Đề tài Một số giải pháp về vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 21

 Về thuỷ lợi: Hàng năm nhà nước đã dành 8,1-10% vốn ngân sách cho đầu thuỷ lợi. Vốn đầu tư từ ngân sách cho thuỷ lợi năm 1990 là 299,8 triệu đồng, năm 1991 là 405 triệu đồng, năm 1992 là 581,6 triệu đồng, năm 1993 là 7860 triệu đồng( trong đó vốn đầu tư thuỷ nông là 244,4 triệu đồng năm 1990 là 354,3 triệu đồng năm 1991;438,3 triệu đồng năm 1992 và 673,7 triệu đồng năm 1993) và đến năm1994 là 1000 triệu đồng. 50% số vốn này được dùng để duy trì nâng cấp các công trình đầu mối và trục kênh chính( đối với hệ thống và cả kênh cấp hai). Tổng mức đầu tư từ ngân sách trung ương tính đến nay đã đâù tư cho các công trình thuỷ lợi là 113 tỷ đồng còn ngân sách địa phương và thuỷ lợi phí là 435 tỷ đồng. Ngoài ra, nhà nước đã quyết định vay và Ngân hàng thế giới(WB) và Ngân hàng Châu á (ADB) 80 triệu đồng đầu tư cho các hệ thống ở miền Trung, 45 triệu USD cho hơn 30 dự án thuộc đồng bằng Sông Hồng.

 

doc39 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1656 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp về vốn cho phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn Việt Nam trong những năm đầu của thế kỷ 21, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
goài hết sức quan trọng, tạo điều kiện cho các ngành có điều kiện phát triển. Tuy nhiên chúng ta cũng không thể chỉ thiên về huy động nguồn vốn nước ngoài mà phải huy động nội lực của mình 2. Huy động vốn cho đầu tư phát triển hạ tầng nông thôn: Nông nghiệp là một ngành sản xuất vật chất quan trọng trong nền kinh tế quốc dân của mỗi nước. Sản phẩm hàng hoá của ngành nông nghiệp là những hàng hoá thiết yếu tuy không đạt giá trị cao song lại rất cần thiết cho bất kỳ ai muốn duy trì và tồn tại. ở các nước phát triển mặc dù nông nghiệp chiếm tỷ trọng rất nhỏ trong cơ cấu kinh tế có số dân sống ở nông thôn rất ít sông các nước này vẩn rất chú ý đầu tư phát triển nông nghiệp và nông thôn với một mức thoả đáng về vốn và khoa học kỹ thuật nông nghiệp. ở Việt Nam, nông nghiệp là một trong hai ngành sản xuất vật chất chính, nó giữ một vị trí đặc biệt quan trọng vì nhiều lẻ: 80% dân số sống ở vùng nông thôn, nguồn sống chủ yếu dựa vào nông nghiệp; trong cơ cấu kinh tế quốc dân, GDP do nông nghiệp tạo ra giữ vị trí hàng đầu, trên 50% giá trị xuất khẩu và nông sản và thuỷ sản. Vì thế mà Chính phủ đả có các chính sách khuyến khích đầu tư vào phát triển nông nghiệp – nông thôn, đặc biệt là đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn. Việc huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn là vấn đề cần thiết. Phải huy động từ nhiều nguồn như vốn ngân sách, vốn tín dụng, ngân hàng và vốn huy động trong dân..., nguồn ngoài nước như vốn hợp tác, liên doanh, liên kết, vốn vay và vốn viện trợ... Nhưng thực tế cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta còn yếu kém nên việc huy động nguồn vốn đầu tư cho nó còn gặp rất nhiều khó khăn. Bởi nhà đầu tư chưa thấy được lợi nhuận khi đầu tư vào nó, hơn nữa chưa có có sở đảm bảo nguồn vốn nếu nhà đầu tư đầu tư vào. Nguồn vốn khi được huy động vào đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn sử dụng còn manh mún, chưa thực sự đi vào mục đích chính. Chính vì thế mà khi huy động nguồn vốn cần phải sử dụng đúng mục đích của nó. 3.Đánh giá kết quả huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn: Kết quả huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn tương đối khả quan. Nó nhằm mục đích mở rộng thị trường nông thôn, tăng hiệu quả sản xuất nông nghiệp, phát triển kinh tế nông thôn. Nguồn vốn dành cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đả được nhà nước ta huy động từ ngân sách nhà nước, vốn tín dụng trong nước, vốn vay nước ngoài, vốn đống góp của hộ nông dân. Nhờ thực hiện tăng cường huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn, đến nay hệ thống cơ sở hạ tầng nông thôn ở nước ta đả được thực hiện và nâng cấp. Việc huy động vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn đã phát huy được các ưu đIểm: Nguồn vốn huy động của toàn xã hội dành cho đầu tư phát triển ngày càng tăng so với GDP. Năm 1989 chỉ đạt 8-9% GDP thì năm 1991 đạt 15,22% năm 1993 đạt 21% và năm 1995 đạt 26,3%, năm 1996 đạt 26,9%, năm 1997 đạt 27-27,5% năm 1998 đạt 28,2%, năm 1999 đạt 29,50% và năm 2000 đạt 31-31,5% GDP. Nguồn huy động vốn đầu tư ngày càng đa dạng hoá bao gồm nguồn ngân sách nhà nước, vốn tín dụng thương mại, vốn của doanh nghiệp và dân cư, vốn đầu tư nước ngoài, vốn cổ phần hoá doanh nghiệp... Nguồn vốn huy động đa dạng đã đưa đến sự thay đổi về cơ cấu nguồn vốn. Năm 1990 nguồn vốn đầu tư phát triển kinh tế xã hội, chủ yếu là vốn Nhà nước chiếm 40,5% nhưng đến năm 1999-2000 vốn đầu tư Nhà nước chỉ chiếm còn 34,6% và nguồn vốn đầu tư nước ngoài chuyển dịch tương ứng từ 12,5% lên 38,2% Hình thức huy động vốn phong phú như phát hành trái phiếu kho bạc, trái phiếu công trình, huy động gửi tiết kiệm của nhân dân dưới nhiều hình thức như tiết kiệm, ngoại tệ, vàng bạc, đá quý... qua kho bạc, qua ngân hàng. Bên cạnh đó mở rộng các hình thức huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài. Hợp đồng xây dựng – kinh doanh – chuyển giao... Trong công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển nông nghiệp – nông thôn chúng ta đã đạt được kết quả tương đối. Vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng nông thôn được tập trung cho lĩnh vực xây dựng, sửa chữa các công trình giao thông, thuỷ lợi, điện lưới...Theo điều tra của tổng cục thống kê vào năm 1994 mỗi một hộ gia đình nông thôn hàng năm tự đầu tư trên 500.000 đồng, như vậy với gần 12 triệu hộ nông dân thì mỗi năm dân cư đã tự đầu tư khoảng 6.000 tỷ đồng, số tiền này tương đương với số vốn tín dụng Nhà nước chuyển về nông thôn, đồng thời nó cũng cao gấp 3- 4 lần so vơí vốn đầu tư xây dựng cơ bản của ngân sách Nhà nước hàng năm dành cho nông nghiệp – nông thôn. Qua kết quả trên ta thấy rằng việc huy động vốn cho đầu tư phát triển là hết sức quan trọng và đạt được những kết quả tốt. Tuy nhiên nó cũng có những nhược điểm cần nêu ra để có những biện pháp khắc phục. Chính sách huy động vốn chưa được thích hợp, nguồn vốn đầu tư từ ngân sách Nhà nước vẫn chiếm tỷ trọng lớn trong khi tiềm năng vốn trong dân cao nhưng mức huy động còn thấp. Nguồn vốn đầu tư nước ngoài chưa được thu hút vào đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng nông thôn. Thị trường chứng khoán chưa được phát triển phục vụ cho chính sách huy động vốn. Hình thức đầu tư tài chính hầu như chưa được áp dụng. Vốn đầu tư phân bổ giữa các vùng, giữa các địa phương, giữa nông thôn và thành thị không đồng đều gây ra khoảng cách chênh lệch rất lớn về tăng trưởng, thu nhập, mức sống của các vùng. Số vốn huy động được thông qua hệ thống các tổ chức tín dụng bằng các hình thức ngắn hạn, trung hạn và dài hạn rất ít do đó không đáp ứng được nhu cầu đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng. Bên cạnh đó, số vốn huy động trong nước vào hệ thống ngân hàng, thương mại không phát huy hết hiệu quả. Sử dụng vẫn còn một khối lượng lớn vốn đang bị ứ đọng không chuyển thành đầu tư được, do cơ chế cho vay chưa được thông thoáng, hạn chế... Vốn đầu tư trực tiếp của khu vực kinh tế tư nhân trong nước chủ yếu vẫn cho nhu cầu chi tiêu đầu tư tăng trong kế hoạch ngân sách hàng năm. Những năm gần đây, thông qua hình thức này Chính phủ đã huy động qua trái phiếu ngày càng đa dạng, thời gian vay vốn với lãi suất vay vốn khác nhau thích hợp với nhu cầu gửi tiền của người chủ sở hữu, cho nên Chính phủ đã huy động được cả các loại vốn tạm thời nhàn rỗi của các doanh nghiệp. Hoạt động thông qua hình thức này chúng ta có một nguồn vốn huy động lớn, chiếm tỷ trọng cao nhất trong tổng nguồn vốn huy động được trong nước của Chính phủ. Nguồn vốn huy động qua phát hành trái phiếu kho bạc Nhà nước năm 1998 là 11.327 tỷ đồng và năm 1999 là 12.650 tỷ đồng. Nhưng mặc dù đạt được kết quả khả quan song vẫn chỉ đáp ứng được 32,6% nhu cầu chỉ tiêu đầu tư của Nhà nước năm 1999. Trái phiếu công trình: Là loại trái phiếu Chính phủ có thời hạn từ 1 năm trở lên, được phát hành để xây dựng các công trình, dự án lớn do Chính phủ thực hiện Hình thức này còn rất mới ở Việt Nam, nhưng nó đã phát huy không nhỏ tác dụng của mình trong việc huy động nguồn vốn. Nó có ưu điểm là rủi ro thấp do ngân sách Nhà nước bảo lãnh thanh toán nên rất thích hợp với tâm lý người dân, các đơn vị tổ chức kinh tế đầu tư vốn cho Nhà nước để đáp ứng đủ nhu cầu đầy tư của một công trình cụ thể trong một khoảng thời gian nhất định, tránh lãng phí vốn đầu tư. Tín phiếu kho bạc Nhà nước: Là loại trái phiếu ngắn hạn(dưới 1 năm): Bằng hình thức này từ năm 1991 đến năm 1998 Chính phủ đã huy động được một nguồn vốn khá lớn trên 30.000 tỷ đồng. Nhưng nguồn vốn này chưa đủ đáp ứng cho nhu cầu đầu tư và nguồn vốn này chỉ là một phần nhỏ trong tổng số vốn nhàn rỗi và tạm thời nhàn rỗi của dân cư và các doanh nghiệp. Vì vậy Nhà nước cần triển khai tốt hơn công tác hoạt động vốn trong nước để đáp ứng nhu cầu đầu tư cơ bản của toàn nền kinh tế. Theo quy mô nhỏ và tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thương mại – dịch vụ phục vụ tiêu dùng. Trong khi có nhiều dự đoán cho thấy có khoảng 50.000-60.000 tỷ đồng tiết kiệm trong dân đang được cất giữ dưới dạng vàng, bạc, đá quý, tàI sản có giá trị, tiền mặt, ngoại tệ nhàn rỗi chưa được chuyển thành vốn để đầu tư và kinh doanh. Đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực nông nghiệp – nông thôn của Việt Nam chưa hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài, một phần do cơ sở hạ tầng nông thôn nước ta còn quá kém, rủi ro trong nông nghiệp luôn lớn nên là nổi đe doạ đối với nhà đầu tư. Những nhược điểm trên do các nguyên nhân sau: Nguồn vốn huy động cho cơ sở hạ tầng nông thôn mấy năm gần đây tuy đã phát triển bằng nhiều hình thức, công cụ song chưa đa dạng như huy động vốn cho lĩnh vực sản xuất – kinh doanh. Cơ chế huy động vốn chưa đảm bảo hợp lý giữa các nhà đầu tư về thời hạn, lãi suất, phương thức thanh toán – trao đỗi. Nguồn hộ trợ ODA và vốn của các tổ chức tài chính thế giới và phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn chưa tập trung nhiều vào các vùng sâu, vùng xa gây nên mất cân đối giữa các vùng. Vì đầu tư cho cơ sở hạ tầng nên thời gian thu hồi vốn quá lâu, chưa hấp dẫn các nhà đầu tư, một phần do cơ sở hạ tầng còn quá yếu kém, rủi ro trong nông nghiệp luôn lớn. Mặt khác, chúng ta vẫn chưa xoá bỏ tâm lý thích hoạt động ngầm hơn công khai theo pháp luật, đầu tư ngắn hạn hơn đầu tư dài hạn... Qua việc đánh giá chung thực trạng sử dụng vốn đầu tư để đưa ra ưu điểm, nhược điểm và nguyên nhân, từ đó đưa ra các phương pháp giải quyết nhằm sử dụng nguồn vốn đầu tư ngày càng phát triển và đúng mục đích của nó. Từ đó đưa nền kinh tế đất nước tiến lên những bước vững chắc. II.Thực trạng sử dụng nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tâng nông thôn: 1.Tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn: Theo vùng: Vì nguồn vốn huy động được là hết sức khó khăn, do đó cần đầu tư cho các vùng trọng điểm. Chủ yếu là các vùng: + Vùng miền núi trung du Bắc Bộ: ở đây có tiềm năng về than, du lịch, có lợi thế phát triển thuỷ điện. Với tiềm lực kinh tế này chúng ta cần phải khai thác thế mạnh của vùng, phải tập trung vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng kinh tế nhiều hơn để thu hút được vốn đầu tư trong nước và ngoài nước vào các lĩnh vực kinh tế của vùng để vùng phát triển. + Vùng đồng bằng Sông Hồng: So với các vùng trong cả nước thì vùng đồng bằng Sông Hồng là vùng có kết cấu hạ tầng phát triển nhất. Do sử dụng nguồn vốn đầu tư hợp lý, có các chính sách phù hợp. + Vùng khu bốn cũ: ở đây khí hậu khắc nhiệt, nền kinh tế chưa phát triển, cơ sở hạ tầng nông thôn ở đây còn yếu kém, tình hình sử dụng vốn đầu tư ở đây còn phân tán, chưa tập trung. Do cơ sở hạ tầng nông thôn chưa phát triển nên nguồn vốn huy động được chưa thực sự sử dụng cho các công trình trọng đIểm và khu vực trọng đIểm... Để đánh giá được tình hình sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn theo vùng cần phải đi sâu xem xét để đưa ra các biện pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng nông thôn. Trên đây là một số khu vực cần ưu tiên đầu tư cho nó, bởi những nơi đã phát triển rồi thì phải bảo đảm sự phát triển đó ngày càng đi lên, còn những vùng còn yếu kém khó khăn thì phải khắc phục để đưa cơ sở hạ tầng của nó đi lên cùng với các vùng khác phát triển. Nhất là công tác huy động và sử dụng vốn ở đây ngày càng đạt hiệu quả cao. Theo lĩnh vực: Về thuỷ lợi: Hàng năm nhà nước đã dành 8,1-10% vốn ngân sách cho đầu thuỷ lợi. Vốn đầu tư từ ngân sách cho thuỷ lợi năm 1990 là 299,8 triệu đồng, năm 1991 là 405 triệu đồng, năm 1992 là 581,6 triệu đồng, năm 1993 là 7860 triệu đồng( trong đó vốn đầu tư thuỷ nông là 244,4 triệu đồng năm 1990 là 354,3 triệu đồng năm 1991;438,3 triệu đồng năm 1992 và 673,7 triệu đồng năm 1993) và đến năm1994 là 1000 triệu đồng. 50% số vốn này được dùng để duy trì nâng cấp các công trình đầu mối và trục kênh chính( đối với hệ thống và cả kênh cấp hai). Tổng mức đầu tư từ ngân sách trung ương tính đến nay đã đâù tư cho các công trình thuỷ lợi là 113 tỷ đồng còn ngân sách địa phương và thuỷ lợi phí là 435 tỷ đồng. Ngoài ra, nhà nước đã quyết định vay và Ngân hàng thế giới(WB) và Ngân hàng Châu á (ADB) 80 triệu đồng đầu tư cho các hệ thống ở miền Trung, 45 triệu USD cho hơn 30 dự án thuộc đồng bằng Sông Hồng. Vốn đầu tư vào hệ thống chính thức từ đầu mối đến kênh 2 là vốn của ngân sách TW, ngân sách địa phương và vốn vay trung dài hạn của các tổ chức quốc tế. Hệ thống phân phối nước vào đồng ruộng có vốn đầu tư huy động từ công của nông dân, ở hệ thống này nhà nước chỉ hộ trợ một phần. Ví dụ như ở Thanh Hoá công trình xây lát kiên cố hoá kênh mương nội đồng với tổng chiều dài hơn 98 lần, khối lượng xây xát hơn 55.000m2 tưới tiêu cho 12.200 ha, đã tiêu tốn hết 1 lượng kinh phí 17 tỷ đồng trong nhà nước hổ trợ hơn 2,7 tỷ đồng, còn lại do dân đống góp. Bằng nguồn ngân sách, nhà nước đã đầu tư 1,374 tỷ đồng năm 1996, 1,773 tỷ đồng năm 1997; 1.904 tỷ đồng năm 1998 và năm 1999 là 2.2000 tỷ đồng. Kế hoặch năm 2000 là 2,345 tỷ đồng. Nói tóm lại, đầu tư cho các công trình thuỷ lợi ở nước ta rất được nhà nước quan tâm. Vốn đầu tư các công trình này được nhà nước huy động theo phương châm “ Nhà nước và nhân dân cùng làm”. Lượng vốn dành cho thuỷ lợi được nhà nước ưu tiên chiếm 50% tổng số vốn dành cho đầu tư phát triển nông nghiệp nông thôn. Tuy vậy, lượng vốn này chưa được giải quyết, phân bố đồng đều ở tất cả các công trình và các vùng. Nhiều hệ thống công trình, nhiều vùng còn đang rất thiếu thốn để duy trì nâng cấp chất lượng công trình. Mặc dù được ưu tiên đầu tư song vốn đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi ở nước ta vẫn còn rất thấp, mức đầu tư chưa được 1000USD/ha trong khi nhu cầu phải là 3000-4000USD/ha. Bởi thế chúng ta cần phải tích cực huy động vốn để đầu tư cho hệ thống thuỷ lợi một hệ thống quan trọng trong ngành nông nghiệp. Về điện khí hoá nông thôn: Theo nguồn của Tổng công ty điện lực. Việt nam những năm gần đây kết quả đầu tư đưa điện về các xã, các huyện là: năm 1995 đầu tư 173,726 tỷ đồng, năm 1996 là 465,500 tỷ đồng. Điện về nông thôn nằm trong mục tiêu công nghiệp hoá nông thôn và cũng làm nhiệm vụ kinh doanh của Tổng công ty Điện lực.vì vậy ,đưa điện về nông thôn ,thực hiện mục tiêu điện khí hoá nông thôn có nguồn vốn đầu tư đóng góp của Tổng công ty điện lực bên cạnh nguồn vốn của Ngân sách Nhà nứơc và của dân .Trong số vốn đầu tư năm 1995 thì số vốn của Tổng công ty là 77,363 tỷ đồng , chiếm 44,5% còn lại là nguồn vón ngân sách nhà nước và vốn góp của nông dân là 96,363 tỷ đồng chiếm 55,5%. Năm 1996 tương ứng là 107,33 tỷ đồng chiếm 76,5% và 33,009 tỷ đồng chiếm 23,5% năm 1997 tương ứng là 258,567 tỷ đồng chiếm 63,3% và 150 tỷ đồng chiếm 36,7%. Vốn đầu tư của nhà nước và ngành đIện chỉ đầu tư các đường dây và trạm từ 35KV trở lên và chủ yếu là phục vụ cho thuỷ lợi. Các công trình từ 6-10KV và hạ thế là do các địa phương và nhân dân đóng góp. Do điều kiện thu nhập của nhân dân còn thấp nên mức huy động vốn chỉ có hạn, đáp ứng chỉ được 20-30% yêu cầu. Vốn ngân sách nhà nước huy động đầu tư cho lĩnh vực này cũng chiếm một tỷ lệ không nhỏ Về giao thông: mặc dù mấy năm gần đây, đầu tư phát triển mạng lưới giao thông nông thôn được ngân sách Trung ưong và ngân sách địa phương quan tâm hơn song vốn đầu tư vẫn còn ít, chưa thích đáng. Tổng số vốn ngân sách nhà nước đầu tư để xây dựng đường nông thôn các cấp là 219,2 tỷ đồng chỉ đáp ứng được 50% nhu cầu vốn 511,5 tỷ đồng chiếm 70% là do dân đống góp. Qua thực tế quản lý cấp phát vốn, vốn đầu tư cho lĩnh vực này của ngân sách nhà nước chiếm một tỷ lệ không lớn chủ yếu mang tính chất hỗ trợ. Trong khi đó nguồn vốn do dân đóng góp tương đối lớn và hết sức cần thiết. Đánh giá thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn: 2.1 Phân loại: Nếu chỉ đánh giá thực trạng cơ sở hạ tâng nông thôn, xét trên phạm vi kết cấu hạ tầng cấp xã có 3 loại: Loại 1: Là loại gồm các xã đã hình thành được bộ khung kết cấu hạ tầng ở mức khá, đường xá bảo đãm ôtô vào đến trung tâm xã và các thôn xóm. Công trình thuỷ lợi đã được giải quyết về cơ bản trên 60% số hộ được dùng điện, trên 30% số hộ được dùng nước sạch. Tổng thể các trường học, trạm y tế, nhà ở và các công trình công cộng đều đáp ứng các yêu cầu của dân cư. Loại 2: Là loại trung bình gồm các xã có kết cấu hạ tầng phát triển ở mức chưa hình thành được đồng bộ với chất lượng khá như ở đoạn 1. Tỷ lệ hộ dùng nước sạch khoảng 25%, thuỷ lợi hoá mới giải quyết ở mức trung bình, tỷ lệ số hộ dùng điện khoảng 50%, số phòng học đạt chương trình cấp 4 trở lên mới khoảng 70%, có trạm ytế nhưng chất lượng còn thấp, tỷ lệ nhà kiên cố khoảng 50%. Loại 3: Là loại kém gồm các xã có kết cấu hạ tầng kém phát triển. ở đó không có đường ôtô vào được trung tâm xã hoặc có nhưng chỉ vào được vào mùa khô, chưa có điện hoặc có điện dưới 30% số hộ. Công trình thuỷ lợi ít ỏi hoặc chưa có. Nước sinh hoạt chưa đãm bảo vệ sinh, số phòng học nhà tranh trên 50%. Trạm y tế đơn sơ hoặc chưa có, nhà ở tạm bợ trên 70% số hộ. Trên đây là đánh giá thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn được xét trên phạm vi kết cấu hạ tầng cấp xã và được phân ra 3 loại. Từ đó chúng ta cần phải tăng cường, huy động vốn đầu tư cho từng loại phù hợp, đưa cơ sở hạ tầng đi lên, tạo tiền đề cho các ngành khác phát triển. 2.2 Thực trạng cơ sở hạ tầng nông thôn ở Việt Nam hiện nay: Từ khi thực hiện nghị quyết 10 của Bộ chính trị, tiếp đó ta đường lối đổi mới của Đảng và Nhà nước, nông nghiệp và nông thôn Việt Nam đả có những bước phát triển đáng kể. Tuy nhiên, sự kém phát triển của nhiều vùng nông thôn hiện nay là vấn đề cấp bách đòi hỏi sự quan tâm đầu tư phát triển của Đảng và Nhà nước. Theo số liệu của Uỷ ban dân tộc và miền núi, hiện nay cả nước có 1.700 xã đặc biệt khó khăn, trong đó 1.160 xã(chiếm 11% tổng số xã) thiếu hạ tầng cơ sở như đường giao thông đến xã, điện thắp sáng, nước sinh hoạt, trường tiểu học, cho xã hoặc liên xã, trạm y tế. Trong số hơn 10.000 xã trên toàn quốc, có trên 473 xã chưa có đường ôtô đến trung tâm xã, 591 xã thiếu trường học( trong đó có 29 xã chưa có trường cấp I), 455 xã chưa có trạm y tế, 941 xã chưa có điện thắp sáng, 546 xã có 50% số dân thiếu nước sạch sinh hoạt, 760 xã chưa có chợ hoặc chợ liên xã. Đảng và nhà nước xem chương trình xoá đói giảm ngèo là chương trình kinh tế – xã hội quan trọng trong chiến lược phát triển nông thôn, gắn xoá đói giảm nghèo với tăng trưởng kinh tế. Muốn giảm đói nghèo, giải pháp chủ yếu là tập trung nguồn lực đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng. Những vấn đề nổi cộm về hạ tầng nông thôn hiện nay là : - Đường giao thông - Điện thắp sáng và sản xuất -Trạm y tế - Trường học Ngoài ra việc giải quyết nước sinh hoạt trong chiến lược khai thác và sử dụng tốt tài nguyên nước, vấn đề xây dựng hệ thống thuỷ lợi hợp lý, xây dựng các cụm trung tâm kinh tế, văn hoá, xã hội cũng đang được quan tâm trong xây dựng kết cấu hạ tầng cho nông thôn. Theo kết quả sơ bộ của cuộc tổng điều tra, đến thời điểm 1.10.2001, các yếu tố của hệ thống kết cấu hạ tầng nông thôn cả nước đều phát triển theo chiều hướng tích cực. Điện khí hoá: đIện khí hoá nông thôn có bước phát triển nhanh và khá toàn diện. Cả nước có 7.712 xã có điện, chiếm tỷ lệ 86,2%, trong đó có năm 1994 chỉ có 5,309 xã có đIện chiếm tỷ lệ 60,4%. Như vậy sau 7 năm qua, cả nước đã tăng thêm 2.403 xã có đIện, tốc độ tăng 45,3%. Các vùng có tốc độ tăng cao là miền núi Bắc bộ. Tây nguyên và đồng bằng Sông Cửu Long(Tây nguyên +185%;Tây bắc +162%; Đông bắc +69% và ĐBSCL +59%). Số thôn có điện 62.227, chiếm tỷ lệ 77,3%, tăng 26.509 thông với năm 1994(năm 1994 có 74,2% số thôn có đIện); số hộ nông thôn dùng điện là 10.424.723 hộ, chiếm tỷ lệ 79,3%, tăng 43,3 van hộ( năm 1994 là 71,0%) so với năm 1994. Như vậy cho đến nay cả nước có 3 vùng cơ bản hoàn thành điện khí hoá nông thôn và tỷ lệ xã có diện trên 95% là đồng bằng sông Hồng 99,8%, đồng băng sông Cửu Long 98,7% và Đông Nam bộ là 97,5%; 26 tỉnh có tỷ lệ 100% có điện là 10 tỉnh đồng bằng sông Hồng( trừ HảI Phòng), Hà Tĩnh, Khánh Hoà, TP>HCM, Ninh Thuận, Tây Ninh, Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa – Vũng Tàu, Long An, Đồng Tháp, Tiền Giang, Vĩnh Long, Sốc Trăng và Bạc Liêu. Giá bán đIện nông thôn bình quân cả nước là 693đ/kwh, giảm 63đ/kwh so với năm 1994, nguyên nhân chủ yếu là nhà nước cải tiến cơ chế quản lý nông thôn từ chính quyền sang ngành điện. Đến nay vùng có giá bán điện thấp nhất là Đông Nam bộ 608đ/kwh, cao nhất là Bắc Trung bộ 780đ/kwh. Tồn tại lớn nhất của vấn đề này là vẫn còn gần 1.238 xã( 14%); 18.317 thôn( 22,7%) và 2.722.976( 20,7%) chưa có điện. ở 3 vùng miền núi phía Bắc Tây nguyên tỷ lệ hộ dùng điện mới đạt 50%. Giá điện nông thôn tuy đã giảm so với năm 1994 nhưng vẫn cao hơn giá đIện thành thị 38%. Trong nông thôn, vung nghèo có thu nhập thấp như Bắc Trung bộ, giá điện lại cao nhất, còn vùng Đông Nam bộ có thu nhập cao giá điện lại thấp nhất. Đó là một nghịch lý cần xem xét và xử lý. Đường giao thông Sau điện đường giao thông nông thôn cũng là một yếu tố quan trọng của kết cấu hạ tầng được nhà nước quan tâm và đầu tư trong những năm qua. Kết quả là đến nay cả nước có 8.461 xã (94,5% có đường ôtô đến UBND xã. So với năm 1994, số xã có đường ôtô tăng 731 xã (+9,5%). Các vùng có tỷ lệ cao là đồng bằng sông Hồng 99.9%. Đông Nam bộ 99,7%, Tây nguyên 97,8%, Đông bắc 97,2%. Vùng có tỷ lệ đường thấp nhất là đồng bằng sông Cửu Long 78,1%. Cả nước có 23 tỉnh, thành phố có 100% số có đường ôtô đến UBND xã, trong đó đồng bằng sông Hồng 10/11 tỉnh, Đông Nam bộ 6/8 tỉnh. Đặc biệt vùng đồng bằng sông Cửu Long số xã có đường ôtô tăng từ 755 xã lên 958 xã, nên số xã có đường ô tô tăng từ 65,7% lên 78,1% trong 7 năm, trở thành vùng có tốc độ tăng nhanh nhất cả nước về đường giao thông nông thôn. Chất lượng đường giao thông nông thôn tuy còn thấp song đã có tiến bộ so với trước. Đến nay cả nước có 1.427 xã( 16%) có đường liên thôn được nhựa hoá hoặc bê tông hoá trên 50%, trong đó vùng khá nhất là đồng bằng sông Hồng ( Hà Tây 23%, riêng huyện Thạch Nhất 52,6%; Ninh Bình 30%, trong đó Hoa Lư 56%, Yên Khánh 68,4%). Các tỉnh Bắc Trung Bộ, tuy là vùng nghèo, thiên tai bảo lụt thường xuyên xảy ra, song hệ thống đường giao thông nông thôn đã phủ kín 96,5% số xã, trong đó Hà Tĩnh 98,8%, Thừa Thiên Huế 98,4%, Thanh Hoá 97,8%. Chất lượng đường giao thông thôn, xóm được nâng cấp: tỷ lệ đường liên thôn được nhựa hoá và bê tông hoá trên 50%, đạt tỷ lệ 18% số xã, trong đó Thừa Thiên Huế 19%, riêng huyện Hương Trà 26,7%. Đặc biệt các tỉnh miền núi phía Bắc tỷ lệ xã có đường ôtô từ 82,6% năm 1994, đến nay tăng lên 97,2%, trong đó có 4 tỉnh đạt 100% là Hà Giang, Tuyên Quang, Thái Nguyên, Phú Thọ, 3 tỉnh đạt trên 99% là Lạng Sơn, Bắc Giang và Hoà Bình. Trường học và y tế. Hệ thống trường học ở nông thôn phát triển toàn diện. Đến nay 99,9% số xã có trường học; 8,7% số xã có trường trung học phổ thông và 85,6% số xã có lớp mẫu giáo, đạt cao hơn năm 1994(99,8%; 76,6%; 7% và 76,8%, trong đó miền núi Đông bắc từ 64,7% lên 79,7%, Tây nguyên từ 50,3% lên 78,4%, và đồng băng sông Cửu Long từ 74,9% lên 80,5%. Đến nay cả nước đã có 782 xã có trường phổ thông trung học, chiếm tỷ lệ 8,7%, trong đó có 6 tỉnh, thành phố đạt trên 15% là Hà Nội 15,3%, TP.HCM 21,4%, An Giang 18,6%, Tuyên Quang 15,3%, Bình Dương 16,7%. Cùng với việc mở rộng các trường phổ thông, nhiều vùng và địa phương đã quan tâm phát triển và mở rộng các lớp mẫu giáo ở khu vực nông thôn. Năm 2001 cả nước có 7.665 xã, chiếm tỷ lệ 85,6% số xã có lớp mẫu giáo so vơí 6.813 lớp và 76,3% năm 1994. Hệ thống trường phổ thông và mẫu giáo phát triển rộng khắc từ đồng bằng tới miền núi, hải đảo đã tạo điều kiện thuận lợi thu hút trẻ em trong độ tuổi ở khu vực nông thôn đến trường. Trong lĩnh vực y tế, thực hiện chủ trương đưa bác sỹ và cán bộ y tế tăng cường cho tuyến xã, hệ thống trạm y tế xã được cũng cố và hoàn thiện. Đến nay cả nước có 8.863 xã có trạm y tế, chiếm tỷ lệ 99%, tăng 6% so vơí năm 1994; có 2/8 vùng đạt 100% xã có trạm y tế là đồng bằng sông Hồng và Tây bắc, hai vùng đạt tỷ lệ thấp nhất là Đông bắc 92,7% và Tây nguyên 93,7%. Thông tin liên lạc và cơ sở văn hoá Hệ thống thông tin liên lạc khu vực nông thôn được Nhà nước đầu tư hổ trợ đã đạt được những kết quả đáng khích lệ, điểm bưu điện văn hoá xã - một mô hình thông tin, văn hoá nông thôn mới hình thành trong những năm đổi mới đến nay đã mở rộng khắp 61 tỉnh, thành phố trên địa bàn 4.902 xã, chiếm 54,8% số xã trên cả nước, trong đó cao nhất là đồng bằng sông Hồng 70%, Bắc Trung bộ 61,3%, Nam Trung bộ 55,2% và đồng bằng sông Cửu Long 50,2%, thấp nhất là Tây băc 36,6%. Cả nước có 7.503 có máy đIện thoại, chiếm tỷ lệ 83,8%, trong đó cao nhất là đồng bằng sông Cửu Long 99,7%, Đông Nam bộ 97%, đồng băng Nam bộ 98,6%, Nam trung bộ 88,5% và thấp nhất là 2 vùng miền núi phía bắc; Tây bắc 61,9% và Đông bắc 67,9%. Hệ thống điện thoại không chỉ đến trung tâm xã mà đã toả đến các hộ nông dân đáp ứng nhu cầu sản xuất sinh hoạt ngày càng tăng của dân cư nông thôn. Đến năm 2001, cả nước có 704,4 ngìn hộ nông dân có máy điện thoại, gấp 30 lần năm 1994( 38,6%). Đáng chú ý là những vùng sản xuất nông nghiệp hàng hoá phát triển như đồng bằng sông Cửu Long và Đông Nam bộ là những địa phương có nhiều xã và hộ sử dụng đIện thoại. Hệ thống loa truyền thanh trong thôn xóm đã được mở rộng và nâng cấp; năm 1994, cả nước chỉ có 3.395 xã có loa truyền thanh, chiếm tỷ lệ 38,5% tổng số xã thì nay đã có 5.091 xã chiếm tỷ lệ 57%. Nhiều xã đã có hệ thống loa truyền thanh đến các hộ gia

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc35357.doc
Tài liệu liên quan