Lời mở đầu 1
CHƯƠNG 1: CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 2
I. CHỨNG KHOÁN 2
1. Khái niệm: 2
2. Các loại chứng khoán: 2
2.1. Cổ phiếu 2
2.2. Trái phiếu: 3
2.3. Chứng khoán có thể chuyển đổi 3
2.4. Các chứng khoán phái sinh 4
II.THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN 4
1. Tổng quan về thị trường chứng khoán 4
2. Chức năng của thị trường chứng khoán 7
2.1. Huy động vốn cho nền kinh tế 7
2.2. thông tin 8
2.3. cung cấp khả năng thanh khoản 8
2.4 đánh giá giá trị doanh nghiệp 8
2.5 tạo môi trường để chính phủ thực iện chính sách vĩ mô 8
3. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán 8
3.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn 8
3.2. Nhà đầu tư 8
3.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán 9
3.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán 9
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 12
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 12
II NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM 13
1. Thuận lợi 13
2. Khó khăn 14
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM 15
1.Tiến hành Cổ phần hoá doanh nghiệp 15
1.1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng 15
1.2. Giải pháp giải quyết khó khăn về tài chính và quản lí trong các doanh nghiệp 17
1. 3. biện pháp khắc phục lao động dôi dư sau khi cổ phần hoá. 19
1.4. giải pháp thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư ngòai doanh nghiệp 20
2.Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Chính phủ. 23
2. 1. Cải cách quy trình đấu thầu trái phiếu 23
2. 2. Chuẩn bị phát hành trái phiếu thông qua bảo lãnh 22
3. Đẩy mạnh phát hành các loại trái phiếu Doanh nghiệp. 25
4. Về sự tham gia của các tổ chức kinh tế nước ngoài 25
5. Các tổ chức trung gian 25
KẾT LUẬN 26
TÀI LIỆU THAM KHẢO
29 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1143 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tình hình cung - cầu, thị giá của từng loại chứng khoán trên thị trường mình và trên thị trường chứng khoán hữu quan.
2.3. cung cấp khả năng thanh khoản
Nhờ có thị trường chứng khoán mà các nhà đầu tư có thể chuyển đổi thành tiền khi họ muốn.Chức năng cung cấp khả năng thanh khoản bảo đảm cho thị trường chứng khoán hoạt động hiệu quảvà năng động.
2.4 đánh giá giá trị doanh nghiệp
Thị trường chứng khoán là nơI đánh giá chính xác doanh nghiệp thông qua chỉ số chứng khoán trên thị trường .Việc này kích các doanh nhgiệp nâng cao hiệu quả sử dụng vốn, kích thích áp dụng công ngệ mới.
2.5 tạo môi trường để chính phủ thực hiện chính sách vĩ mô
Chính phủ có thẻ mua bán trái phiếu chính phủ để tạo ra nguồn thu bù đắp thâm hụt ngân sách và quản lý lạm phát.ngoài ra chính có thể sử dụng các chính sách tác động vào thị trường chứng khoán nhằm định hướng đầu tư.
3. Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán
Các đối tượng tham gia thị trường chứng khoán chia thành các nhóm: nhà phát hành, nhà đầu và các tổ chức có liên quan.
3.1. Nhà phát hành và các tổ chức huy động vốn
Nhà phát hành là các tổ chức thực hiện huy động vốn thông qua thị trường chứng khoán. Nhà phát hành có thể là chính phủ, chính quyền địa phương, công ty, hay các tổ chức tài chính.
3.2. Nhà đầu tư
Nhà đầu tư có thể chia làm hai loại: nhà đầu tư cá nhân và nhà đầu tư có tổ chức.
3.2.1. Các nhà đầu tư các nhân
Nhà đầu tư các nhân là những người tham gia mua bán trên thị trường chứng khoán với mục đích tìm kiếm lợi nhuận. Tuy nhiên, lợi nhuận luôn gắn liền với rủi ro. Rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn. Do vậy, các nhà đầu tư phải lựa chọn các hình thức đầu tư phù hợp với mình.
3.2.2. Các nhà đầu tư có tổ chức
Các tổ chức này thường xuyên mua bán chứng khoán với số lượng lớn và có các bộ phận chức năng bao gồm nhiều chuyên gia có kinh nghiệm để nghiên cứu thị trường và đưa ra các quyết định đầu tư. Đầu tư thông qua các tổ chức này có ưu điểm là đa dạng hoá danh mục đầu tư và các quyết định đầu tư được thực hiện bởi các chuyên gia có kinh nghiệm.
Một bộ phận quan trọng của các tổ chức đầu tư là các công ty tài chính. Bên cạnh đó, các công ty chứng khoán, các ngân hàng thương mại cũng có thể trở thành những nhà đầu tư chuyên nghiệp khi họ mua chứng khoán cho mình.
3.3. Các tổ chức kinh doanh chứng khoán
3.3.1. Công ty chứng khoán
Các công ty này hoạt động với nghiệp vụ chính là bảo lãnh phát hành, tự doanh, môi giới, quản lý danh mục đầu tư và tư vấn đầu tư chứng khoán.
3.3.2. Các ngân hàng thương mại
Các ngân hàng thương mại có thể sử dụng vốn để đầu tư chứng khoán nhưng chỉ được trong giới hạn nhất định để bảo vệ ngân hàng trước những biến động của giá chứng khoán.
3.4. Các tổ chức có liên quan đến thị trường chứng khoán
3.4.1. Cơ quan quản lý nhà nước
Cơ quan này được thành lập để thực hiện chức năng quản lý nhà nước đối với thị trường chứng khoán. cơ quan này có những tên gọi khác nhau tuỳ từng nước. Tại Anh có Uỷ ban đầu tư chứng khoán (SIB- Securities Investment Board), tại Mỹ có Uỷ ban chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (SEC - Securities And Exchange Comission) hay ở Nhật Bản có Uỷ ban giám sát chứng khoán và Giao dịch chứng khoán (ESC - Exchange Surveillance Comission) được thành lập vào năm 1992 và đến năm 1998 đổi tên thành FSA - Financial Supervision Agency. Và ở Việt Nam có Uỷ ban chứng khoán nhà nước được thành lập theo Nghị địng số 75/CP ngày 28/11/1996.
3.4.2. Sở giao dịch chứng khoán
Hiện nay trên thế giới có ba hình thức tổ chức Sở giao dịch chứng khoán:
Thứ nhất: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức “câu lạc bộ mini” hay được tổ chức theo chế độ hội viên. Đây là hình thức tổ chức Sở giao dịch chứng khoán có tính chất tự phát. Trong hình thức này, các hội viên của Sở giao dịch chứng khoán tự tổ chức và tự quản lý Sở giao dịch chứng khoán theo pháp luật không có sự can thiệp của nhà nước. Các thành viên của Sở giao dịch chứng khoán bầu ra hội đồng quản trị để quản lý và hội đồng quản trị bầu ra ban điều hành.
Thứ hai: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới hình thức công ty cổ phần có cổ đông là công ty chứng khoán thành viên. Sở giao dịch chứng khoán tổ chức dưới hình thức này hoạt động theo luật công ty cổ phần và chịu sự giám sát của một cơ quan chuyên môn về chứng khoán và thị trường chứng khoán do chính phủ lập ra.
Thứ ba: Sở giao dịch chứng khoán được tổ chức dưới dạng một công ty cổ phần nhưng có sự tham gia quản lý và điều hành của Nhà nước. Cơ cấu tổ chức, điều hành và quản lý cũng giống như hình thức công ty cổ phần nhưng trong thành phần hội đồng quản trị có một số thành viên do Uỷ ban chứng khoán quốc gia đưa vào, giám đốc điều hành Sở giao dịch chứng khoán do ủy ban chứng khoán bổ nhiệm.
Thành viên của Sở giao dịch chứng khoán có thể là cá nhân hoặc các công ty chứng khoán (còn gọi là công ty môi giới chứng khoán). Để trở thành thành viên của một Sở giao dịch chứng khoán, công ty phải được cơ quan có thẩm quyền của nhà nước cấp giấy phép hoạt động, phải có số vốn tối thiểu theo quy định và có những chuyên gia kinh tế, pháp lý đã được đào tạo về phân tích và kinh doanh chứng khoán, ngoài ra công ty còn phải thoả mãn yêu cầu của từng sở giao dịch riêng biệt. Một công ty chứng khoán có thể là thành viên của hai hay nhiều Sở giao dịch chứng khoán, nhưng khi đã là thành viên của Sở giao dịch chứng khoán (thị trường chứng khoán tập trung) thì không được là thành viên của thị trường phi tập trung (thị trường OTC) và ngược lại.
Để cho các giao dịch diễn ra công bằng, đảm bảo lợi ích của các nhà đầu tư, Sở giao dịch chứng khoán có bộ phận chuyên theo dõi, giám sát các hoạt động giao dịch buôn bán chứng khoán để ngăn chặn kịp thời các vi phạm trong giao dịch như là gây nhiễu giá, giao dịch tay trong, giao dịch có giàn xếp trước. Bộ phận giám sát tiến hành theo dõi dưới hai hình thức là theo dõi thường xuyên hoặc theo dõi định kì. Khi phát hiện có vi phạm thì xử lý nghiêm minh, nếu đặc biệt nghiêm trọng thì trình lên Uỷ ban chứng khoán để điều tra xử lý.
3.4.3. Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán
Hiệp hội các nhà kinh doanh chứng khoán hoạt động với mục đích bảo vệ lợi ích cho các công ty thành viên nói riêng và cho toàn ngành chứng khoán nói chung. Hiệp hội này có một số các chức năng chính sau:
- Khuyến khích hoạt động đầu tư và kinh doanh chứng khoán.
- Ban hành và thực hiện các quy tắc tự điều hành trên cơ sở các quy định pháp luật về chứng khoán.
- Điều tra và giải quyết tranh chấp giữa các thành viên.
- Tiêu chuẩn hoá các nguyên tắc và thông lệ trong ngành chứng khoán.
3.4.4. Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán
Tổ chức ký gửi và thanh toán chứng khoán là các tổ chức nhận lưu giữ các chứng khoán và tiến hành nghiệp vụ thanh toán bù trừ.
3.4.5. Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm
Các tổ chức đánh giá hệ số tín nhiệm là các công ty chuyên đưa ra các đánh giá về tình hình và triển vọng của các công ty khác dưới dạng các hệ số tín nhiệm.
CHƯƠNG 2: THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM
I. SỰ CẦN THIẾT CỦA VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
Để tiến hành CNH, thay đổi cơ cấu kinh tế, nhằm đạt được mục tiêu tăng trưởng nhanh, lâu bền, Việt Nam cần đến một khối lượng vốn khổng lồ mà hiện trạng thị trường tài chính không thể đáp ứng đầy đủ. Với cơ cấu hiện nay, thị trường tài chính chủ yếu chỉ đáp ứng được một phần nhu cầu của nền kinh tế về vốn ngắn hạn. Trong khi đó, quá trình CNH, HĐH lại đòi hỏi ngay một khối lượng khổng lồ vốn dài hạn: trong năm năm 1991-1995, để có tốc độ tăng trưởng GDP bình quân 2,8% năm cần 18, 6 tỉ USD; thời kì 1996-2000, để đạt được tốc độ tăng trưởng 9 - 9,5% năm thì dự tính vốn đầu tư đã tăng hơn 2, 2 lần, khoảng 40 - 45 tỉ USD; với quy mô như vậy ước tính đến năm 2020 vốn đầu tư là 500 - 600 tỉ USD.
Trước những đòi hỏi bức xúc về vốn trung và dài hạn cho tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, khắc phục nguy cơ tụt hậu so với các nước trong khu vực và trên thế giới, Việt Nam cần phải có những chính sách huy động tối đa mọi nguồn lực trong nước cũng như các nguồn vốn nước ngoài bằng những hình thức khác nhau. Một trong những giải pháp đó là phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam.
Việc xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam hiện nay còn cần thiết bởi những lý do sau:
- Dưới góc độ kinh tế, với tư cách là một bộ phận của thị trường tài chính có chức năng phân bổ nguồn vốn trung và dài hạn, thị trường chứng khoán là trung tâm thu nhận, phân phối và giao lưu các nguồn vốn cho đầu tư và xã hội. Nó gắn bó hữu cơ trong sự phát triển đồng bộ hệ thống tài chính tiền tệ cấu thành nền tài chính quốc gia.
- Thị trường chứng khoán giúp cho đồng vốn đi vào những ngành, những doanh nghiệp biết tạo ra hiệu quả thông qua sự định hướng của thị trường vốn.
- Một thị trường chứng khoán hoạt động tốt sẽ cung cấp những dự báo chính xác về chu kỳ kinh doanh trong tương lai, giúp nhà nước hoạch định các chính sách thích hợp.
- Thị trường chứng khoán mang lại nhiều lợi ích cho công chúng, giúp cho công chúng có thể đầu tư vào các chứng khoán khác nhau một cách dễ dàng.
II NHỮNG THUẬN LỢI VÀ KHÓ KHĂN TRONG VIỆC PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN Ở VIỆT NAM
1. Thuận lợi
Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng ta có một hệ thống chính trị ổn định. Bên cạnh đó, nền kinh tế nước ta đang phát triển với một tốc độ khá cao, lạm phát được khống chế. Đây là môi trường kinh tế vĩ mô hết sức thuận lợi cho việc phát triển thị trường chứng khoán.
Uỷ ban chứng khoán nhà nước đã được thành lập. Đây là hạt nhân cơ bản, quan trọng để xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán.
Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu, các thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất, tạo điều kiện cho sự phát triển của thị trường chứng khoán.
Quá trình cải cách đã cho ra đời và phát triển hàng loạt các ngân hàng thương mại, tổ chức tài chính, tín dụng, các tổ chức bảo hiểm. Đây là các tác nhân quan trọng cho sự phát triển thị trường vốn và là tiền đề cho sự phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Nhu cầu về vốn của nước ta trong thời kỳ tới rất cao như đã nói ở phần trên. Để đạt được mục tiêu tăng gấp đôi GDP bình quân đầu người thì nhu cầu vốn của nền kinh tế nước ta trong thời kỳ 2000-2010 là 543, 5 tỷ USD.
Nước ta là một nước đang phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng thu hút vốn đầu tư nước ngoài mà lâu nay Việt Nam mới chú trọng khai thác theo hướng đầu tư trực tiếp (FDI) mà chưa chú trọng theo hướng đầu tư gián tiếp qua thị trường chứng khoán.
Trong vòng 12 năm qua, giá vàng liên tục sụt giảm và yếu tố tâm lý giữ vàng của nhân dân không còn như trước. Do vậy, người ta thường dùng tiền để gửi tiền tiết kiệm, mua tín phiếu, trái phiếu... đây chính là một cơ hội tốt để thúc đẩy nhanh sự phát triển của thị trường chứng khoán Việt Nam .
Một thuận lợi nữa mà chúng ta có đó là vào ngày 7/11/2006 chúng ta đã chính thức gia nhập WTO. Có thể nói đây chính là thời điểm rất thuận lợi để cho thi trường chứng khoán phát triển, bởi lẽ một khi đã là thành viên của WTO thì sự bảo hộ của nhà nước vể thuế cho các mặt hàng trong nước là không còn mạnh như trước nữa, mà các doanh nghiệp sẽ phải tự lực cánh sinh để cạnh tranh với các tập đoàn kinh tế lớn trên thế giới. Điều này phần nào bắt buộc các tổ chức kinh doanh phải tiến hành cổ phần hoá và từ đó sẽ tạo ra nhiều hàng hoá hơn cho thị trường chứng khoán.
2. Khó khăn.
Tuy nhiên, những thuận lợi đã có, những khó khăn vẫn còn nhiều, và đây cũng chính là những nguyên nhân làm chậm lại quá trình hình thành thị trường chứng khoán ở Việt Nam.
Khó khăn thứ nhất là thu nhập người dân còn thấp, tỷ lệ giữa tiết kiệm và tiêu dùng còn quá chênh lệch. Tư tưởng “làm đồng nào xào đồng ấy” đang còn rất phổ biến trong dân và ngay trong cả một số doanh nghiệp trong khi tình hình lạm phát còn chưa ổn định và chứa đựng nhiều tiềm ẩn. Hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán cho đến nay vẫn chưa được hoàn chỉnh. Một số văn bản pháp quy, các luật có liên quan, chi phối hoạt động hoặc có ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán đã ban hành nhưng trong phần nội dung còn nhiều bất cập, mâu thuẫn với hệ thống pháp lý về thị trường chứng khoán. Luật về thị trường chứng khoán vẫn còn dự thảo. Tình hình cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước còn chậm, số lượng đã cổ phần không đáng kể so với yêu cầu đặt ra. Các công ty cổ phần đã được thành lập còn quá ít và phần lớn có vốn rất nhỏ, chưa đủ mạnh để tạo ra các “hàng hoá” cần thiết.
Khó khăn thứ hai phải kể đến là chứng khoán và thị trường chứng khoán đối với đa số dân cư Việt Nam còn hoàn toàn là một điều mới lạ. Chứng khoán chưa được coi là một tài sản tài chính, nhiều người còn lo sợ khi đầu tư vào chứng khoán do thiếu hiểu biết nên đã không thể tạo ra được lượng vốn như mong muốn. Nên đã phần nào kìm hãm sự hình thành của thị trường chứng khoán Việt Nam.
III. KIẾN NGHỊ GIẢI PHÁP THÚC ĐẨY PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN TẠI VIỆT NAM
1.Tiến hành Cổ phần hoá doanh nghiệp
1.1. Một số kiến nghị nhằm giải quyết những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng
Những tồn tại về mặt nhận thức tư tưởng là một trong những trở lực lớn nhất, đầu tiên trong việc tiến hành cổ phần hoá ở bất cứ một doanh nghiệp nhà nước nào. Do đó, giải đáp những thắc mắc cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cũng như những người có liên quan phải được coi là nhiệm vụ quan trọng đầu tiên cần làm, và nên làm trước khi công việc cổ phần hoá được tiến hành.
Bởi vì chủ trương cổ phần hoá ở nước ta hiên nay là ưu tiên cho cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp cho nên đối tượng đầu tiên cần được phổ biến chính là họ. Việc phổ biến chủ trương theo chúng tôi cần phải đạt được những yêu cầu tối thiểu sau:
-Cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp phải ý thức một cách rõ ràng cổ phần hoá là một yêu cầu tất yếu khách quan, không sớm thì muộn cũng phải thực hiện. Trong giai đoạn này, tiến hành càng sớm thì doanh nghiệp càng được lợi, do Nhà nước vẫn còn dành rất nhiều ưu đãi cho các doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá. Kinh nghiệm của các doanh nghiệp đi trước đã được đúc kết tương đối đầy đủ. Hơn nữa cổ phần hoá sớm sẽ giúp cho doanh nghiệp có điều kiện hơn trong việc ổn định tổ chức sản xuất kinh doanh, chuẩn bị tốt hơn cho việc cạnh tranh khốc liệt trong tương lai khi chúng ta tham gia AFTA. Trông chờ, ỷ lại lúc này chính là con đường ngắn nhất dẫn đến chỗ phá sản.
- Họ cũng cần hiểu rằng, cổ phần hoá trước hết là vì lợi ích của các doanh nghiệp, của cán bộ công nhân viên của doanh nghiệp. Sau khi trở thành công ty cổ phần, họ sẽ được hoàn toàn độc lập tự chủ trong sản xuất kinh doanh, song tất nhiên họ cũng phải biết tự mình chống đỡ với những cạnh tranh gay gắt trong cơ chế thị trường. Đây là điều không thể tránh khỏi. Nhưng đây cũng là cơ hội để cho những người có thực lực, thực tài, những doanh nghiệp thực mạnh vươn lên tự khẳng định mình. Còn đối với những doanh nghiệp yếu, những người thiếu năng lực, trình độ thì cũng phải nhận ra một điều là đã đến lúc họ phải thay đổi, phải tự vươn lên hoàn thiện mình nếu không họ sẽ bị đào thải theo qui luật cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường.
Để hỗ trợ việc tuyên truyền các mục tiêu trên thì đài, báo, vô tuyến truyền hình là những phương tiện hết sức đắc lực. Tuy nhiên để công tác tuyên truyền thực sự đi sâu, đi sát với cán bộ công nhânviên thì cần phải có nhiều biện pháp khác, sát sườn hơn. ở đây chúng tôi xin đưa ra một số kinh nghiệm mà nhiều doanh nghiệp đã áp dụng tốt. Đó là việc cung cấp cho cán bộ công nhânviên trong doanh nghiệp những văn bản, có nội dung liên quan trực tiếp đến chủ trương cổ phần hoá. Sau đó tổ chức các buổi nói chuyện có mời các chuyên gia giỏi về nhằm giải đáp những thắc mắc của họ đồng thời cũng tạo điều kiện cho họ được đóng góp ý kiến tham gia việc xây dựng đề án cổ phần hoá.
Đối với các cổ đông tiềm năng bên ngoài doanh nghiệp thì không có biện pháp tuyên truyền nào hiệu quả bằng các phương tiện thông tin đại chúng đặc biệt là những tờ báo có uy tín cũng như đài phát thanh và truyền hình trung ương. Chương trình thời sự cũng như các bộ phim, những câu chuyện truyền thanh là những chương trình mà theo chúng tôi thu hút được rất nhiều khán thính giả.
Đối với những hành động chây ỳ, có ý cản trở việc thực hiện chủ trương này thiết nghĩ, cần có những chế tài xử lý nghiêm minh, có như vậy vai trò chỉ đạo của các cơ quan, tổ chức mới được đảm bảo, trên cơ sở đó tiến hành đẩy nhanh các công đoạn của qui trình cổ phần hoá
1.2. Giải pháp giải quyết khó khăn về tài chính và quản lí trong các doanh nghiệp
Theo tin từ ban cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước thì nhà nước đã có chủ trương phân loại doanh nghiệp nhà nước thành 4 nhóm.
- Nhóm doạnh nghiệp làm ăn có hiệu quả.
- Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về tài chính.
- Nhóm doanh nghiệp có khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
- Nhóm doanh nghiệp thua lỗ kéo dài (từ 3 năm trở nên).
Ba nhóm đầu thuộc diện cổ phần hoá, còn nhóm thua lỗ kéo dài, Nhà nước sẽ áp dụng các biện pháp sáp nhập với các đơn vị khác rồi cổ phần hoá, đấu thầu cho thuê, bán cho cán bộ công nhân viên chức trong và ngoaì doanh nghiệp, thực hiện biện pháp khoán hoặc cho phá sản.
Còn đối với các doanh nghiệp nhà nước gặp khó khăn về tài chính thì việc thành lập quỹ hỗ trợ cổ phần hoá sẽ là một giải pháp quan trọng. Nhiệm vụ và vai trò của quỹ cổ phần hoá không chỉ giới hạn ở việc hỗ trợ cho các doanh nghiệp gặp khó khăn về tài chính. Tuy nhiên hỗ trợ tài chính cho các doanh nghiệp vẫn là một trong những chức năng chính của quỹ này.
Ngoài ra còn có thể là những khoản thu từ việc thanh lí tài sản trong doanh nghiệp khi tiến hành cổ phần hoá
Hoạt động hỗ trợ của quỹ có thể được thực hiện dưới một số hình thức sau:
- Kế thừa hoặc mua lại nợ của doanh nghiệp.
- Cho doanh nghiệp vay với cơ chế và lãi suất ưu đãi. Như vậy, quỹ cổ phần hoá cũng góp phần giải quyết vấn đề nợ đọng trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Sự hỗ trợ của quỹ cổ phần hoá sẽ có tác dụng giải quyết nhiều khó khăn cho doanh nghiệp, từ đó giúp doanh nghiệp nâng cao hiệu qủa sản xuất kinh doanh, tiến tới làm ăn có lãi. Có thể nói “làm ăn có lãi” là điều kiện rất quan trọng, nhiều khi là nhân tố có tính quyết định cho sự thành công của việc cổ phần hoá nhiều doanh nghiệp
Với ý nghĩa đó, việc nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh cũng chính là mục tiêu cơ bản của những giải pháp đối với các doanh nghiệp gặp khó khăn về quản lý, giá thành sản xuất lên cao.
Giá thành sản xuất lên cao có thể có nhiều nguyên nhân song suy cho cùng nguyên nhân quan trọng nhất vẫn nằm trong khâu quản lý. Người quản lý tốt có đủ năng lực, trình độ, phẩm chất sẽ biết phải làm gì khi thua lỗ xảy ra. Khi thua lỗ do nguyên nhân khách quan đưa lại, không thể khắc phục được thì người đó cần tìm cách chuyển hướng sản xuất kinh doanh hoặc tuyên bố phá sản. Những doanh nghiệp không có khả năng khắc phục đã được xếp vào nhóm 4. Những doanh nghiệp có khả năng khắc phục nhưng do quản lý tồi, người quản lý kém năng lực, trình độ thậm chí mất phẩm chất thì cách giải quyết duy nhất theo chúng tôi là thay đổi nhân sự trong ban quản lý doanh nghiệp. Việc lựa chọn người lãnh đạo mới không phải là việc dễ dàng, song nên đưa ra một tiêu thức để lựa chọn là người lãnh đạo đó phải lập được phương án sản xuất có hiệu quả và khả thi trên cơ sở của máy móc, công nghệ, lao động của doanh nghiệp hiện tại. Một số tiêu chí nữa có thể kể đến là uy tín của người đó đối với cán bộ công nhân viên trong doanh nghiệp, khả năng tổ chức nhân sự.
Chính phủ và Nhà nước nên sớm có chủ trương củng cố công tác đào tạo trong ngành quản trị kinh doanh . Khi nền kinh tế phát triển, công tác quản lý được chuyên môn hoá thì nhu cầu đối với các Giám đốc giỏi sẽ không nhỏ. Trong khi đó công tác đào tạo ngành quản trị kd hiện nay xem ra vẫn chưa đáp ứng được các yêu cầu nhất là yêu cầu về chất lượng, vì rằng nếu không có các nhà quản lý giỏi thì các động lực về kinh tế cho dù có mạnh đến đâu cũng khó có thể bù đắp được cho những thiếu hụt về trình độ.
1. 3. Biện pháp khắc phục lao động dôi dư sau khi cổ phần hoá.
Cơ chế biên chế trong giai đoạn trước đã dẫn đến tình trạng tuyển chọn lao động tràn lan, bất chấp trình độ nghề nghiệp và hiệu quả sản xuất kinh doanh. Theo ước tính, tổng số lao động đang làm việc tại 5.790 doanh nghiệp nhà nước vào khoảng 1, 8 triệu người. Song chất lượng lao động rất thấp: Tỷ lệ lao động được đào tạo nghề chỉ chiếm 10 - 12% số còn lại chủ yếu là lao động phổ thông. Những con số này cũng phản ánh phần nào những khó khăn đối với việc giải quyết vấn đề lao động dôi dư sau khi tiến hành cải cách doanh nghiêp nhà nước cũng như cổ phần hoá. Bởi vì cùng với việc chú trọng nâng cao hiệu quả sản xuất thì việc làm tất yếu của các doanh nghiệp là phải giảm bớt số lao động dư thừa, không đủ trình độ. Con số này quả là không nhỏ trong nhiều doanh nghiệp nhà nước hiện nay.
Giải quyết vấn đề lao động dôi dư là một vấn đề rất phức tạp, có tính xã hội sâu sắc. Song đó là việc mà chúng ta không thể né tránh.
Trước hết chúng ta phải thống nhất với nhau một điều là việc giải quyết vấn đề dôi dư đòi hỏi phải có sự hợp tác từ cả hai phía là doanh nghiệp và Nhà nước cụ thể hơn là Chính phủ và các cấp Bộ, ngành có liên quan. Trong sự hợp tác đó thì doanh nghiệp là người có trách nhiệm trực tiếp đưa ra hướng giải quyết, còn Nhà nước chỉ là người hỗ trợ, giúp đỡ và phân giải các mâu thuẫn giữa doanh nghiệp với người lao động.
- Đối với DN: Phải chủ động xây dựng kế hoạch giải quyết lao động dôi dư trên cơ sở đề án sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp với một số nội dung chính là.
+ Phân loại lao động để xác định số lao động dôi dư để từ đó đưa ra các hướng giải quyết. Cụ thể là đối với người lao động sắp đến tuổi nghỉ hưu (người lao động còn dưới 5 năm công tác là đến tuổi nghỉ hưun) có thể trợ cấp để đảm bảo các chế độ hưu trí cho họ. Đối với số lao động còn lại (chiếm đa sốc), có nhiều hướng giải quyết như tái sử dụng sau khi đã đào tạo, đào tạo lại, hỗ trợ chuyển sang ngành nghề mới.
+ Xác định nguồn vốn để giải quyết lao động dôi dư hiện tại doanh nghiệp có thể lấy từ các nguồn quỹ sau: Quỹ khen thưởng, phúc lợi, quỹ trợ cấp mất việc làm, quỹ trợ cấp thôi việc, ngoài ra còn có thể lấy từ quỹ đào tạo của đơn vị (nếu có).
- Đối với Nhà nước: Nên hạn chế hỗ trợ trực tiếp, tăng cường hỗ trợ gián tiếp.
+ Hỗ trợ trực tiếp chỉ tập trung vào: Hỗ trợ một phần kinh phí cho doanh nghiệp. Mà nguồn hỗ trợ chính có thể lấy ra từ quỹ cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước
+ Hỗ trợ gián tiếp: Hỗ trợ về cơ chế và chính sách lập nghiệp đối với lao động dôi dư như các danh sách ưu đãi về vốn tín dụng, tiền thuê đất, về thuế sản xuất kinh doanh.
Ngoài ra, đào tạo, và đào tạo lại nghề nghiệp cho số lao động dôi dư cũng cần phải được xem là giải pháp vừa mang tính sách lược mà mang tính chiến lược. Thực tế cổ phần hoá trong những năm qua đã cho thấy nhiều doanh nghiệp cổ phần hoá sau khi đi vào sản xuất kinh doanh ổn định thì thường có nhu cầu tuyển dụng thêm lao động. Song những lao động đó phải là người có tay nghề, đã qua đào tạo .Về mặt lâu dài, khi kinh tế phát triển, sẽ có ngày cần nhiều những ngành đòi hỏi công nhân có tay nghề và trình độ chuyên môn. Nếu chúng ta không chuẩn bị ngay từ bây giờ thì e rằng tình trạng" thừa việc, thiếu người" trong nhiều doanh nghiệp, nhất là các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài như hiện nay sẽ càng trầm trọng thêm.
1.4. Giải pháp thu hút vốn đầu tư của các nhà đầu tư ngòai doanh nghiệp
1.4.1. Thúc đẩy sự ra đời của thị trường chứng khoán
Thứ nhất: thị trường chứng khoán góp phần làm tăng khả năng chuyển nhượng của các chứng khoán, trong đó có cổ phiếu do đó sẽ làm tăng sức hấp dẫn của hình thức đầu tư dưới dạng cổ phiếu.
Thứ hai: thị trường chứng khoán cho phép các nhà đầu tư có nhiều thông tin hơn về các doanh nghiệp thông qua sự biến động của các chỉ số trên thị trường này. Nó tạo ra sự giám sát công khai, khách quan đối với doanh nghiệp do đó làm tăng niềm tin của các nhà đâù tư, nhất là những người ở ngoài doanh nghiệp.
Thứ ba: Nó làm tăng khả năng thu hút vốn của các nhà đầu tư nước ngoài của các doanh nghiệp cổ phần hoá, do đó sẽ đem lại nhiều động lực thúc đẩy doanh nghiệp tiến hành cổ phần hoá.
Với những ưu điểm cơ bản nêu trên có thể thấy sự ra đời của thị trường chứng khoán ở nước ta sẽ là một sự hỗ trợ đắc lực cho việc đẩy mạnh cổ phần hoá trong thời gian tới. Điều này đã được chứng minh qua thực tế ở Trung Quốc.
Vấn đề trước mắt cần làm là Nhà nước nên sớm xây dựng khuôn khổ pháp lý cho hoạt động giao dịch cổ phiêú của các công ty cổ phần qua thị trường chứng khoán, hoàn thiện hệ thống thông tin liên lạc, thúc đẩy các doanh nghiệp làm quen với chế độ công khai tài chính trên thị trường chứng khoán qua đó làm cho hoạt động của thị trường chứng khoán được diễn ra một cách suôn sẻ, thực sự phát huy được những tác dụng tích cực của mình.
1.4.2. Thành lập các quỹ đầu tư
Quỹ đầu tư là một loại định chế tài chính trung gian trên thị trường vốn do công ty đầu tư lập
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0648.doc