Đề tài Một số vấn đề chung về thị trường chứng khoán ở Việt Nam

Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng trái phiếu có hệ thống chính trị ổn định. Sau nhiều năm đổi mới Việt Nam đã thu được những thành quả hết sức phấn khởi. Thu nhập và mức sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt.

Nền kinh tế nước ta đang phát triển với tốc độ cao: bình quan hơn 8 - 9 % trong nhiều năm qua, theo dự báo mới nhất của ADB thì khả năng tăng trưởng kinh tế trong 2 năm tới của nước trái phiếu cũng sẽ cao nhất trong khối ASEAN. Đây là tiền đề quan trọng để nảy sinh ra nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đủ điều kiện để phát hành chứng khoán.

 

doc32 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1582 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề chung về thị trường chứng khoán ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
một trái phiếu có bảo đảm. có một số loại trái phiếu bảo đảm chủ yếu là: Trái phiếu có tài sản cầm cố: một trái phiếu có tài sản cầm cố là việc công ty phát hành thế chấp bất động sản để đảm bảo khả năng thanh toán nợ. Trái phiếu có tài sản thế chấp: công ty phát hành đưa ra các chứng khoán để chuyển nhượng mà công ty sở hữu của người khác để bảo đảm cho việc phát hành trái phiếu. Loại trái phiếu này bao gồm: Trái phiếu không bảo đảm nghĩa là: một công ty có khả năng nhận tín dụng cao có thể phát hành trái phiếu chỉ trên uy tín của mình. Những trái phiếu này được gọi là giấy nhận nợ và công ty không phải thế chấp tài sản làm đảm bảo cho nó. Và các chứng khoán nhận nợ do ngân hàng phát hành nghĩa là: Các ngân hàng có thể tham gia vào thị trường với các công cụ ngắn hạn như: Chứng khoán tiền gửi (cung cấp cho ngân hàng các nguồn vốn để thực hiện cho vay ngắn hạn), phiếu chấp nhận thanh toán của ngân hàng (được phát hành để tài trợ cho buôn bán quốc tế). Trái phiếu chính phủ: Để tài trợ cho chi tiêu ngân sách, các chính phủ có thể phát hành trái phiếu thông qua kho bạc nhà nước. Trái phiếu chính phủ có thể là ngắn hạn, trung và dài hạn. Kì phiếu kho bạc ngắn hạn: Phổ biến nhất là các loại 3 tháng và 6 tháng, các kỳ phiếu ngắn hạn là những công cụ chiết khấu và thường không có mức lãi suất cố định. Các kì phiếu ngắn hạn thường được mua bằng một số tiền và người mua sẽ nhận được một số tiền lớn hơn (bằng mệnh giá) khi đến hạn. khoản chênh lệch giữa hai số tiền trên gọi là khoản chiết khấu, lãi suất thu được chính là lãi suất chiết khấu. Trái phiếu kho bạc trung và dài hạn: Các trái phiếu kho bạc trung và dài hạn là các công cụ có kỳ hạn dài hơn kỳ phiếu kho bạc. Trái phiếu trung hạn được phát hành với thời gian đáo hạn từ một năm đến 10 năm. trái phiếu dài hạn được phát hành từ 10 đến 30 năm. Các trái phiếu trung và dài hạn có mức lãi suất cố định và được trả lãi trên cơ sở nửa năm. những công cụ này được tính toán trên cơ sở 1 năm 365 ngày ( mà không phải là 360 ngày như đối với các kì phiếu ngắn hạn và các công cụ khác) Trái phiếu địa phương: Kì phiếu địa phương ngắn hạn: các chính quyền địa phương phát hành những công cụ ngắn hạn để ứng trước nhu cầu về vốn. Những công cụ này được gọi là kì phiếu, thường có kì hạn 6 tháng hoặc ít hơn. các kì phiếu được phát hành trên cơ sở dự tính trước các khoản thuế gọi là kì phiếu ứng trước thuế. Các loại phát hành dựa trên dự tính thu nhập tương lai gọi là kì phiếu ứng trước thu nhập. Các kì phiếu ứng trước đợt phát hành trái phiếu mới gọi là kì phiếu ứng trước cho phát hành trái phiếu. Trái phiếu địa phương trung và dài hạn thường có một số đặc điểm sau: Trái phiếu trách nhiệm chung: được bảo đảm bằng năng lực thu thuế của chính quyền địa phương. Trái phiếu bảo đảm bằng thuế cụ thể: được bảo đảm bằng một loại thuế nhất định của địa phương. Trái phiếu thu nhập: được bảo đảm bằng thu nhập từ dự án xây dựng bằng tiền bán trái phiếu. 2. Cấu trúc cơ bản của thị trường chứng khoán Thị trường chứng khoán là nơi diễn ra các giao dịch, mua bán những sản phẩm tài chính (cổ phiếu, trái phiếu, các khoản vay ngân hàng có kì hạn trên 1 năm). còn nói theo ngôn ngữ bình dân thì thị trường chứng khoán là cái chợ mua bán các phương tiện đầu tư tài chính nhằm mục đích lợi nhuận. Thị trường chứng khoán có hai bộ phận: a.Thị trường sơ cấp (primary market) Các chứng khoán lần đầu tiên được bán ra thị trường được gọi là chứng khoán mới phát hành. Thị trường mua bán chứng khoán mới phát hành được gọi là thị trường sơ cấp hay còn gọi là thị trường phát hành. b.thị trường thứ cấp (secondary market) Là thị trường mà các chứng khoán đựoc mua bán lại sau khi các chứng khoán được bán ở thị trường sơ cấp. Trên thị trường thứ cấp, lợi nhuận thu được từ việc bán chứng khoán thuộc về nhà đầu tư và những người buôn bán vhứ không thuộc về công ty phát hành chứng khoán. Thị trường thứ cấp bao gồm thị trường tập trung (sở giao dịch chứng khoán) và thị trường tập trung (OTC) Sở giao dịch chứng khoán (tại sàn hoặc không có sàn) Sở giao dịch chứng khoán đại diện cho thị trường giao dịch theo phương thức đấu giá trong đó những người mua và những người bán cạnh tranh giao dịch với nhau trên cơ sở đó hình thành giá cả cạnh tranh. Hình thức sở hữu: Lịch sử phát triển SDGCK các nước đã và đang trải qua một số hình thức sở hữu như sau: Trước hết nó là một tổ chức do các thành viên (là công ty chứng khoán) sở hữu. Thời kì đầu, SGDCK được tổ chức dưới hình thức các câu lạc bộ mini dần dần phát triển thành các tổ chức phi lợi nhuận do các thành viên sở hữu. Tuy nhiên, hội đồng quản trị của SGDCK, bên cạnh những thành viên do công ty thành viên cử ra vẫn có một số thành viên do chính phủ đề cử. Là thành một công ty cổ phần, do các công ty thành viên, các ngân hàng và cả các tổ chức không phải là thành viên sở hữu. Là một tổ chức do chính phủ sở hữu: Có một vài nước trong những giai đoạn lịch sử nhất định, SDGCK do chính phủ sở hữu (như trường hợp của Hàn Quốc). Trong các hình thức trên, hình thức sở hữu thành viên là phổ biến nhất. Hình thức này cho phép SGDCK có quyền tự quản ở mức độ nhất định, tính hiệu quả và sự nhanh nhạy trong vấn đề quản lý tốt hơn các hình thức khác. Các nhà đầu tư nước ngoài cũng yên tâm hơn so với hình thức do chính phủ sở hữu. Tuy nhiên trong những hoàn cảnh lịch sử nhất định, việc chính phủ đứng ra sở hữu và quản lý SDG sẽ cho phép ngăn ngừa sự lộn xộn, không công bằng khi hình thức sở hữu thành viên chưa đựoc bảo vệ bằng hệ thống pháp lý đầy đủ, rõ ràng. Số lượng sở giao dịch chứng khoán: Tuỳ theo hoàn cảnh lịch sử cụ thể của mỗi nước, số lượng các thị trường tập trung có khác nhau: Bảng dưới đây sẽ minh hoạ số lượng thị trường của một số nước: Nước Số lượng Sở GDCK Kì hạn OTC Mỹ 4 1 1 Anh 1 1 AIM Đức 8 1 0 Nhật 8 1 Hàn Quốc 1 1 (1996) 1(9187) Hồng Kông 1 1 Thái Lan 1 1 (1995) Philipin 1 1 1 Inđônêxia 3 1 Malay 2 1 1 Xinggapo 1 1 Ba Lan 1 Trung Quốc 2 1 (1991) úc 1 2 Việc tồn tại nhiều SDGCK có ưu điểm là tạo ra sự cạnh tranh, đồng thời cho phép các địa phương có thể tham gia vào thị trường chứng khoán. Tuy nhiên với sự phát triển của hệ thống vi tính và thông tin hiện nay, việc tồn tại nhiều SDGCK đã trở nên không cần thiết, tạo ra sự chia cắt thị trường, chênh lệch về giá cả và lãng phí về cơ sở vật chất và kĩ thuật. Chính vì vậy, xu hướng chúng trái ta hiện nay là hợp nhất các SDGCK vào một thị trường thống nhất trong cả nước. Với sự phát triển của hệ thống vi tính, xu hướng chung của các nước là hợp nhất các SDGCK vào một thị trường thống nhất, với một sàn giao dịch có nối mạng với nhau. Thực tế cho thấy việc tồn tại nhiều sở giao dịch chứng khoán sẽ dẫn đén việc cạnh tranh, chia cắt thị trường, chênh lệch về giá cả và lãng phí về cơ sở vật chất kĩ thuật. Thị trường phi tập trung (OTC) Tại hầu hết các nước, bên cạnh thị trường giao dịch tập trung dành cho việc giao dịch chứng khoán của những công ty lớn đã qua nhiều năm thử thách của thị trường, còn có thị trường phi tập trung (OTC) dành cho việc giao dịch chứng khoán của những công ty vừa và nhỏ. Thị trường OTC đại diện cho một thị trường thương lượng, nơi mà một người bán thương lượng với một người mua. Các hoạt động thường được diễn ra ngoài SDGCK và thường được sử dụng cho các chứng khoán của các công ty vừa và nhỏ không đủ tiêu chuần niêm yết. Thông thường thị trường giao dịch tập trung được thành lập trước, sau đó rất nhiều năm thị trường OTC mới được khởi động, vì việc thành lập thị trường OTC đòi hỏi nhiều vấn đề kinh phí, trang thiết bị kỹ thuật và vấn đề giám sát. Các công ty trên thị trường OTC được gọi chung là các nhà “môi giới - giao dịch” bởi họ có thể mua, bán chứng khoán với tư cách là người môi giới hoặc với tư cách chính chủ. Với tư cách người tạo thị trường, công ty có thể bán cho khách hàng chứng khoán dự trũ của họ hoặc mua chứng khoán từ khách hàng cho tài khoản của riêng họ. Với tư cách là người môi giới, công ty có thể mua bán chứng khoán với một nhà tạo thị trường khác. Dù hoạt động với tư cách nào đi nữa, nhà môi giới giao dịch cũng phải nói rõ cho khách hàng biết họ đang thực hiện lệnh của khách hàng với tư cách gì. Khi hoạt động với tư cách người môi giới hay đại diện, công ty phải công bố mức hoa hồng mà họ đòi hỏi. Khi giao dịch cho mình, một nhà môi giới – giao dịch cố gằng thu lợi nhuận bằng thao tác nâng giá (mark up) hay giảm giá (mark down). Mark up là khoản chênh lệch giữa mức giá mà công ty trả để mua một chứng khoán và mức giá mà công ty đòi ở khách hangf mua chứng khoán đó. Ngược lại, nếu khách hàng là người bán của công ty và mức giá mà nó thực tế trả cho khách hàng. 3. Những ưu, nhược điểm của thị trường chứng khoán a.Ưu điểm Tất cả các nước trên thế giới đều ưu tiên vào việc tăng cường sức mạnh cho nền kinh tế qua việc thúc đẩy vai trò quan trọng của thị trường chứng khoán trong quá trình này, và cũng không có nền kinh tế thị trường nào phát triển thịnh vượng mà không có vai trò của thị trường chứng khoán. Thị trường chứng khoán cũng cho phép hoạt động đầu tư trực tiếp dài hạn qua việc thị trường chứng khoán có thể thoả mãn các nhu cầu đối ngược nhau của các nhà đầu tư bằng việc tạo khả năng thanh khoản coa. Hơn nữa sự tồn tại của thị trường chứng khoán là yếu tố quyết định thu hút vốn đầu tư nước ngoài vì các nhà đầu tư nước ngoài thường cân nhắc liệu thị trường chứng khoán nước đó hoạt động tốt hay không như một yếu tố quan trọng để đưa ra quyết định đầu tư. Thị trường chứng khoán cũng tạo điều kiện cho việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước bằng việc tạo ra cho chính phủ và các nhà đầu tư mức giá chuẩn của các cổ phiếu được bán ra cho công chúng. Thị trường chứng khoán hỗ trợ định giá cổ phần trong chương trình cổ phần hoá. Thị trường chứng khoán chính là tốc độ của dòng thông tin, là lĩnh vực mà tất cả các loại thông tin được tập hợp và phân tích, đánh giá và giá cổ phiếu phản ánh trung thực các thông tin đó. Thị trường chứng khoán là một phần quan trọng không thể thiếu được và có phần quan trọng của thị trường tài chính nó có thẻe làm tăng tốc độ sự phát triển của nghành tài chính đất nước. Thị trường chứng khoán là nguồn thu hút ngoại tệ qua việc bán chứng khoán cho các nhà đầu tư nước ngoài hay đầu tư gián tiếp của người nước ngoài có thể ở bất cứ số ngoại tệ nào mà họ có hay họ muốn bỏ ra để mua cổ phần không nhất thiết phải đòi hỏi một mức vốn nhất định như đầu tư trực tiếp vào một dự án. Thị trường chứng khoán điều tiết việc phát hành cổ phiếu. Vai trò điều tiết của thị trường chứng khoán còn có thể hướng các đơn vị đầu tư vào các nghành hay lĩnh vực khuyến khích bằng cách phát hành cổ phiếu của những đơn vị đã được đánh giá tương đối chính xác. Thị trường chứng khoán tạo thói quen về đầu tư: sự phát triển của thị trường chứng khoán có sức hấp dẫn và tạo thói quen cho mọi người tham gia vào hoạt động của thị trường. b.Nhược điểm: Yếu tố đầu cơ dễ gây ảnh hưởng dây chuyền làm cho cổ phiếu có thể tăng giá tạo ra sự khan hiếm hay thừa làm cho giá cổ phiếu có thể lên xuóng đột ngột khi có sự câu kết – mua bán nội gián: dùng thông rin nội bộ trong một đơn vị để mua bán cổ phiếu của đơn vị đó nhằm thu lợi bất chính gây ảnh hưởng đến giá trị của cổ phiếu vi phạm nguyên tắc công bằng. Mua bán cổ phiếu ngầm không qua thị trường chứng khoán có thể gây áp lực cho các nhà đầu tư khác đưa đến việc khống chế hay thay thế lãnh đạo đơn vị. Phao tin hoặc thông tin sai về một đơn vị kinh tế khác làm giá cổ phiếu thay đổi đột ngột nhằm mua bán hưởng lợi bất hợp pháp. Một số người nói tằng thị trường chứng khoán như các sòng bạc. ý nghĩ này được xuất phát có lẽ căn cứ vào mặt trái của thị trường chứng khoán. kho hệ thống pháp lý và hệ thống giám sát không có hiệu quảm hệ thống kinh doanh kém và yếu sẽ là môi trường cho việc đầu cơ, mua bán nội gián,... Tuy nhiên, có thể nói thị trường chứng khoán mang lại nhiều ưu điểm hơn nhược điểm. II.Một số vấn đề chung về thị trường chứng khoán ở Việt Nam 1.Những thuận lợi cơ bản và thách thức trên con đường xây dựng và phát triển thị trường chứng khoán ở nước ta a.Những tiền đề và thuận lợi cơ bản. Thuận lợi cơ bản đầu tiên là chúng trái phiếu có hệ thống chính trị ổn định. Sau nhiều năm đổi mới Việt Nam đã thu được những thành quả hết sức phấn khởi. Thu nhập và mức sống của mọi tầng lớp dân cư được cải thiện rõ rệt. Nền kinh tế nước ta đang phát triển với tốc độ cao: bình quan hơn 8 - 9 % trong nhiều năm qua, theo dự báo mới nhất của ADB thì khả năng tăng trưởng kinh tế trong 2 năm tới của nước trái phiếu cũng sẽ cao nhất trong khối ASEAN. Đây là tiền đề quan trọng để nảy sinh ra nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đủ điều kiện để phát hành chứng khoán. Chính sách đa dạng hoá các hình thức sở hữu và nhiều thành phần kinh tế của Đảng và nhà nước đang giải phóng mọi năng lực sản xuất, kinh doanh, huy động mọi nguồn vốn cho phát triển sản xuất và thị trường vốn theo đó mà phát triển và là tiền đề cơ bản cho thị trường chứng khoán. Đảng và chính phủ có quyết tâm rất cao trong việc cổ phần hoá các doanh nghiệp nhà nước và thực hiện chính sách cổ phần hoá nói chung. Đây là việc làm vừa hợp ý Đảng vừa hợp lòng dân và là điều kiện hết sức quan trọng thúc đẩy thị trường chứng khoán phát triển. Tuy nhiên sự phát triển của thị trường chứng khoán cũng là yếu tố quan trọng đẩy nhanh quá trình cổ phần hoá. Hệ thống thông tin cũng đang phát triển khá tốt. Chiến lược tăng tốc của ngành bưu điện đang thu được những kết quả khá lạc quan và là điều kiện hỗ trợ rất tốt để phát triển thị trường chứng khoán. Chế độ kế toán doanh nghiệp mới sửa đổi, ban hành thực hiện gần gũi hơn với chuẩn mực quốc tế. Hệ thống tin học của Việt Nam cũng phát triển rất nhanh, theo nhiều chuyên gia thì hệ thống này đang nằm trong tầm tay có đầy đủ khả năng để xâm nhập vào các thị trường chứng khoán và đốt cháy giai đoạn, bỏ qua giao dịch thủ công, tiến thẳng lên điện tử hoá. Một thuận lợi hết sức quan trọng không thể không kể đến là nước ta là nước mới phát triển sau nên có thể tận hưởng các kinh nghiệm quí báu của các nước đi trước. Sự giúp đỡ của quốc tế cũng rất nhiệt tình và có hiệu quả. Nước ta là nước mới phát triển, tài nguyên chưa được thăm dò và khai thác đầy đủ. Đây là yếu tố quan trọng cuốn hút vốn đầu tư nước ngoài mà lâu nay ta mới chú trọng khai thác theo hướng trực tiếp. Đây cũng là yếu tố thuận lợi cho sự phát triển của thị trường chứng khoán, nhất là việc mở rộng ra thị trường quốc tế. Nhờ chính sách kinh tế mở cửa, hội nhập với bên ngoài, kinh tế đối ngoại đang thu được những thành quả rất đáng phấn khởi và là yếu tố cực kỳ quan trọng cho sự phát triển của thị trường chứng khoán. b.Những khó khăn và thách thức: Đã nói đến thị trường thì phải nói đến hàng hoá của thị trường đó. Như trái phiếu đề cập ở phần trên, hàng hoá của thị trường chứng khoán Việt Nam hiện nay đang rất nghèo nàn về cả số lượng và chủng loại, chứng khoán thương có danh, tính thanh khoản kém. Việc phát triển nó gặp rất nhiều khó khăn. Công tác cổ phần hoá doanh nghiệp Nhà nước, tuy nhà nước có quyết tâm cao, nhưng thực tiễn lại bị ách tắc do nhận thức chưa đầy đủ về nó. Một cản trở khác rất quan trọng nữa là: mặc dầu việc cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước vừa hợp ý Đảng, vừa hợp lòng dân song lại không vừa lòng ban lãnh đạo hiện tại và một bộ phận người lao động kém hiệu quả của doanh nghiệp. Họ sợ mất quyền, mất vị trí. Bên cạnh đó, cơ chế cổ phần hoá chưa đầy đủ và đồng bộ. Quy trình, định giá tài sản, chính sách ưu đãi cho xí nghiệp cổ phần hoá, chế độ với người lao động...chưa thoả đáng như vấn đề cấp không cổ phần cho người lao động. Chúng ta cũng chưa có danh mục cụ thể cho ngưòi lao động và các công ty cổ phần, chỉ chú trọng cổ phần hoá các doanh nghiệp làm ăn thua lỗ. Thông tin công khai của doanh nghiệp cổ phần cũng hạn chế, kém tin cậy, chưa chiếm được lòng tin của người đầu tư. Số công ty hội đủ các điều kiện để phát hành chứng khoán chưa nhiều: làm ăn hiệu quả, ổn định, chấp nhận phát hành chứng khoán rộng rãi ra công chúng, chấp nhận công khai hoá thông tin. Gần đây có một số ngân hàng thương mại có phát hành trái phiếu nhưng vẫn không chịu công khai hoá thông tin. ít có các dự án lãi suất cao, hấp dẫn người đầu tư. Khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp, công ty Việt Nam trên trường quốc tế chưa cao. Thu nhập của đại bộ phận nhân dân lao động thấp nước trái phiếu vẫn là một trong những nước có GDP bình quân đầu người thấp nhất thế giới, bởi vậy kho cổ phần hoá doanh nghiệp ít có người có tiền để mua cổ phiếu. Tập quán thanh toán bằng tiền mặt vẫn phổ biến trong dân chúng và ngay đối với các doanh nghiệp. Hệ thống thanh toán qua các ngân hàng còn yếu. Đội ngũ cán bộ quản lý điều hành thị trường chứng khoán còn non trẻ, thiếu cả về số lượng, kinh nghiệm và kiến thức nghiệp vụ, chưa được huấn luyện nhiều. Hệ thống pháp luật của trái phiếu còn thiếu, chưa đồng bộ và đang trong quá trìnhphát triển và hoàn thiện dần. Chưa có khung pháp chế và biện pháp hữu hiệu để bảo vệ người đầu tư. Hệ thống kiểm toán, kế toán thống kê tuy đã có những tiến bộ nhưng vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu của thị trường chứng khoán cả về số lượng lẫn chất lượng, chưa xây dựng được thành hệ thống có chuẩn mực quốc tế. Chất lượng thông tin chưa cao, độ tin cậy thấp. 2.Một số đánh giá chung về thị trường chứng khoán Việt Nam sau 1 năm hoạt động. a.Hàng hoá Cổ phiếu niêm yết: Trong phiên giao dịch đầu tiên vào ngày 28/7/200, có 2 cổ phiếu được giao dịch đó là cổ phiếu của Công ty cổ phần cơ điện lạnh (REE) và cổ phiếu của CtyCP Cáp và Vật liệu viễn thông (SACOM). Tiếp đóm phiên giao dịch thứ 4 đưa thêm 2 cổ phiếu của CtyCP Giấy Hải Phòng (HAPACO) và CtyCP Kho vận giao nhận ngoại thương thành phố Hồ Chí Minh (TRANSIMEX) vào giao dịch. Phiên giao dịch thứ 60, cổ phiếu của CtyCP Chế biến hàng xuất khẩu LongAn (LAFFOOCO) được đưa vào giao dịch. Ngày 16/7/2001, có thêm cổ phiếu của CtyCP Khách sạn Sài Gòn (SGH) được đưa vào giao dịch. Tính đến ngày 28/7/2001, trên thị trường có 6 công ty niêm yết với tổng số cổ phiếu đăng kí niêm yết là 33,8 tỷ đồng (tính theo giá trị sổ sách). Trái phiếu: Trong 1 năm qua, TTGDCK Tp.HCM đã tổ chức 8 phiên đấu thầu trái phiếu chính phủ qua TTGDCK, trong đó đã tổ chức thành công 3 đợt đấu thầu, tổng giá trị trái phiếu chính phủ trúng thầu là 805 tỷ đồng, thời hạn 5 năm lãi suất từ 6,5%/năm đêa 7,3%/năm. có 5 đợt đấu thầu không thành công vì lãi suất đặt thầu cao hơn lãi suất chỉ đạo của Bộ Tài Chính. Bên cạnh đó, Kho bạc Nhà nước đã phát hành 2 đợt trái phiếu chính phủ theo hình thức bảo lãnh phát hành với tổng giá trị 700 tỷ đồng. Như vậy, đến nay đã có trên 1.500 tỷ đồng trái phiếu chính phủ được niêm yết trên thị trường chứng khoán. UBCKNN đã phối hợp với NHTW chỉ đạo hướng dẫn việc đưa trái phiếu trung và dài hạn của các ngân hàng thương mại lên niêm yết và giao dịch trên TTGDCK Tp.HCM. Đến nay có 2 loại trái phiếu của Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam được niêm yết tại TTGDCK Tp.HCM với tổng giá trị niêm yết là 157,7 tỷ đồng, chiếm 14,75% tổng giá trị phát hành. Hoạt động của các công ty niêm yết: Hoạt động của các công ty kể từ khi niêm yết cổ phiếu trên TTGDCK Tp.HCM cho thấy có những chuyển biến tốt. Do áp lực của cạnh tranh, công khai thông tin, nên các công ty này đã có những tiến bộ trong việc điều hành quản lý mở rộng sản xuất, kinh doanh. Các công ty niêm yết đều có tốc độ tăng trưởng cao về doanh thu và lợi nhuận. Doanh thu năm 2000 tăng 25 – 36%, lợi nhuận tăng 16%-20%. Các công ty niêm yết bắt đàu làm quen với TTCK và bước đầu đã thực hiện được những quy định công bố công khai thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh, kinh tế tài chính của mình ra công chúng. b.Giao dịch, đăng kí, thanh toán bù trừ và lưu ký chứng khoán khối lượng giao dịch Tính đến ngày 28/72001, TTGDCK Tp.HCM đã thực hiện được 151 phiên giao dịch, với 14,2 triệu cổ phiếu và trên 500 nghìn trái phiếu, đạt tổng giá trị giao dịch 727 tỷ đồng, trong đó giao dịch cổ phiếu chiếm 90%. Thị trường cổ phiếu hoạt động sôi động thu hút được đông đảo nhà đầu tư quan tâm. Nếu như giá trị giao dịch thời kì đầu là 1 tỷ đồng/phiên, thì trong thời gian gần đây, giá trị giao dịch dao động trong khoảng 8 đến 15 tỷ đồng/phiên. Đến nay có 5 loại trái phiếu chính phủ và 2 loại trái phiếu công ty được niêm yết và giao dịch trên thị trường. Tổng khối lượng trái phiếu được giao dịch trong 1 năm tính đến ngày 28/7/2001 là 593 nghìn trái phiếu, trong đó giao dịch thoả thuận chiếm 87,5% tổng giao dịch, giá trị giao dịch trên thị trường là 68,7 tỷ đồng. Giá cả và giá thị trường: Thị trường có xu hướng tăng giá liên tục do mất cân đối lớn về cung – cầu. Giá các loại cổ phiếu tăng từ 4 đến 7 lần so với giá của phiên giao dịch đầu tiên. Trong đó cao nhất là cổ phiếu TRANSIMEX tăng 7 lần và thấp nhất là cổ phiếu SACOM tăng 4 lần. Chỉ số Vn-Index lên đỉnh cao 571 điểm. Giá trị thị trường của 6 loại cổ phiếu đạt 2.031 tỷ đồng (tính theo giá đóng cửa ngày 27/7/2001). Giá của các trái phiếu ít có sự biến động. Hệ thống giao dịch: Hệ thống giao dịch được nước bạn cung cấp cùng với hệ thống lưu ký, đăng kí, thanh toán bù trừ do công ty tin học trong nước xây dựng. Đây là hệ thống bán tự động với mạng cục bộ, có năng lực giải quyết được 300.000 lệnh 1 phiên. Hệ thống này đáp ứng được hoạt động giao dịch hiện tại, khả năng mở rộng tính năng giao dịch và giám sát thị trường với quy mô nhỏ. Với hệ thống giao dịch hiện tại, khả năng mở rộng tính năng giao dịch và giám sát thị trường có nhiều hạn chế, cần phải được nâng cấp trong thời gian tới. Lưu ký, thanh toán, bù trừ: TTGDCK Tp.HCM thực hiện đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ cho 9 loại chứng khoán. Đến nay, số cổ phiếu được lưu ký chiếm 43,8% cổ phiếu lưu hành của các công ty niêm yết. Còn một bộ phận chứng khoán chưa lưu ký tập trung nên chưa kiểm soát được việc mua bán, và sang tên chuyển nhượng cho những cổ phiếu này, gây khó khăn cho việc xác định và quản lý cổ đông lớn. Việc thanh toán bù trừ các giao dịch chứng khoán giữa TTGDCK Tp.HCM và công ty chứng khoán qua Ngân hàng chỉ định thanh toán thực hiện thông suốt theo chế độ quy định. Công bố thông tin: Việc công bố công khai thông tin của các bên tham gia thị trường như công ty niêm yết, công ty chứng khoán đã bước đầu đi vào nề nếp, song vẫn còn có những trường hợp chưa tuân thủ đúng các quy định của quy chế công bố thông tin. Một số công ty niêm yết còn nộp báo cáo không đúng hạn. Trong thời gian vừa qua UBCKNN và TTGDCK Tp.HCM đã thực hiện việc kiểm tra, chấn chỉnh và hoàn thiện quy trình và chất lượng công bố thông tin của các bên tham gia thị trường. Bên cạnh đó, UBCKNN và TTGDCK đã phối hợp với các phương tiện thông tin đại chúng tuyên truyền về TTCK cho người đầu tư, giúp họ nâng cao trình độ hiểu biết về lĩnh vực mới mẻ này. c.Điều hành của TTGDCK Tp.HCM Các hoạt động của TTGDCK Tp.HCM nhằm vào việc điều hành hoạt động giao dịch, hoạt động lưu ký, đăng ký và thanh toán bù trừ và giám sát hoạt động công bố thông tin. Qua 151 phiên giao dịch, hệ thống giao dịch đã hoạt động trôi chảy, không có các sự cố xảy ra. TTGDCK Tp.HCM đã đảm bảo đăng ký, lưu ký và thanh toán bù trừ cho các cổ đông, theo dõi tình hình mua bán và tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của thành viên Hội đồng quản trị và cổ đông lớn. Trung tâm đã thường xuyên nhắc nhở, đôn đốc tổ chức niêm yết nộp đầy đủ các báo cáo định kỳ, báo cáo không định kỳ, yêu cầu tổ chức niêm yết lập qui trình công bố thông tin nội bộ nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động công bố thông tin, chấn chỉnh các thiếu sót trong hoạt động công bố thông tin của các tổ chức niêm yết. Đối với các thành viên, TTGDCK Tp.HCM đã giám sát tình hình thay đổi nhân sự, nhân viên kinh doanh thiếu giấy phép hành nghề, tình hình mở chi nhánh, đại lý nhận lệnh. Tuy nhiên, trong công tác điều hành của TTGDCK Tp.HCM một số mặt còn lúng túng nhất là khâu giám sát thị trường và hoạt động công bố thông tin. d.Công ty chứng khoán và các định chế trung gian tài chính Công ty chứng khoán Cho đến nay đã có 8 công ty chứng khoán được UBCKNN cấp giấy phép hoạt động đó là:CtyCP chứng khoán Bảo Việt, CtyTNHH chứng khoán Ngân hàng Đầu tư và Phát triển Việt Nam, CtyCP chứng khoán Sài Gòn, CtyCP chứng khoán Đệ Nhất, CtyTNHH chứng khoán Thăng Long, Cty TNHH chứng khoán ABC, CtyTNHH chứng khoán Ngân hàng Công thương và CtyTNHH chứng khoán Ngân hàng Nông nghiệp. Khi mới đi vào hoạt động các công ty còn gặp nhiều bỡ ngỡ, nhưng cho đến nay các công ty này đều đã triển khai được cácc loại tình hình hoạt động, như môi giới, tự doanh, bảo lãnh phát hành, tư vấn đầu tư. tổng số tài khoản công ty chứng khoán mở cho khách hàng hiện nay là 5.847, tăng 3,23 lần so với 1.813 tài khoản mở trong tháng 8/2000. Doanh thu môi giới của các công ty chứng khoán cũng tăng lên đáng kể, doanh thu môi diới của các công ty chứng khoán cũng tăng lên đáng kể, doanh thu môi giới trung bình khoảng 100 triệu đồng/tháng. Đến hết quý II năm 2001, hoạt động kinh doanh của hầu hết các công ty chứng khoán có lãi, tuy mức độ của từng công ty có khác nhau. Một số công ty chứng khoán sẽ mở thêm chi nhánh và

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc247.DOC
Tài liệu liên quan