Đề tài Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc

MỤC LỤC

Lời mở đầu Trang

Phần I: Mấy vấn đề lý luận về đói nghèo. 3

1. Khái niệm đói nghèo và chuẩn mực đói nghèo 3

2. Sự tác động của đói nghèo tới phát triển kinh tế - xã hội 4

3.Những nguyên nhân chính dẫn đến đói nghèo 5

3.1 Do xa cách 5

3.2. Áp lực về nhân khẩu và lao động 7

3.3 Thiếu nguồn lực 7

3.4 Do những rủi ro, thiên tai, địch hoạ 9

3.5 Do tham nhũng 9

4. Chủ trương của Đảng và Nhà nước về xóa đói giảm nghèo ở khu vực miền núi 10

Phần II: Vài nét về tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc 14

1. Tình hình cơ bản ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới đói nghèo 14

2. Khái quát tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc 16

Phần 3: Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc 17

1. Những quan điểm 17

2. Phương hướng 18

3. Một số giải pháp xoá đói giảm nghèo 19

3.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững 19

3.2. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo 20

3.3. Công tác qui hoạch, định hướng phát triển 21

3.4. Tạo điều kiện thích hợp đi đôi với giảm thiểu rủi ro và tổn thương cho các hộ nghèo tự vươn lên xóa đói giảm nghèo 21

3.5. Giải pháp thúc đẩy hộ nghèo phát triển sản xuất 24

Kết luận

Phụ lục I 29

Phụ lục II 30

Tài liệu tham khảo

 

doc34 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 4183 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số giải pháp xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nhưng còn có ý nghĩa rất lớn về an ninh, chính trị và quốc phòng. Chính phủ đã quyết định một chương trình riêng về xóa đói giảm nghèo ở các xã đặc biệt khó khăn trong khu vực này là chương trình phát triển kinh tế - xã hội các xã đặc biệt khó khăn, vùng đồng bào dân tộc miền núi, biên giới và vùng sâu, vùng xa (gọi tắt là chương trình 135). Các hoạt động của chương trình xóa đói giảm nghèo tại các tỉnh miền núi: Ngày 23/7/1998, chính phủ phê duyệt chương trình mục tiêu quốc gia xóa đói giảm nghèo thời kì 1998 - 2000. Từ đó tới nay có nhiều chính sách và dự án được thực hiện trong phạm vi cả nước có liên quan, tác động tới các tỉnh miền núi như: Chính sách hỗ trợ về y tế. Chính sách hỗ trợ về giáo dục. Chính sách hỗ trợ đồng bào dân tộc đặc biệt khó khăn. Chính sách an sinh xã hội, trợ giúp các đối tượng yếu thế. Chính sách hỗ trợ người nghèo về nhà ở. Chính sách miễn thuế sử dụng đất nông nghiệp. Dự án hỗ trợ đầu tư xây dựng hạ tầng cơ sở các xã nghèo. Dự án tín dụng ưu đãi hộ nghèo. Dự án định canh định cư và xây dựng các vùng kinh tế mới. Dự án hướng dẫn người nghèo cách làm ăn, khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Dự án đào tạo cán bộ làm công tác xóa đói giảm nghèo và cán bộ các xã nghèo. Dự án hỗ trợ sản xuất và phát triển ngành nghề. Một số kết quả đáng ghi nhận ở các tỉnh miền núi: Khi nói tới đói nghèo, người ta thường nghĩ tới mức thu nhập thấp. Nhưng thực tế đói nghèo không chỉ đơn giản là mức thu nhập thấp mà còn là sự thiếu khả năng tiếp cận các dịch vụ công cộng, công trình thuỷ lợi. Vì vậy, trong 5 năm (1996 - 2000) Nhà nước đã chú trọng đầu tư 6500 công trình cơ sở hạ tầng ở các xã nghèo. Tính tới cuối năm 2000, ở khu vực miền núi đã có trên 90% xã có đường ô tô tới trung tâm xã, trên 90% xã có trường tiểu học, trên 70% có trường trung học cơ sở, 98% xã có trạm xá, 80% xã có công trình thuỷ lợi nhỏ, 70% xã có tỉ lệ hộ được sử dụng nước sạch trên 50%, 75% xã có nguồn điện sinh hoạt tới trung tâm xã, 70% xã có chợ hoặc chợ trung tâm cụm xã được xây dựng (xem thêm phụ lục 2). Ngoài ra còn mua và cấp thẻ BHYT cho người nghèo, khám chữa bệnh miễn phí cho người nghèo; thực hiện miễn giảm học phí, miễn giảm các khoản đóng góp, cấp sách giáo khoa cho học sinh nghèo. Một trong những khó khăn xóa đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi là tình trạng du canh du cư. Đến cuối năm 2000, các chương trình đã hỗ trợ đời sống cho 20.000 hộ đồng bào dân tộc ĐBKK, hỗ trợ định canh định cư cho trên 118.000 hộ và sắp xếp ổn định cuộc sống cho 23.543 hộ di dân tự do. Cái gốc để xóa đói giảm nghèo chính là phát triển sản xuất, tạo nên việc làm và tăng thu nhập cho các hộ gia đình. Đối với miền núi, khó khăn nhất chính là xoá bỏ tập quán canh tác cũ, hướng dẫn người nghèo cách làm ăn và tổ chức tốt công tác khuyến nông thông qua các mô hình trình diễn theo phương thức “cầm tay chỉ việc”. Các dự án khuyến nông, khuyến lâm với vai trò tích cực của các tổ chức đoàn thể (Hội nông dân, Hội phụ nữ, Hội cựu chiến binh…) đã góp phần giúp hộ nghèo làm quen dần với phương thức canh tác mới, sử dụng giống cây, con mới, tạo điều kiện để họ sử dụng vốn vay ưu đãi có hiệu quả hơn. Kết quả tổng hợp của các chính sách dự án là tỉ lệ hộ đói nghèo giảm khá nhanh trong 5 năm từ 1996 - 2000 trung bình mỗi năm là 2%, hầu hết các tỉnh miền núi có tỉ lệ hộ nghèo đói giảm bình quân hàng năm cao hơn trung bình cả nước. Trên đây là những kết quả lớn thể hiện quyết tâm cao của Đảng và Nhà nước trong công cuộc chiến đấu - tấn công đói nghèo. Song, đến nay vẫn còn nhiều hạn chế, tồn tại, kết quả đạt được còn mong manh chưa bền vững. Theo thống kê thì chương trình xóa đói giảm nghèo tiến triển chậm, chưa đạt kết quả mong muốn so với hệ thống chính sách đã có và lượng vốn đã bỏ ra. Chẳng hạn, chủ trương bình quân đề ra mỗi năm giảm 300.000 hộ đói nghèo nhưng trong 5 năm qua bình quân mỗi năm mới giảm được 240.000 hộ (đạt 80% so với chỉ tiêu so với đề ra). Về hệ thống cơ sở hạ tầng tuy đã được cải thiện song vẫn chưa đáp ứng được yêu cầu sản xuất nông nghiệp hàng hoá và nâng cao đời sống nhân dân nhất là vùng sâu, vùng xa, vùng biên giới. Đường giao thông còn kém, đặc biệt đi lại khó khăn trong mùa mưa, hệ thống thuỷ lợi phần lớn là công trình tạm và trên thực tế mới đáp ứng được một phần yêu cầu sản xuất lúa, các cây trồng khác chủ yếu là nhờ nước trời. Số trạm y tế đạt tiêu chuẩn chỉ đạt 46%. Cơ sỏ trường lớp tuy được tăng cường nhưng vẫn nghèo nàn, thiếu… (một thực trạng đáng lo ngại là nhiều nơi chỉ chạy theo thành tích số lượng các công trình mà quên mất chỉ tiêu chất lượng của chúng). Và nhin chung, sản xuất nông nghiệp còn mang nặng tính tự cấp tự túc, manh múm, nhỏ lẻ, phương thức canh tác lạc hậu, năng suất lao động thấp. Tình trạng phá rừng làm nương rẫy vẫn xảy ra rất nghiêm trọng, gây tác hại lớn về môi trường sinh thái. Hiện tượng di dân tự do nội vùng vào các tỉnh Tây Nguyên vẫn chưa được giải quyết triệt để. Một bộ phận dân cư vùng sâu, vùng xa tiếp tục cuộc sống du canh du cư. PHẦN II: VÀI NÉT VỀ TÌNH HÌNH NGHÈO ĐÓI Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC 1. Tình hình cơ bản ở các tỉnh miền núi phía Bắc có ảnh hưởng tới đói nghèo: Miền núi phía Bắc được xác định gồm 11 tỉnh Đông Bắc (Hà Giang, Tuyên Quang, Cao Bằng, Bắc Kạn, Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Lào Cai, Phú Thọ, Bắc Giang, Yên Bái) và 3 tỉnh Tây Bắc (Lai Châu, Sơn La, Hoà Bình) với 45 huyện trung du và 99 huyện vùng cao bao trùm trên diện tích 100.964 km2, trong đó diện tích miền núi khoảng 89.000 km2 (chiếm 27% lãnh thổ quốc gia và 88,15% lãnh thổ vùng). Dân số theo cuộc tổng điều tra dân số 1/4/1999 là 11.053.030 người trong đó trên dưới 5 triệu người là đồng bào của 30 dân tộc thiểu số. Mật độ dân số là 109 người/ km2 (Đông Bắc: 135 người/ km2, Tây Bắc: 62 người/ km2; thấp nhất là Lai Châu: 35 người/ km2) thấp hơn nhiều so với mật độ bình quân cả nước (232 người/ km2). Dân cư nông thôn chiếm 83,5 % dân số toàn vùng với 1,8 triệu hộ sản xuất nông, lâm nghiệp và nuôi trồng thuỷ sản. Quy mô hộ bình quân khoảng 5 nhân khẩu với 2 - 3 lao động. Đất nông nghiệp bình quân đầu người 1.182 m2 bằng 96,2% so với toàn quốc (1.229 m2). Về điều kiện tự nhiên, 65% diện tích vùng có độ cao từ 200 m trở lên, 14% có độ cao khoảng 100 m. Trừ một số ít lưu vực giữa núi và các thung lũng sông, địa hình phần lớn bị chia cắt bởi độ dốc lớn. Hơn 50% vùng cao có các sườn dốc trên 20 độ, do đó khó khăn cho việc xây dựng đường sá, đường điện, các công trình hạ tầng cơ sở khác cũng như việc việc duy tu bảo dưỡng chúng. Khí hậu khắc nghiệt, nhiệt độ trong ngày thường thay đổi lớn (thường đêm và sáng sớm trời lạnh đặc biệt đối với những vùng cao) gây ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt đông sản xuất cũng như sinh hoạt của người dân. Mưa nhiều, tập trung nên thường gây thiệt hại cho sản xuất nông nghiệp, giao thông và hệ thống thuỷ nông, các ruộng bậc thang hàng năm bị xói mòn mạnh, ước tính hàng năm mất 150 - 350 tấn/ ha (trong khi diện tích đất bằng hạn chế, nông dân muốn canh tác phải làm trên nương rẫy, ruộng bậc thang trên sườn dốc). Đây cũng là một lí do dẫn tới hiện trạng chặt phá rừng để sản xuất nông nghiệp làm tăng diện tích đất trống đồi núi trọc. Tuy nhiên mưa phân bố không đều nên mặc dù có những nơi mưa nhiều bị úng ngập, nhưng cũng có nhiều nơi chịu hạn hán nghiêm trọng (nhất là vào mùa khô), có nơi người dân phải đi lấy nước xa 15 - 20km. Đất feralit đỏ vàng là phổ biến, đất nghèo dinh dưỡng chiếm tỉ lệ cao, thiếu vi lượng đối với cây trồng nên thường gây bệnh bướu cổ (do thiếu iốt). Rừng bị tàn phá nghiêm trọng. Diện tích chiếm trên 11ha trong 16ha ở miền Bắc, nhưng trong vòng 20 năm trở lại đây nó đã bị khai thác và tàn phá kiệt quệ để lại nhiều vùng đất nghèo nàn về sinh thái và kinh tế. Nhiều loại lâm thổ sản và động vật quí có nguy cơ tuyệt chủng. Đất thì bị xói mòn dẫn tới biến đổi môi trường sinh thái, xảy ra nhiều thiên tai (như lở đất, lũ quét…) gây nhiều khó khăn trong sản xuất và đời sống. Về hệ thống hạ tầng cơ sở phục vụ sản xuất và đời sống còn nghèo nàn, lạc hậu, nhìn chung thấp kém nhất so với các vùng trong cả nước (xem phụ lục II). Giao thông kém phát triển, nhất là các đường lên bản, lên xã. Các hạ tầng cơ sở khác như đường điện, trạm bưu điện, nước sạch, trường học, thị tứ, trụ sở UBND… được chú ý và cải thiện song còn nhiều hạn chế. Tất cả những yếu kém trên của hệ thống hạ tầng cơ sở là một nguyên nhân quan trọng của sự kém phát triển các ngành công nghiệp, thương nghiệp và dịch vụ… Về kinh tế của vùng trong những năm qua tuy có phát triển và đạt được những kết quả nhất định, song vẫn còn ở mức độ thấp chủ yếu là khai thác tự nhiên, kém năng động, chưa chuyển mạnh sang sản xuất hàng hoá. Nông nghiệp vẫn được xem là ngành kinh tế giữ vị trí hàng đầu với tỉ lệ GDP ngành là 41,3% giá trị tổng sản phẩm toàn vùng, trong đó 7/14 tỉnh chiếm tỉ trọng trên 50% (cao nhất là Bắc Kạn: 63,1%), 6/14 tỉnh chiếm tỉ trọng từ 36,8% đến dưới 50%, chỉ riêng Quảng Ninh tỉ trọng nông nghiệp trong GDP là 9,4%. Trong khi đó, bình quân toàn quốc tỉ trọng nông nghiệp chỉ chiếm 26% trong cơ cấu GDP. Về hoạt động thương mại, thiếu thị trường trao đổi: bình quân 37% xã có chợ (riêng Lai Châu: 11%, Sơn La: 19%, Hoà Bình: 28%). Ở những nơi có chợ, mặt hàng trao đổi cũng rất nghèo nàn. Nhiều nhà không có khả năng sản xuất ra bất cứ thứ gì mang tính chất hàng hoá ra chợ sau vụ mùa. Ở nhiều thị trường đã hình thành thường không ổn định, giá thu mua còn rẻ không bù đắp được chi phí sản xuất dẫn tới đời sống người dân không được đảm bảo, sản xuất bị đình đốn, hiện tượng chặt phá cây trông diễn ra khá phổ biến trong những năm vừa qua như chặt chè, trồng sắn, … Về lực lượng sản xuất còn thấp kém, công cụ thô sơ, trình độ tổ chức và quản lí sản xuất ở mức độ thấp, chủ yếu mang tính gia đình, tự cung tự cấp, lao động theo tập quán và kinh nghiệm cổ truyền. Hơn nữa, đa phần trình độ dân trí còn thấp, một số không ít còn lạc hậu, mê tín và bảo thủ gây trở ngại khi tiếp nhận những công nghệ mới, chuyển dịch cơ cấu cây trồng, vật nuôi, do vậy một tất yếu là năng suất lao động quá thấp. 2. Khái quát tình hình nghèo đói ở các tỉnh miền núi phía Bắc: Theo số liệu thống kê năm 1999, tỉ lệ hộ nghèo đói của các tỉnh miền núi phía Bắc là 40,63% gấp 1,44 lần so với tỉ lệ hộ nghèo đói bình quân cả nước (28,21%) và cao nhất so với các vùng miền khác. Nhìn chung, tình hình nghèo đói ở đây đã có sự chuyển biến đáng kể cả tuyệt đối lẫn tương đối. Điều đó được biểu hiện qua số liệu về hộ đói nghèo như sau: Năm 1992: 799.500 hộ. Năm 1996: 695.503 hộ (giảm so với năm 1992 là 103.997 hộ, tốc độ giảm bình quân là 3,25%/năm). Năm 1998: 570.445 hộ (giảm so với năm 1996 là 125.058 hộ, tốc độ giảm bình quân là 9%/năm). Đây thực sự là những kết quả đáng mừng và đáng khích lệ trong công cuộc xoá đói giảm nghèo ở các tỉnh miền núi phía Bắc. Tuy nhiên chúng ta không thể không suy ngẫm trước thực trạng về đời sống đói nghèo ở đây và nỗi lo vẫn còn nhiều. Năm 1999, thu nhập bình quân một người một tháng là 210.000 đồng trong khi chi tiêu là 193.020 đồng. Suy ra khả năng tích luỹ bình quân của mỗi người một tháng là 16.980 đồng và một năm là 203.760 đồng. Với số tiền tích luỹ ít ỏi như vậy không biết đến bao giờ những hộ nghèo đói mới cải thiện được cuộc sống. Một trong những nỗi lo của các nhà chức trách hiện nay là khoảng cách giàu nghèo ở thành thị cũng như nông thôn đang có xu hướng giãn ra nhanh chóng. Và một vấn đề cần đặc biệt quan tâm đối với các tỉnh miền núi phía Bắc là phần lớn hộ đói nghèo là đồng bào dân tộc thiểu số. PHẦN III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XOÁ ĐÓI GIẢM NGHÈO Ở CÁC TỈNH MIỀN NÚI PHÍA BẮC. Những quan điểm: Công cuộc xoá đói giảm nghèo phải dựa trên nguyên tắc “không phát chẩn, không làm thay” mà tìm nguồn lực, tạo điều kiện cho người nghèo để từ đó họ có thể sản xuất, kinh doanh, tăng thu nhập, tự mình vươn lên vượt qua đói nghèo. Sản xuất quyết định đời sống, sản xuất càng phát triển thì đời sống xã hội càng cao và ngược lại. Vì vậy, phát triển sản xuất, tăng thu nhập của các hộ nông dân là vấn đề cốt lõi để xóa đói giảm nghèo. Đồng thời hộ nông dân là đơn vị kinh tế tự chủ, giữ vai trò quan trọng trong việc thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội nông thôn. Phát triển sản xuất gắn chặt với nâng cao sức khỏe và dân trí. Ba yếu tố đó kết hợp với nhau, thúc đẩy lẫn nhau và hỗ trợ cho nhau ngày một phát triển hơn. Bởi vậy, đồng thời với các giải pháp phát triển sản xuất, cần chú ý nâng cao trình độ khoa học kĩ thuật cho các chủ hộ và các lao động ở những hộ nghèo, tạo điều kiện cho con em họ được học hành. Chú ý chăm sóc sức khoẻ cho họ làm cho họ tự tin hơn, làm việc có hiệu quả hơn. Về tạo và sử dụng các yếu tố nguồn lực: Trên cơ sở phân loại nguyên nhân nghèo mà có những chính sách thích hợp, làm sao khi giao ruộng đất cho họ phải khai thác hết hiệu quả của đất. Cần khai thác tối đa mọi nguồn vốn (vốn tự có, vốn vay, trợ cấp nhân đạo,…) để cấp cho người nghèo dưới nhiều hình thức phong phú (trực tiếp cấp, thông qua các chương trình, dự án…) đồng thời có những biện pháp hỗ trợ cần thiết để người nghèo sử dụng một cách có hiệu quả đồng vốn. Sức lao động vốn là tài sản lớn của người nghèo nhưng nhìn chung chất lượng còn thấp, khả năng cạnh tranh kém. Do đó, cần giúp họ có cơ hội tiếp cận với công việc bằng cách tạo thêm việc làm ở nông thôn (kể cả nghề nông, công nghiệp và dịch vụ). Đồng thời có những biện pháp thích hợp để nâng cao chất lượng nguồn lao động như: phổ cập tiểu học, trung học cơ sở, chương trình khuyến nông, chương trình chăm sóc sức khoẻ, xây dựng cơ sở hạ tầng phục vụ đời sống, tăng phúc lợi xã hội… Xây dựng các công trình cơ sở hạ tầng phục vụ sản xuất như điện, đường giao thông, thuỷ lợi… kết hợp với trang bị những kĩ thuật khác cũng là hình thức trang bị vốn cho người nghèo. Vai trò của Nhà nước: Xoá đói giảm nghèo là một vấn đề đòi hỏi sự đóng góp nỗ lực của toàn Đảng, toàn dân, các tổ chức quốc tế, các tổ chức quần chúng, trong đó vai trò của Nhà nước đặc biệt quan trọng. Nhà nước cần ban hành hệ thống chính sách mới như chính sách tín dụng, chính sách thị trường tiêu thụ sản phẩm, chính sách đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng, chính sách thuế, chính sách khuyến nông… để khuyến khích nông dân giảm nghèo, làm giàu. Phương hướng: Phương hướng chung là không ngừng phát triển sản xuất kinh doanh, gắn chương trình giải quyết việc làm với xóa đói giảm nghèo. Hướng trọng tâm là chuyển đổi cơ cấu kinh tế gắn với bố trí cơ cấu lao động hợp lí, khai thác triệt để tiềm năng đất đai bằng mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ, thay đổi cơ cấu mùa vụ, thay đổi cơ cấu giống cây trồng vật nuôi để thu được giá trị kinh tế cao trên một đơn vị diện tích. Từng bước nâng cao tỉ trọng cây công nghiệp, sản phẩm chăn nuôi, tiểu thủ công nghiệp và ngành nghề dịch vụ nhằm tăng thu nhập, nâng cao đời sống. Vấn đề có tính chất quyết định là khuyến khích mọi nhà, mọi người chăm lo phát triển kinh tế hộ gia đình, kết hợp một cách biện chứng giữa sức vận động của từng cá nhân người nghèo với sự hỗ trợ của cộng đồng và sự tác động của chính sách Nhà nước để họ có điều kiện tự chủ vươn lên thoát khỏi cảnh đói nghèo. Trên cơ sở phân tích tỉ lệ hộ nghèo và nguyên nhân dẫn tới đói nghèo, xin đề xuất phương hướng cụ thể như sau: Có đủ việc làm cho các hộ nông dân nghèo bằng các hình thức Cấp thêm ruộng đất đi đôi với điều chỉnh quĩ ruộng đất cho phù hợp với khả năng và nguyện vọng sản xuất của họ. Tạo thêm việc làm bằng định canh định cư, tách hộ, lập vườn và chấm dứt tập quán chăn nuôi thả rông (đối với người dân tộc). Tạo thêm nhiều việc làm cho người lao động thông qua việc mở rộng diện tích, thâm canh tăng vụ và phát triển những ngành nghề phụ, tiêu thụ công nghiệp, dịch vụ. Trang bị kiến thức cho người nghèo, bao gồm: Khoa học kĩ thuật sản xuất nông nghiệp. Kiến thức về dân số, kế hoạch hoá gia đình. Kiến thức về thị trường, marketing. Đầu tư cho người nghèo một số vốn cần thiết ban đầu bao gồm cả cho vay với lãi suất thấp, liên doanh liên kết, đặc biệt đối với người nghèo trong vùng gặp nhiều rủi ro, đột xuất cần được cứu trợ kịp thời. Nhấn mạnh vào trọng tâm giải quyết triệt để tình trạng đói kinh niên, xoá bỏ hiện tượng tái đói tái nghèo. Có như vậy mới đảm bảo giảm thực sự vững chắc tỉ lệ hộ nghèo đói. Ngoài ra, phát triển kinh tế hộ nghèo không tách khỏi sự phát triển chung cả vùng như tăng cường xây dựng các cơ sở hạ tầng, nâng cao trình độ dân trí, đổi mới hình thức quản lý nông thôn, tăng cường sự hoạt động của các tổ chức xã hội, quần chúng, nghề nghiệp,… Một số giải pháp xoá đói giảm nghèo: 3.1. Tăng trưởng kinh tế nhanh, có hiệu quả và bền vững: Cơ sở của giải pháp này dựa trên logic biện chứng là muốn giúp đỡ, hỗ trợ có hiệu quả người nghèo đói thì Nhà nước phải có đủ nguồn lực, vật chất trong tay. Điều đó chỉ có thể thực hiện được khi nền kinh tế tăng trưởng nhanh, hiệu quả và bền vững. Tất nhiên, ngoài nguồn lực tích luỹ từ nguồn kinh tế ta còn có các nguồn lực hỗ trợ, ủng hộ của quốc tế nhưng nó chỉ chiếm một tỉ trọng nhỏ lại mang tính tức thời nên ta không thể trông chờ vào những nguồn lực ấy. Thực tiễn những năm qua đã chứng minh nhờ kinh tế phát triển mà Nhà nước có đủ tài chính để mở rộng các dự án, chương trình xoá đói giảm nghèo, hỗ trợ cho hàng ngàn xã khó khăn, phát triển cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. Trên cơ sở đó những người nghèo có cơ hội vươn lên thoát khỏi đói nghèo. Nhìn rộng ra, đây là giải pháp cơ bản không thể thiếu được trong việc xử lý vấn đề đói nghèo ở một quốc gia. Mặc dù điều kiện chính trị - xã hội có thể là khác nhau nhưng qui luật chung là khi kinh tế phát triển thì tỉ lệ người nghèo giảm theo, cơ hội hưởng lợi từ thành quả tăng trưởng kinh tế của mỗi người tăng lên. Điều này càng thể hiện rõ nét hơn ở Việt Nam, ở đâu kinh tế phát triển, ngành nghề và hoạt động kinh tế đa dạng, sôi nổi, việc làm đầy đủ thì ở đó số hộ nghèo đói giảm nhanh, số hộ giàu tăng lên và bộ mặt xã hội của cộng đồng thay đổi nhanh chóng. Giải pháp này cũng hoàn toàn hợp lí khi xét trên một phạm vi không gian hẹp hơn. Có nghĩa là, muốn xoá đói giảm nghèo ở một vùng (hoặc tỉnh, huyện, xã) nào đó thì cần phải thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của vùng (hoặc tỉnh, huyện, xã) đó. Tuy nhiên ta phải luôn xác định rõ tăng trưởng kinh tế phải đi đôi với công bằng xã hội, nhất là hạn chế sự phân hoá giàu nghèo. 3.2. Tiếp tục triển khai có hiệu quả các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo: Như đã trình bày trong những năm gần đây, Nhà nước đã giành nhiều kinh phí, tài chính, để đầu tư cho người nghèo, xã nghèo, vùng nghèo. Các chương trình, dự án ấy luôn được người dân hoan nghênh và hưởng ứng. Tuy nhiên, có lúc có nơi các chương trình được thực hiện thiếu đồng bộ và kém hiệu quả. Vấn đề nổi cộm là tình trạng tham nhũng, xà xẻo một phần tài chính từ cấp trung ương đến địa phương. Kết quả là người nghèo, xã nghèo bị cắt giảm một phần quyền lợi mà lẽ ra họ được hưởng. Để hạn chế hiện tượng tiêu cực và nâng cao hiệu quả của chương trình, dự án Nhà nước cần tập trung nhiều hơn vào các biện pháp xem xét kĩ khả năng tổ chức, triển khai của các đơn vị được giao và thường xuyên theo dõi đáng giá kết quả triển khai để phát hiện sớm những lệch lạc, sai trái, kịp thời ngăn chặn. Kinh nghiệm thực tiễn cho thấy cách kiểm tra tốt nhất là Nhà nước, chính quyền các cấp cần công khai hoá kế hoạch đầu tư, vốn tài chính của các dự án và tạo điều kiện để người nghèo có thể tham gia nhiều hơn vào quá trình triển khai, đồng thời hướng dẫn họ kiến thức quản lý, bảo trì các công trình đã được xây dựng để phục vụ cho lợi ích của chính họ. Bên cạnh đó, đưa ra các tiêu chí cụ thể về kết quả làm cơ sở cho việc rà soát, đánh giá các dự án đã và sẽ triển khai, so sánh chúng với nhau để rút ra những kinh nghiệm và bài học cần thiết. Đồng thời không ngừng bồi dưỡng nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ xóa đói giảm nghèo cũng như cán bộ ở các xã nghèo, đây là một giải pháp then chốt mang tính quyết định Việc tham khảo, học tập kinh nghiệm tổ chức, triển khai các chương trình, dự án xóa đói giảm nghèo ở các nước có nhiều thành công như: Hàn Quốc, Malaixia…cũng vô cùng quan trọng và cần thiết. Chẳng hạn, theo kinh nghiệm Hàn Quốc về hỗ trợ các xã nghèo phát triển là cung cấp cho họ các điều kiện, phương tiện vật chất tối thiểu để họ tự triển khai theo sự tính toán và bàn bạc của toàn cộng đồng, các chuyên gia xóa đói giảm nghèo chỉ làm chức năng tư vấn hướng dẫn và quản lí. Nhà nước đưa ra tiêu chuẩn về hiệu quả triển khai dự án, xã nào làm tốt thì tiếp tục được hỗ trợ, xã nào yếu kém thì bị cắt giảm, từ đó tạo ra không khí thi đua và cố gắng trong việc triển khai các dự án giữa các xã... 3.3. Công tác qui hoạch, định hướng phát triển: Trước hết, qui hoạch càng chi tiết và có tính khả thi sẽ tạo ra sự hấp dẫn đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Từ đó có cơ chế cởi mở, thu hút vốn đầu tư vào từng địa phương nhằm phát huy các thế mạnh tiềm tàng, phát triển kinh tế - xã hội. Thứ hai, có qui hoạch rõ ràng sẽ giúp cho mọi địa phương và các hộ gia đình tránh được tình trạng phát triển kinh tế chạy theo phong trào một cách dập khuôn máy móc như những năm vừa qua dẫn đến hiệu quả thấp và rủi ro cao, kết cục sản phẩm làm ra ứ thừa, không tìm được thị trường tiêu thụ dẫn tới chặt đốn những cây đã trồng (thậm chí chưa hoặc mới cho thu hoạch) gây lãng phí và nhiều hậu quả khác. Xuất phát từ thực tế, sản xuất hàng hoá trong nông nghiệp ít thích ứng với sự thay đổi thất thường của giá cả thị trường, bởi vậy không thể phát triển một nền nông nghiệp toàn diện và bền vững mà lại thiếu qui hoạch linh hoạt (hay qui hoạch cũng cần được thay đổi để phù hợp với “thời cuộc”) có tính đến sự biến động của thị trường tiêu thụ chung và dài hạn. Mỗi xã có những đặc thù riêng của mình, vì vậy cần phải dựa trên những định hướng lớn của huyện, tỉnh…để xây dựng những phương án, bố trí cơ cấu cây, con, ngành nghề phù hợp. Từ đó, hình thành nên cơ cấu sản xuất và cơ cấu kinh tế theo hướng sản xuất hàng hoá một cách hợp lí. 3.4. Tạo điều kiện thích hợp đi đôi với giảm thiểu rủi ro và tổn thương cho các hộ nghèo tự vươn lên xóa đói giảm nghèo: Trước hết, cần giải quyết những nhu cầu thiết yếu nhất như ăn, ở… Đối với các tỉnh miền núi phía Bắc, an toàn lương thực được coi là mục tiêu quan trọng hàng đầu vì trên thực tế đất nông nghiệp ở đây ít, chất lượng lại thấp nên nếu năm nào được mùa lắm cũng chỉ đủ ăn. Vì con người (nhất là trong điều kiện sản xuất lạc hậu, thủ công) có thể coi như một cái máy sản xuất, chỉ khi nạp năng lượng, nhiên liệu mới có thể hoạt động được nhưng nếu như nạp quá ít cũng như ăn uống thiếu chất, thường ở trong tình trạng đói thì sức khỏe sẽ không tốt, thường mệt mỏi và năng suất làm việc không cao. Vì vậy, Nhà nước cần có những biện pháp nhằm đảm bảo tái sản xuất sức lao động cho các hộ đói nghèo. Có thể thực hiện các biện pháp tức thời như trợ cấp (cả hiện vật lẫn giá trị). Đối với địa bàn miền núi, vùng cao, vùng sâu, vùng xa cần khuyến khích người dân sản xuất lương thực tại chỗ vì vấn đề vận chuyển lương thực có nhiều khó khăn, hạn chế. Muốn tăng sản lượng lương thực có hai hướng quảng canh và thâm canh. Nếu mở rộng diện tích dễ dẫn tới phá rừng, vì vậy chính quyền sở tại cần có những biện pháp hỗ trợ như thu hẹp diện tích trên nương, mở rộng diện tích dưới ruộng, khai hoang ruộng nước và xây dựng ruộng bậc thang. Đồng thời không ngừng phổ biến kiến thức, kinh nghiệm sản xuất để tăng năng suất, sản lượng trên một đơn vị diện tích gieo trồng, thực hiện phương châm chiến lược “làm lương thực phải giữ rừng, làm lương thực để giữ rừng”. Về vấn đề nhà ở, hiện nay tỉ lệ nhà ở dột nát, xiêu vẹo, tranh tre nứa lá, ẩm thấp…còn chiếm tỉ lệ khá cao trong tổng số hộ đói nghèo (Tây Bắc: 73,4%; Đông Bắc: 58,99%). Sinh hoạt trong những ngôi nhà đó, con người sẽ dễ gặp rủi ro như bệnh tật, sức khoẻ yếu, khả năng phòng tránh thiên tai kém…tác động một cách gián tiếp tới hoạt động sản xuất của hộ. Mặt khác, có nhà ở vững chắc sẽ giúp cho các hộ dân (đặc biệt là đồng bào dân tộc thiểu số) sống tập trung, yên ổn làm ăn thoát khỏi tập tục du canh du cư…Hiện nay, Nhà nước đã có nhiều chính sách, chương trình nhà ở hỗ trợ cho hộ nghèo nhưng đây vẫn là vấn đề bức xúc ở hầu hết các tỉnh thành trong cả nước, đặc biệt là ở những xã đặc biệt khó khăn. Trong việc thực hiện chính sách nhà ở, cần lưu ý bình xét hộ nào được ưu tiên hỗ trợ, hộ nào hỗ trợ trước, hộ nào hỗ trợ sau từ thôn bản, xóm làng đến xã phường có sự tham gia giám sát của các đoàn thể quần chúng và tránh tình trạng nhà của người nghèo lại “đẹp” hơn nhà của bà con hàng xóm xung quanh hoặc lại quá “tồi” để rồi sau một thời gian sử dụng lại xuống cấp và phải hỗ trợ thêm để cải tạo, vi phạm nguyên tắc “chỉ hỗ trợ một lần” mà chính sách chung đã đề ra. Nâng cao trình độ hiểu biết về sản xuất kinh doanh và cơ chế thị trường cho các hộ nghèo bằng các biện pháp khuyến nông, khuyến lâm, khuyến ngư. Có chính sách ưu tiên trong giáo dục, dạy nghề. Trước mắt, phải gấp rút xoá tình trạng mù chữ trong số con em các hộ nghèo đói, đồng thời tổ chức dạy nghề (ưu tiên đối với người dân tộc). Để làm được điều đó, Nhà nước phải xem xét tình hình cụ thể ở từng cộng đồng người nghèo để đầu tư

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21104.doc
Tài liệu liên quan