giảm mức thuế doanh thu đối với một số mặt hàng tiêu dùng được sản xuất trong nước, tăng thuế nhập khẩu đối với hàng cùng loại đó. Tinh giảm thu nhập, thuế vốn các doanh nghiệp tái đầu tư mở rộng bằng nguồn vốn lợi tức, hoặc đầu tư năm đầu sẽ được trừ giảm lượng chịu thuế. Giảm mức thuế lợi tức từ 30,40,50% hiện nay xuống còn 20-25% cho các doanh nghiệp có quy mô vừa. Miễn giảm thuế doanh thu cho những doanh nghiệp nhỏ mới hoạt động năm đầu và miễn giảm thuế doanh thu một số năm cho các doanh nghiệp nhỏ ở n

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35628.doc
Tài liệu liên quan