Lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam, Mục 4.1.1 Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 đã đề cập đến “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh - tiếng Anh gọi là franchise”. Tiếp đó, Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ cũng đề cập đến hoạt động cấp phép đặc quyền kinh doanh với tư cách là một nội dung của hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều 4 Khoản 6 Nghị định này, cấp phép đặc quyền kinh doanh là hoạt động trong đó “bên nhận sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết của bên giao để tiến hành hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại” (*). Điều 755 Bộ luật Dân sự 2005 cũng quy định rằng cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong những đối tượng chuyển giao công nghệ. Đây chính là những sự ghi nhận đầu tiên về NQTM trong pháp luật Việt Nam.
Với sự ra đời của Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực ngày 01/01/2006), NQTM chính thức được công nhận và luật hoá trong 8 điều, từ Điều 284 đến Điều 291. Ngày 31/03/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động NQTM (sau đây gọi là Nghị định số 35/2006/NĐ-CP). Ngày 25/05/2006, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM (sau đây gọi là Thông tư số 09/2006/TT-BTM). Các văn bản này đã điều chỉnh một cách cơ bản các vấn đề về NQTM.
Ngoài ra, do tính chất đặc thù của mình, hoạt động NQTM còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về chuyển giao công nghệ, pháp luật cạnh tranh, và các quy định pháp luật khác có liên quan (như pháp luật về dịch vụ phân phối, pháp luật về thuế, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư, pháp luật phá sản, pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo chào bán quyền thương mại, pháp luật hành chính, pháp luật hình sự, ).
Như vậy, khung pháp lý cơ bản cho hoạt động NQTM đã được hình thành, mặc dù còn sơ sài nhưng đã tạo cơ sở cho NQTM phát triển tại Việt Nam.
Ở các nước trên thế giới, mức độ điều chỉnh hoạt động NQTM có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào quan điểm và đặc điểm riêng của từng nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ, đa dạng và phức tạp của NQTM, thì xu hướng chung của các nước trên thế giới là xây dựng những văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh hoạt động NQTM. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có văn bản pháp luật để điều chỉnh riêng về NQTM. Sự khác biệt này của Việt Nam so với một số nước phát triển chỉ là sự khác biệt về kỹ thuật lập pháp. Để đánh giá tính hiệu quả của pháp luật Việt Nam về NQTM, những vấn đề sau cần được xem xét và cân nhắc: Thứ nhất, liệu pháp luật Việt Nam có khả năng điều chỉnh được các quan hệ NQTM trong hiện tại và tương lai không; và Thứ hai, những quy định này đã đáp ứng được yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế hay chưa.
50 trang |
Chia sẻ: leddyking34 | Lượt xem: 4137 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện pháp luật về nhượng quyền thương mại tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ình sự.
KẾT LUẬN CHƯƠNG 1
1. NQTM là một hoạt động thương mại đặc biệt trong nền kinh tế. Nó không phải là một việc kinh doanh cụ thể nào đó mà là một phương thức kinh doanh, trong đó bên nhượng quyền cho phép bên nhận quyền - độc lập với bên nhượng quyền về tư cách pháp lý - được cùng khai thác giá trị thương mại của một tập hợp các yếu tố: tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá/dịch vụ, bí quyết, bí mật kinh doanh, biểu tượng quảng cáo, khẩu hiệu… mà trọng tâm là các tài sản thuộc đối tượng sở hữu trí tuệ. Hoạt động của bên nhượng quyền và các bên nhận quyền tạo thành một hệ thống NQTM đồng bộ, thống nhất với nhau về hành động và lợi ích.
Thông qua các đặc điểm riêng biệt về chủ thể, đối tượng được nhượng quyền, tính thống nhất về mô hình kinh doanh, và thường dẫn tới hệ quả làm bóp méo cạnh tranh, NQTM đã chứng tỏ rằng nó là một hoạt động thương mại độc lập, khác biệt so với nhiều hoạt động tương tự khác như chuyển quyền sử dụng đối tượng sở hữu công nghiệp, chuyển giao công nghệ, đại lý…
NQTM đã và đang phát triển hết sức mạnh mẽ và đa dạng. Các hình thức NQTM rất phong phú, như: nhượng quyền phân phối sản phẩm, nhượng quyền phương thức kinh doanh, nhượng quyền cho từng cơ sở, nhượng quyền đa cơ sở, nhượng quyền trong nước, nhượng quyền quốc tế…
2. NQTM là một hoạt động phức tạp, có liên quan đến nhiều lĩnh vực pháp luật khác nhau. Pháp luật nhiều nước trên thế giới, trong đó có Việt Nam, đã có sự quan tâm điều chỉnh hoạt động NQTM. Các vấn đề về NQTM được điều chỉnh khá toàn diện, bao gồm một số nội dung sau: (i) quy định về hợp đồng NQTM; (ii) quy định về việc cung cấp thông tin về hệ thống NQTM; (iii) quy định về đăng ký hoạt động NQTM; và (iv) quy định về xử lý vi phạm pháp luật trong hoạt động NQTM. Những quy định này đã tạo một môi trường pháp lý cho hoạt động NQTM phát triển, đảm bảo quyền, lợi ích của các bên và sự ổn định của nền kinh tế.
CHƯƠNG 2
THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
2.1. HỆ THỐNG VĂN BẢN PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI Ở VIỆT NAM
Lần đầu tiên trong pháp luật Việt Nam, Mục 4.1.1 Thông tư số 1254/1999/TT-BKHCNMT ngày 12/7/1999 đã đề cập đến “hợp đồng cấp phép đặc quyền kinh doanh - tiếng Anh gọi là franchise”. Tiếp đó, Nghị định số 11/2005/NĐ-CP ngày 02/02/2005 quy định chi tiết về chuyển giao công nghệ cũng đề cập đến hoạt động cấp phép đặc quyền kinh doanh với tư cách là một nội dung của hoạt động chuyển giao công nghệ. Theo Điều 4 Khoản 6 Nghị định này, cấp phép đặc quyền kinh doanh là hoạt động trong đó “bên nhận sử dụng tên thương mại, nhãn hiệu hàng hoá và bí quyết của bên giao để tiến hành hoạt động trong lĩnh vực dịch vụ thương mại” (* Thông tư số 1254/1999/TT - BKHCNMT và Nghị định số 11/2005/NĐ - CP đã hết hiệu lực.
). Điều 755 Bộ luật Dân sự 2005 cũng quy định rằng cấp phép đặc quyền kinh doanh là một trong những đối tượng chuyển giao công nghệ. Đây chính là những sự ghi nhận đầu tiên về NQTM trong pháp luật Việt Nam.
Với sự ra đời của Luật Thương mại 2005 (có hiệu lực ngày 01/01/2006), NQTM chính thức được công nhận và luật hoá trong 8 điều, từ Điều 284 đến Điều 291. Ngày 31/03/2006, Chính phủ đã ban hành Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định chi tiết Luật Thương mại về hoạt động NQTM (sau đây gọi là Nghị định số 35/2006/NĐ-CP). Ngày 25/05/2006, Bộ Thương mại ban hành Thông tư số 09/2006/TT-BTM hướng dẫn đăng ký hoạt động NQTM (sau đây gọi là Thông tư số 09/2006/TT-BTM). Các văn bản này đã điều chỉnh một cách cơ bản các vấn đề về NQTM.
Ngoài ra, do tính chất đặc thù của mình, hoạt động NQTM còn chịu sự điều chỉnh của pháp luật về sở hữu trí tuệ, pháp luật về chuyển giao công nghệ, pháp luật cạnh tranh, và các quy định pháp luật khác có liên quan (như pháp luật về dịch vụ phân phối, pháp luật về thuế, pháp luật về doanh nghiệp, pháp luật về đầu tư, pháp luật phá sản, pháp luật điều chỉnh hoạt động quảng cáo chào bán quyền thương mại, pháp luật hành chính, pháp luật hình sự,…).
Như vậy, khung pháp lý cơ bản cho hoạt động NQTM đã được hình thành, mặc dù còn sơ sài nhưng đã tạo cơ sở cho NQTM phát triển tại Việt Nam.
Ở các nước trên thế giới, mức độ điều chỉnh hoạt động NQTM có thể khác nhau, tuỳ thuộc vào quan điểm và đặc điểm riêng của từng nước. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển ngày càng mạnh mẽ, đa dạng và phức tạp của NQTM, thì xu hướng chung của các nước trên thế giới là xây dựng những văn bản pháp luật riêng để điều chỉnh hoạt động NQTM. Hiện nay, ở Việt Nam chưa có văn bản pháp luật để điều chỉnh riêng về NQTM. Sự khác biệt này của Việt Nam so với một số nước phát triển chỉ là sự khác biệt về kỹ thuật lập pháp. Để đánh giá tính hiệu quả của pháp luật Việt Nam về NQTM, những vấn đề sau cần được xem xét và cân nhắc: Thứ nhất, liệu pháp luật Việt Nam có khả năng điều chỉnh được các quan hệ NQTM trong hiện tại và tương lai không; và Thứ hai, những quy định này đã đáp ứng được yêu cầu hội nhập khu vực và quốc tế hay chưa.
2.2. NHỮNG VẤN ĐỀ PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ NHƯỢNG QUYỀN THƯƠNG MẠI TẠI VIỆT NAM
2.2.1. Quy định về hợp đồng nhượng quyền thương mại
a. Ưu điểm
(i) Pháp luật quy định rõ về điều kiện trở thành chủ thể hợp đồng nhượng quyền thương mại, từ đó góp phần hạn chế rủi ro trong hoạt động kinh doanh của các bên
Theo các Điều 5, 6 và 7 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, chủ thể tham gia hợp đồng NQTM bao gồm bên nhượng quyền và bên nhận quyền. Bên nhượng quyền là thương nhân cấp quyền thương mại, bao gồm cả bên nhượng quyền thứ nhất (bên nhượng quyền sơ cấp) và bên nhượng lại quyền (bên nhượng quyền thứ cấp). Bên nhận quyền là thương nhân nhận quyền thương mại để khai thác, kinh doanh, gồm cả bên nhận quyền sơ cấp và bên nhận quyền thứ cấp. Bên nhượng quyền và bên nhận quyền phải đáp ứng những điều kiện nhất định để có thể tham gia quan hệ NQTM.
Bên nhượng quyền được phép cấp quyền thương mại khi đáp ứng các điều kiện:
- Hệ thống kinh doanh dự định dùng để nhượng quyền đã được hoạt động ít nhất 01 năm. Trường hợp thương nhân Việt Nam là bên nhận quyền sơ cấp từ bên nhượng quyền nước ngoài, thương nhân Việt Nam đó phải kinh doanh theo phương thức NQTM ít nhất 01 năm ở Việt Nam trước khi tiến hành cấp lại quyền thương mại.
- Đã đăng ký hoạt động NQTM với cơ quan có thẩm quyền.
- Hàng hoá, dịch vụ kinh doanh thuộc đối tượng của quyền thương mại là hàng hoá, dịch vụ không thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ cấm kinh doanh. Trường hợp hàng hoá, dịch vụ thuộc Danh mục hàng hoá, dịch vụ hạn chế kinh doanh, Danh mục hàng hoá, dịch vụ kinh doanh có điều kiện, doanh nghiệp chỉ được kinh doanh sau khi được cơ quan quản lý ngành cấp Giấy phép kinh doanh, giấy tờ có giá trị tương đương hoặc có đủ điều kiện kinh doanh.
Đối với bên nhận quyền, pháp luật cũng yêu cầu phải là thương nhân có đủ khả năng tiến hành các hoạt động kinh doanh sau khi nhận quyền kinh doanh của bên nhượng quyền. Cụ thể là bên nhận quyền phải có đăng ký kinh doanh ngành nghề phù hợp với đối tượng của quyền thương mại.
(ii) Hình thức hợp đồng nhượng quyền thương mại được quy định là văn bản
Theo quy định tại Điều 285 Luật Thương mại, hợp đồng NQTM phải được lập thành văn bản hoặc bằng hình thức khác có giá trị pháp lý tương đương, bao gồm điện báo, telex, fax, thông điệp dữ liệu và các hình thức khác theo quy định của pháp luật. Việc quy định như vậy đảm bảo tính minh bạch, rõ ràng của hợp đồng NQTM, tạo căn cứ vững chắc cho các bên thực hiện quyền và nghĩa vụ của mình theo hợp đồng, và tạo thuận lợi cho việc giải quyết tranh chấp.
(iii) Quy định về nội dung hợp đồng, quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng, về cơ bản đã tương đồng với pháp luật các nước
Theo quy định tại các Điều 286, 287, 288, 289 Luật Thương mại 2005, các bên sẽ có những quyền và nghĩa vụ cơ bản sau:
Bên nhượng quyền có ba quyền cơ bản là: thứ nhất, nhận tiền nhượng quyền; thứ hai, tổ chức quảng cáo cho hệ thống NQTM; thứ ba, kiểm tra định kỳ hoặc đột xuất hoạt động của bên nhận quyền nhằm bảo đảm sự thống nhất của hệ thống NQTM và sự ổn định về chất lượng hàng hoá/dịch vụ.
Đi đôi với quyền, bên nhượng quyền cũng có những nghĩa vụ nhất định. Đó là: thứ nhất, cung cấp tài liệu hướng dẫn về hệ thống NQTM cho bên nhận quyền; thứ hai, đào tạo ban đầu và cung cấp trợ giúp kỹ thuật thường xuyên cho bên nhận quyền để điều hành hoạt động theo đúng hệ thống NQTM; thứ ba, thiết kế và sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ bằng chi phí của bên nhận quyền; thứ tư, bảo đảm quyền sở hữu trí tuệ đối với đối tượng được ghi trong hợp đồng NQTM; thứ năm, đối xử bình đẳng với các bên nhận quyền trong hệ thống NQTM.
Bên nhận quyền có quyền: thứ nhất, yêu cầu bên nhượng quyền cung cấp đầy đủ sự trợ giúp kỹ thuật có liên quan đến hệ thống NQTM; thứ hai, yêu cầu bên nhượng quyền đối xử bình đẳng giữa các bên nhận quyền trong hệ thống NQTM.
Bên nhận quyền được sử dụng, khai thác quyền thương mại thuộc sở hữu của bên nhượng quyền, do đó phải chịu nhiều ràng buộc từ phía bên nhượng quyền và các nghĩa vụ đặt ra đối với bên nhận quyền cũng nhiều hơn, bao gồm: thứ nhất, trả tiền nhượng quyền và các khoản thanh toán khác theo hợp đồng NQTM; thứ hai, đầu tư đủ cơ sở vật chất, nguồn tài chính và nhân lực để tiếp nhận các quyền mà bên nhượng quyền chuyển giao; thứ ba, chấp nhận sự kiểm soát, giám sát và hướng dẫn của bên nhượng quyền, tuân thủ các yêu cầu về thiết kế, sắp xếp địa điểm bán hàng, cung ứng dịch vụ của bên nhượng quyền; thứ tư, giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền, kể cả sau khi hợp đồng NQTM kết thúc hoặc chấm dứt; thứ năm, ngừng sử dụng nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại, khẩu hiệu kinh doanh, biểu tượng kinh doanh và các quyền sở hữu trí tuệ khác (nếu có) hoặc hệ thống của bên nhượng quyền khi kết thúc hoặc chấm dứt hợp đồng NQTM; thứ sáu, điều hành hoạt động phù hợp với hệ thống NQTM; thứ bảy, không được nhượng quyền lại trong trường hợp không có sự chấp thuận của bên nhượng quyền.
Nhìn chung, các quy định của pháp luật Việt Nam về quyền và nghĩa vụ cơ bản của các bên trong hợp đồng NQTM là tương đồng với quy định của pháp luật các nước.
(iv) Quy định những trường hợp được chấm dứt hợp đồng trước thời hạn và sự ràng buộc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền sau khi chấm dứt hợp đồng nhằm đảm bảo quyền và lợi ích của các bên
Khoản 2 Điều 13 và Điều 16 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định những điều kiện để bên nhượng quyền và bên nhận quyền được đơn phương chấm dứt hợp đồng trước thời hạn. Theo đó, các bên chỉ được phép chấm dứt khi có những lý do chính đáng, đồng thời cho phép bên nhận quyền được sửa chữa những sai phạm khi vi phạm nghĩa vụ không cơ bản trong hợp đồng. Các quy định này đã tương đối bao quát các trường hợp có thể xảy ra, nhằm đảm bảo quyền và lợi chính đáng cho các bên khi tham gia hợp đồng NQTM.
Pháp luật các nước rất quan tâm đến vấn đề chấm dứt hợp đồng NQTM trong trường hợp này. Thông thường, các quy định pháp luật được xây dựng theo hướng bảo vệ quyền lợi của bên nhận quyền thông qua việc đảm bảo rằng bên nhượng quyền có lý do hợp lý để chấm dứt hợp đồng hoặc bằng cách trao cho bên nhận quyền quyền được sửa chữa vi phạm hợp đồng [17, tr. 182-183]. Tại Mỹ, có 14 bang yêu cầu lý do chính đáng cho việc chấm dứt hợp đồng, 8 bang cho phép sửa chữa sai phạm là lý do chấm dứt hợp đồng. Pháp luật Australia, Malaysia cũng yêu cầu thông báo trước khi chấm dứt hợp đồng và cho phép khắc phục vi phạm hợp đồng là lý do yêu cầu chấm dứt [2]. Như vậy, các quy định pháp luật Việt Nam về chấm dứt hợp đồng NQTM trước thời hạn đã tương đồng với pháp luật các nước trên thế giới.
Mặt khác, theo quy định tại Khoản 4 Điều 289 Luật Thương mại, sự ràng buộc giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền vẫn tiếp tục ngay cả sau khi hợp đồng đã chấm dứt. Theo đó, bên nhận quyền phải giữ bí mật về bí quyết kinh doanh đã được nhượng quyền sau khi hợp đồng nhượng quyền thương mại kết thúc hoặc chấm dứt. Khi tham gia vào hợp đồng nhượng quyền thương mại, bên nhượng quyền phải chuyển giao cho bên nhận quyền công nghệ, bí quyết kinh doanh, là điều kiện tiên quyết để làm nên thành công cho bên nhượng quyền. Khi hợp đồng NQTM kết thúc, công việc kinh doanh của bên nhượng quyền có thể gặp rủi ro nếu có một bên không có lợi ích liên quan (bên nhận quyền cũ) biết được bí quyết kinh doanh của mình. Do đó, đây là quy định cần thiết để bảo vệ lợi ích chính đáng cho bên nhượng quyền, đem lại sự an tâm cho bên nhượng quyền khi tham gia vào hoạt động NQTM.
b. Hạn chế
(i) Quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM chỉ mang tính chất khung, chưa cụ thể, chưa lường trước và giải quyết được mối quan hệ giữa NQTM và cạnh tranh
Nếu như pháp luật các nước đã có những bước đi sớm với những quy định triển khai cụ thể, chi tiết các quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng NQTM, thì pháp luật Việt Nam mới chỉ dừng lại ở những quy định mang tính chất khung, định hướng cho các bên. Việc xác định cụ thể và thực hiện các quyền và nghĩa vụ này như thế nào là tùy thuộc vào sự thoả thuận của các bên trong hợp đồng. Trên thực tế, cách hiểu về việc thực hiện như thế nào cho đúng nghĩa vụ của các bên rất dễ dẫn đến bất đồng và làm nảy sinh tranh chấp, hoặc cũng có thể dẫn đến việc không đảm bảo được quyền và lợi ích chính đáng của các bên.
Hợp đồng NQTM, ngoài những nội dung cơ bản của một hợp đồng dân sự hay thương mại (như: quyền và nghĩa vụ của các bên, thời hạn hợp đồng, ...), thường có các nội dung sau: quy định về các khoản thanh toán hợp đồng NQTM; nội dung quyền thương mại được chuyển nhượng; địa điểm kinh doanh; đào tạo; duy trì tính thống nhất của hệ thống NQTM; bảo hiểm; bồi thường; nghĩa vụ nộp thuế; quyền sử dụng nhãn hiệu, tên thương mại và bí mật thương mại; cạnh tranh; trọng tài; chấm dứt hợp đồng; ... Để thể hiện các nội dung nêu trên, các bên ký kết hợp đồng NQTM có thể soạn thảo các điều khoản, vô tình hoặc cố ý, tạo ra quan hệ thương mại độc quyền, hoặc cạnh tranh không lành mạnh, từ đó có thể vi phạm luật cạnh tranh [3]. Có thể kể đến một số dạng thỏa thuận có thể dẫn đến bóp méo cạnh tranh sau:
Thứ nhất, điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM. Theo pháp luật về sở hữu trí tuệ, Điều 144 Khoản 2. c. Luật Sở hữu trí tuệ (2005) không cấm việc các bên trong hợp đồng ký kết điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM. Tuy nhiên, điều khoản này có thể bị coi là một trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh theo quy định tại Khoản 5 Điều 8 Luật Cạnh tranh (2004). Đó là: “Thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ …”. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận này sẽ bị cấm, nếu “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”. Như vậy, nếu các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan dưới 30%, thì thoả thuận về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, mặc dù có thể bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh, nhưng vẫn được phép thực hiện.
Theo kinh nghiệm của pháp luật Hoa Kỳ, điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, trong những trường hợp cụ thể, có thể bị coi là “thoả thuận ràng buộc”, do đó vi phạm luật chống độc quyền, dẫn tới hậu quả là hợp đồng NQTM trở nên vô hiệu. Tuy nhiên, pháp luật EU lại cho thấy một kinh nghiệm khác. Điều khoản về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, được thể hiện bằng những quy định đa dạng tại từng hợp đồng cụ thể, mặc dù có thể vi phạm luật cạnh tranh, nhưng lại có thể được đánh giá là cực kỳ cần thiết để thực hiện quyền kiểm soát hoạt động kinh doanh trong hệ thống NQTM, mà nếu bên nhượng quyền không thực hiện được quyền kiểm soát này thì mô hình kinh doanh không còn là “NQTM”. Điều đó có nghĩa là: nếu một số thoả thuận về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM thực sự là thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, thì pháp luật EU đã miễn trừ cho các thoả thuận này khỏi phạm vi cấm của luật cạnh tranh.
Theo Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận về duy trì tính đặc trưng và uy tín của hệ thống NQTM, nếu bị coi là “thoả thuận áp đặt cho doanh nghiệp khác điều kiện ký kết hợp đồng mua, bán hàng hoá, dịch vụ” và “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”, cũng sẽ được miễn trừ có thời hạn nếu đáp ứng điều kiện quy định trong Điều 10 này.
Thứ hai, điều khoản về phân chia thị trường. Theo quy định của hợp đồng NQTM, mỗi một bên nhận quyền đều phải tuân thủ sự phân chia thị trường theo quyết định của bên nhượng quyền. Điều khoản về phân chia thị trường trong hợp đồng NQTM thường có hai dạng: Điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh; và điều khoản về phân chia khách hàng. Các dạng điều khoản này chắc chắn rơi vào phạm vi điều chỉnh của luật cạnh tranh.
- Điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh (phân chia lãnh thổ) thể hiện ở “điều khoản về địa điểm bán hàng” (“location clause”). Điều khoản này được thể hiện dưới một số dạng như sau: cấm bên nhận quyền bán hàng ngoài phạm vi của mình; cấm bên nhận quyền mở cửa hiệu thứ hai, trong thời hạn hợp đồng và/hoặc sau khi hết hạn hợp đồng, dưới các hình thức như: cửa hiệu nhượng quyền, đại lý, chi nhánh, văn phòng, hợp danh, liên doanh, ...;cấm bên nhận quyền mở một cửa hiệu có đặc điểm giống hệt hoặc tương tự, trong một khu vực mà anh ta có thể cạnh tranh với một thành viên của hệ thống NQTM, trong thời hạn hợp đồng còn giá trị và trong một thời hạn hợp lý sau khi hết hạn hợp đồng; quy định theo đó bên nhận quyền có nghĩa vụ không chuyển giao cửa hiệu của mình cho bên khác, nếu không có sự chấp thuận từ trước của bên nhượng quyền (quy định này nhằm ngăn cản các đối thủ cạnh tranh hưởng lợi một cách gián tiếp từ việc cung cấp bí quyết và sự hỗ trợ của bên nhượng quyền); bên nhận quyền chỉ được khai thác hệ thống NQTM tại một cơ sở duy nhất; bên nhận quyền có nghĩa vụ không cạnh tranh với bên nhượng quyền và các bên nhận quyền khác trong hệ thống NQTM, không dịch chuyển hàng hoá được cung cấp từ điểm bán hàng này sang điểm bán hàng khác; quy định theo đó: quyền thương mại, mà bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền, là độc quyền trong một phạm vi bán kính nào đó từ ranh giới của các địa điểm bán hàng. Về tổng thể, điều khoản về phân chia khu vực kinh doanh nhằm hạn chế bên nhận quyền cạnh tranh với bên nhượng quyền hoặc với các bên nhận quyền khác.
- Điều khoản về phân chia khách hàng được thể hiện dưới một số dạng sau: quy định về nghĩa vụ cơ bản của bên nhượng quyền đối với bên nhận quyền, theo đó đảm bảo việc không tranh giành khách hàng với bên nhận quyền; cấm bên nhận quyền quảng cáo ngoài phạm vi của mình; bên nhận quyền có nghĩa vụ chỉ bán hàng cho người sử dụng cuối cùng hoặc các bên nhận quyền khác; cấm bên nhận quyền bán lại hàng không mang nhãn hiệu của bên nhượng quyền. Khó có thể chấp nhận được quy định này dưới góc độ tự do cạnh tranh. Quy định này vi phạm luật cạnh tranh ở các điểm sau: thứ nhất, vi phạm quyền kinh doanh độc lập của bên nhận quyền trong việc quyết định bán hàng cho ai; thứ hai, hạn chế nguồn cung của bên thứ ba.
Theo quy định tại Khoản 2 Điều 8 Luật Cạnh tranh (2004), các thoả thuận về phân chia thị trường nêu trên, bao gồm phân chia khu vực kinh doanh và phân chia khách hàng, có thể bị coi là “thoả thuận phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hoá, cung ứng dịch vụ” - một trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận hạn chế cạnh tranh này sẽ bị cấm, nếu “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”. Như vậy, trong trường hợp các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan dưới 30%, thì mặc dù thoả thuận phân chia thị trường bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh, nó vẫn được phép thực hiện. Mặt khác, theo Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận bị cấm nêu trên có thể được miễn trừ, nếu đáp ứng điều kiện quy định tại điều này.
Bên cạnh đó, nếu các bên có thoả thuận theo đó quyền thương mại, mà bên nhượng quyền trao cho bên nhận quyền, là độc quyền trong một khu vực kinh doanh, thì điều này sẽ cản trở bên thứ ba ký kết hợp đồng NQTM để kinh doanh tại khu vực nêu trên. Đây chính là “thoả thuận ngăn cản, kìm hãm, không cho doanh nghiệp khác tham gia thị trường …” - một thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm, theo quy định tại Khoản 6 Điều 8 và Khoản 1 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004). Thoả thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm này không thuộc diện được miễn trừ theo quy định tại Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004). Thoả thuận này bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh nghiêm trọng (“hard-core restriction”) theo quy định của pháp luật cạnh tranh EU.
Thứ ba, điều khoản về “đề xuất” giá bán cho các thành viên của hệ thống NQTM. Thường thấy trong hợp đồng NQTM quy định về ấn định giá bán cho các thành viên của hệ thống NQTM. Khoản 1 Điều 8 Luật Cạnh tranh (2004) quy định “thoả thuận ấn định giá hàng hoá, dịch vụ một cách trực tiếp hoặc gián tiếp” là một trong các thoả thuận hạn chế cạnh tranh. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 9 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận hạn chế cạnh tranh này sẽ bị cấm, nếu “các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan từ 30% trở lên”. Tuy nhiên, theo Khoản 1 Điều 10 Luật Cạnh tranh (2004), thoả thuận bị cấm nêu trên có thể được miễn trừ, nếu đáp ứng điều kiện quy định tại điều này. Như vậy, trong trường hợp các bên tham gia thoả thuận có thị phần kết hợp trên thị trường liên quan dưới 30%, thì mặc dù thoả thuận ấn định giá bán bị coi là thoả thuận hạn chế cạnh tranh, nó vẫn có thể được phép thực hiện.
Những điều khoản độc quyền trong hợp đồng NQTM, về nguyên tắc, có thể được Luật Cạnh tranh hỗ trợ điều chỉnh. Tuy nhiên, do Luật Cạnh tranh là một văn bản điều chỉnh tổng thể, nên không thể bao quát được hết tất cả các lĩnh vực của đời sống kinh tế. Luật Cạnh tranh không thể điều chỉnh được tất cả các hành vi trong hoạt động NQTM có liên quan đến cạnh tranh.
(iv) Các quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ không phù hợp khi áp dụng cho “hợp đồng nhượng quyền phát triển khu vực” và “hợp đồng nhượng quyền thương mại hai cấp”.
Theo logic, những quy định về quyền và nghĩa vụ của các bên sẽ được áp dụng cho cả hợp đồng NQTM thông thường (tức là hợp đồng NQTM một cấp trực tiếp giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền) lẫn hợp đồng phát triển khu vực, hợp đồng NQTM sơ cấp và thứ cấp. Tuy nhiên, những quyền và nghĩa vụ đó sẽ hợp lý trong trường hợp của hợp đồng NQTM một cấp thông thường. Còn với tính chất phức tạp của các hợp đồng còn lại, thì khi áp dụng những quy định này, có lẽ không phù hợp và không thể hiện được bản chất của chúng. Có thể tham khảo Bộ quy tắc ứng xử của Liên đoàn NQTM châu Âu (European Franchise Federation - EFF) khi giải quyết vấn đề này. Trong Bộ quy tắc ứng xử đã chỉ rõ: những quy định về quyền và nghĩa vụ trong bộ quy tắc này chỉ áp dụng trong quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền trực tiếp của nó, mà không áp dụng trong quan hệ giữa bên nhượng quyền và bên nhận quyền sơ cấp.
(v) Các quy định về chấm dứt hợp đồng trước thời hạn chưa bao quát được hết các trường hợp có thể xảy ra
Điều 16 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP quy định: nếu bên nhận quyền bị giải thể hoặc phá sản, thì hợp đồng NQTM sẽ được chấm dứt trước thời hạn. Tuy nhiên, trường hợp bên nhượng quyền bị giải thể, phá sản, hợp đồng sẽ được xử lý như thế nào thì pháp luật chưa đề cập tới. Nếu công việc kinh doanh của bên nhận quyền vẫn tốt đẹp, liệu bên nhận quyền có phải ngừng khai thác quyền thương mại được chuyển giao hay không, và sự ràng buộc giữa hai bên sẽ như thế nào?
2.2.2. Quy định về việc cung cấp thông tin về hệ thống nhượng quyền thương mại
a. Ưu điểm
Quy định của pháp luật Việt Nam về việc cung cấp thông tin về hệ thống NQTM, về cơ bản là tương đồng với pháp luật các nước, đáp ứng các chuẩn mực quốc tế (Luật mẫu về thông tin NQTM năm 2002 của UNIDROIT).
Theo quy định tại Điều 8 Nghị định số 35/2006/NĐ-CP, ít nhất 15 ngày làm việc trước khi ký kết hợp đồng, bên nhượng quyền có trách nhiệm cung cấp bản sao hợp đồng NQTM mẫu và bản giới thiệu về NQTM của mình cho bên dự kiến nhận quyền, nếu các bên không có thoả thuận khác. Đây là thời gian phù hợp để bên dự kiến nhận quyền có thể xem xét và cân nhắc về việc có tham gia vào hệ thống nhượng quyền hay không. Việc quy định thời hạn 15 ngày trước khi ký hợp đồng là khá tương đồng với pháp luật nhiều nước trên thế giới (thời hạn này được quy định ở Trung Quốc là 20 ngày trước khi ký hợp đồng [21]; theo pháp luật Mỹ thì bên nhượng quyền phải cung cấp bản công khai thông tin 14 ngày trước khi ký hợp đồng hoặc trước khi bên nhận quyền trả phí cho bên nhượng quyền [22]).
Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên nhượng quyền còn được đặt ra sau khi hợp đồng đã được ký kết, trong suốt quá trình kinh doanh, nếu như bên nhượng quyền có những thay đổi quan trọng trong hệ thống NQTM mà có thể làm ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh theo phương thức NQTM của bên nhận quyền.
Nội dung bản giới thiệu về NQTM rất quan trọng đối với bên dự kiến nhận quyền trong việc đi đến quyết định có tham gia vào hệ thống NQTM
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Những vấn đề pháp lý về Nhượng quyền thương mại.doc