Đề tài Một số vấn đề cơ bản về giải quyết và phòng ngừa tranh chấp thương mại ở Việt Nam

Lời nói đầu: .3

 

Chương1: Một số vấn đề cơ bản về tranh chấp thương mại: .5

 

Chương 2: Thực trạng về tranh chấp thương mại ở Việt Nam: .8

 

2.1. Thực trạng về tranh chấp thương mại ở Việt Nam: .8

 

2.2. Các biện pháp giải quyết tranh chấp: 12

 

2.3. Thiệt hại về tài chính: .35

 

2.4. Thiệt hại khác: .37

 

Chương 3: Một số giải pháp hạn chế TCTM ở Việt Nam: 39

 

3.1. Thẩm định tư cách, năng lực đối tác: .39

 

3.2. Soạn thảo và ký kết hợp đồng:. 40

 

3.3. Giám sát đối tác trong quá trình thực hiện hợp đồng: .48

 

Lời kết : .50

 

 

doc50 trang | Chia sẻ: Huong.duong | Lượt xem: 1109 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề cơ bản về giải quyết và phòng ngừa tranh chấp thương mại ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ợp đồng kinh tế - Tranh chấp phát sinh giữa các thành viên của công ty với nhau, giữa các tviên của công ty với cty liên quan đến việc thành lập, hoạt độngvà giải thể cty - Tranh chấp liên quan đến việc mua bán cổ phiếu, trái phiếu - Tranh chấp phát sinh trong hoạt động thương mại theo sự thỏa thuận của các bên: Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều HVTM của cá nhân,tổ chức kinh doanh bao gồm:mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại, ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn, kỹ thuật, li xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường biển, hàng không, đường sắt hoặc đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật Thỏa thuận trọng tài - K2Đ3: Trung tâm trọng tài kinh tế chỉ nhận đơn yêu cầu giải quyết các tranh chấp kinh tế được quy định tại điều 1, nếu trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp, nếu các bên đã có thỏa thuận bằng văn bản về việc đưa vụ tranh chấp ra giải quyết tại chính trung tẩm trọng tài kinh tế đó - K2Đ2: Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên nhằm cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể pháp sinh hoặc đã pháp sinh trong hoạt động thương mại Điều kiện trọng tài viên - Phải tốt nghiệp đại học luật - Phải có ít nhất 8 năm liên tục làm công tác kinh tế và pháp luật (đồng thời cả hai:kinh tế và pháp luật) - Có bằng đại học - Có thời gian công tác liên tục từ 5 năm trở lên. Hình thức của trọng tài - Chỉ quy định trọng tài thể chế hay trọng tài thương trực - Trọng tài thể chế hay trọng tài thường trực - Trọng tài vụ việc hay trọng tài do các bên thành lập.(Đ19) Quyền chọn trọng tài viên - Chỉ được chọn trọng tài viên nằm trong danh sách trọng tài của Trung tâm trọng tài mà họ đã lựa chọn - Nếu là tổ chức, cá nhân tranh chấp Việt nam thì họ không được chọn trọng tài viên là người nước ngoài - K4Đ26: Trọng tài viên do các bên lực chọn hoặc do tòa án chỉ định có thể nằm trong danh sách hoặc ngoài danh sách của các trung tâm trọng tài tại Việt Nam - Được lựa chọn cả trọng tài nước ngoài (Chỉ AD trong Trọng tài ad-hoc) Mối quan hệ giữa Tòa án với Trọng tài - Giữa trọng tài và tòa án có mỗi quan hệ độc lập và không có sự hỗ trợ, giám sát giữa tòa án với trọng tài: không có việc lựa chọn trọng tài viên, không có việc AD các biện pháp khẩn cấp tạm thời, không có quyền xem xét lại tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài và không có quyền hủy quyết định trọng tài - Việc lưu trữ hồ sơ do Trung tâm trọng tài thực hiện - Giữa trọng tài và tòa án có mối quan hệ chặt chẽ hơn: 1. Tòa án giúp các bên lựa chọn trọng tài viên trong trường hợp cần thiết (K1 và k3 Đ26) 2. Tòa án ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho trọng tài trong việc giải quyết tranh chấp – Đ33 3. Tòa án giúp trọng tài lưu trữ hồ sơ 4. Tòa án có quyền xem xét lại tính hợp pháp của thỏa thuận trọng tài – Đ30 5. Tòa án cso quyền hủy quyết định trọng tài theo yêu cầu của bên không đồng ý trong trường hợp vi phạm thủ tục tố tụng trọng tài- Đ50 và Đ54 Tính cưỡng chế của các phán quyết trọng tài - Trọng tài là tổ chức phi chính phủ nên các phán quyết của trọng tài không đương nhiên có tính quyền lực nhà nước, không đương nhiên được bảo đảm thực hiện bằng các biện pháp cưỡng chế của nhà nước. Do vậy việc thi hành quyết định trọng tài hoàn toàn phụ thuộc vào sự tự nguyện của bên thua kiện - Quyết định trọng tài là chung thẩm và có hiệu lực thi hành – Đ6 - Bên được thi hành có quyền yêu cầu cơ quan thi hành án cấp tỉnh nơi có trụ sở, nơi cư trú hoặc nơi có tài sản của bên phải thi hành, thi hành quyết định trọng tài. Thành lập các trung tâm trọng tài - Yêu cầu quan trọng nhất là có đủ 5 trọng tài viên ở bất cứ địa phương nào - Chủ tịch UBND tỉnh có quyền quyết định thành lập trung tâm trọng tài sau khi được sự đồng ý của Bộ trường Bộ tư pháp (thực chất Chủ tịch UBND tỉnh quyết định là chính) - Chỉ những địa phương do chính phủ quy định mới được thành lập trung tâm trọng tài - Bộ trưởng Bộ tư pháp có quyền quyết định thành lập các trung tâm trọng tài theo sự giới thiệu của Hội Luật gia Tố tụng trọng tài và những lưu ý của các bên khi muốn lựa chọn phương thức giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài Đối với mỗi bên, trước khi định hướng việc dự phòng giải quyết tranh chấp hoặc quyết định lựa chọn giải quyết tranh chấp HĐTM theo tố tụng trọng tài thì phải hiểu rõ và xác định đúng thẩm quyền giải quyết tranh chấp của các Trung tâm trọng tài theo quy định của Pháp lệnh trọng tài năm 2003, bởi vì khi xem xét rõ ràng điều kiện này thì việc yêu cầu mới được các Trung tâm trọng tài chấp nhận và trong trường hợp có Quyết định trọng tài nó sẽ không bị tuyên huỷ và giúp việc giải quyết theo tố tụng Trọng tài sẽ không làm mất thời gian, chi phí của thân chủ. Theo quy định của Pháp lệnh trọng tài thương mại năm 2003 thì vụ tranh chấp giữa các bên sẽ được giải quyết theo tố tụng Trọng tài khi có đủ các yếu tố sau: a. Phải phát sinh từ hoạt động thương mại: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 2 Pháp lệnh TTTM thì: Hoạt động thương mại là việc thực hiện một hay nhiều hành vi thương mại của tổ chức, cá nhân kinh doanh, bao gồm: mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, phân phối, đại diện, đại lý thương mại; ký gửi, thuê, cho thuê, thuê mua, xây dựng, tư vấn, kỹ thuật, li-xăng, đầu tư, tài chính, ngân hàng, bảo hiểm, thăm dò, khai thác, vận chuyển hàng hóa, hành khách bằng đường hàng không, đường biển, đường sắt, đường bộ và các hành vi thương mại khác theo quy định của pháp luật. Theo quy định tại Khoản 1 Điều 3 của Luật Thương mại năm 2005 thì: Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hóa, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác. Trong đó: Hàng hóa bao gồm: i) Tất cả các loại động sản kể cả động sản hình thành trong tương lai và ii)Những vật gắn liền với đất đai. Mua bán hàng hóa là hoạt động thương mại theo đó bên bán có nghĩa vụ giao hàng, chuyển quyền sở hữu hàng hóa cho bên mua và nhận thanh toán; bên mua có nghĩa vụ thanh toán cho bên bán, nhận hàng và quyền sở hữu hàng hóa theo thỏa thuận. Cung ứng dịch vụ là hoạt động thương mại, theo đó một bên (sau đây gọi là bên cung ứng) có nghĩa vụ thực hiện dịch vụ cho một bên khác và nhận thanh toán; bên sử dụng dịch vụ (sau đây gọi là khách hàng) có nghĩa vụ thanh toán cho bên cung ứng dịch vụ và sử dụng dịch vụ theo thỏa thuận. Xúc tiến thương mại: là hoạt động thúc đẩy, tìm kiếm cơ hội mua bán hàng hóa và cung ứng dịch vụ, bao gồm các hoạt động: khuyến mại, quảng cáo thương mại,, trưng bày, giới thiệu hàng hóa, dịch vụ và hội trợ, triển lãm thương mại; Các hoạt động trung gian thương mại là hoạt động của thương nhân để thực hiện các giao dịch thương mại cho một hoặc một số thương nhân xác định, bao gồm: đại diện cho thương nhân, môi giới thương mại, ủy thác mua bán hàng hóa và đại lý thương mại b. Phải có thỏa thuận trọng tài và thỏa thuận trọng tài này không bị vô hiệu Khoản 3 Điều 3 Pháp lệnh TTTM: Về nguyên tắc tranh chấp được giải quyết bằng trọng tài khi trước hoặc sau khi xảy ra tranh chấp các bên có thỏa thuận trọng tài. Khoản 2 Điều 2 Pháp lệnh TTTM: Thỏa thuận trọng tài là thỏa thuận giữa các bên cam kết giải quyết bằng trọng tài các vụ tranh chấp có thể phát sinh hoặc đã phát sinh trong họat động thương mại. Thoả thuận trọng tài có thể được được lập thành văn bản riêng hoặc chỉ là một điều khoản trong hợp đồng. Tuy nhiên thoả thuận trọng tài luôn luôn độc lập với hợp đồng, việc gia hạn, sửa đổi, bổ sung, sự vô hiệu của Hợp đồng không làm ảnh hưởng đến hiệu lực của điều khoản Trọng tài. Điều kiện để một thỏa thuận trọng tài có hiệu lực: Thỏa thuận trọng tài không bị vô hiệu thì sẽ có hiệu lực đối với các bên. Các trường hợp thỏa thuận trọng tài vô hiệu bao gồm: i) Tranh chấp phát sinh không thuộc lĩnh vực thương mại ii) Người ký kết thỏa thuận trọng tài không có quyền ký theo quy định của pháp luật. Tuy nhiên trong trường hợp này khi phát sinh tranh chấp mà một bên có yêu cầu tòa án giải quyết, thì tòa án yêu cầu người có thẩm quyền ký kết thỏa thuận trọng tài cho biết ý kiến bằng văn bản họ có chấp nhận thỏa thuận trọng tài do người có thẩm quyền ký kết trước đó hay không. Nếu họ chấp nhận thì trường hợp này thỏa thuận trọng tài không vô hiệu và vụ tranh chấp sẽ thuộc thẩm quyền của Hội đồng trọng tài theo thủ tục chung iii) Một bên ký thỏa thuận trọng tài không có năng lực hành vi dân sự đầy đủ: để chứng minh điều này phải có giấy tờ, tài liệu chứng minh ngày, tháng, năm sinh hoặc kết luận của cơ quan có thẩm quyền hoặc quyết định của Tòa án tuyên bố người đó mất năng lực hành vi dân sự hoặc bị hạn chế năng lực hành vi dân sự iv) Thỏa thuận trọng tài không quy định hoặc quy định không rõ đối tượng tranh chấp, tổ chức trọng tài có thẩm quyền giải quyết vụ tranh chấp mà sau đó các bên không có bất kỳ thỏa thuận bổ sung nào. Ví dụ trong hợp đồng các bên có thỏa thuận về điều khoản tranh chấp: “Trong trường hợp có tranh chấp nếu không giải quyết được bằng thương lượng thì các bên có quyền yêu cầu trọng tài giải quyết theo quy định của pháp luật Việt Nam”. Trường hợp này thì thỏa thuận trọng tài này vô hiệu vì các bên không thỏa thuận rõ việc tranh chấp sẽ do hội đồng trọng tài do các bên thành lập, do trọng tài viên duy nhất hay do hội đồng trọng tài của mọt trung tâm trọng tài cụ thể nào của Việt Nam giải quyết, Nếu các bên đã có thỏa thuận bổ sung về vấn đề này thì thỏa thuận trọng tài này sẽ không vô hiệu. v) Hình thức của thỏa thuận trọng tài không phù hợp: Theo Đ9 Pháp lệnh TTTM thì “Thỏa thuận trọng tài phải được lập thành văn bản. Thỏa thuận trọng tài thông qua thư, điện báo, telex, fax, thư điện tử hoặc hình thức văn bản khác thể hiện rõ ý chí của các bên giải quyết vụ tranh chấp bằng trọng tài được coi là thỏa thuân trọng tài bằng văn bản” vi) Bên ký kết thỏa thuận trọng tài bị lừa dối, bị đe dọa và có yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu, thời hạn yêu cầu tuyên bố thỏa thuận trọng tài vô hiệu là sáu tháng kể từ ngày ký kết thỏa thuận trọng tài, nhưng phải trước ngày Hội đồng trọng tài mở phiên họp giải quyết vụ tranh chấp. vii) Khi được nguyên đơn cho biết bằng văn bản sẽ khời kiện yêu cầu tòa án giải quyết hoặc khi được tòa án thông báo về việc nguyên đơn đã khởi kiện yêu cầu tòa án giải quyết tranh chấp mà trong thời hạn 7 ngày làm việc kể từ ngày nhận được văn bản của Nguyên đơn hoặc thông báo của tòa án bị đơn không phản đối (được coi là các bên có thỏa thuận mới lựa chọn tòa án giải quyết vụ tranh chấp thay cho thỏa thuận trọng tài) hoặc bị đơn có phản đối nhưng không xuất trình được tài liệu, chứng cứ để chứng minh là trước đó các bên đã có thỏa thuận trọng tài (trường hợp này được coi là không có thỏa thuận trọng tài) viii) Có quyết định của Tòa án hủy quyết định trọng tài và sau đó các bên không có thỏa thuận khác_NQ05/2003/NQ-HĐTP ngày 31/07/2003 của Hội đồng thẩm phán Tòa án nhân dân tối cao hướng dẫn chi tiết thi hành một số điều của Pháp lệnh trọng tài thương mại c. Thứ ba: Chủ thể phải là tổ chức, cá nhân kinh doanh (thương nhân) Theo quy định tại khoản 1 điều 6 Luật thương mại 2005 thì: Thương nhân bao gồm tổ chức kinh tế được thành lập hợp pháp, cá nhân hoạt động thương mại một cách độc lập, thường xuyên và có đăng ký kinh doanh. Với sự khắc phục những điểm yếu của Trọng tài kinh tế phi Chính phủ thì việc giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài đã thể hiện nhiều ưu điểm sơ với việc giải quyết các tranh chấp theo thủ tục tố tụng tại Toà án như: Quyền lựa chọn các bên được bảo đảm: lựa chọn trọng tài viên, lựa chọn địa điểm trọng tài, lựa chọn luật áp dụng (tranh chấp có yếu tố nước ngoài), lựa chọn quy tắc tố tụng cho việc giải quyết tranh chấp; Việc giải quyết tại trọng tại đơn giản, nhanh chóng, quyết định của Trọng tài là chung thẩm và có tính cưỡng chế cao; một điểm rất quan trọng nữa là bảo đảm sự bí mật trong kinh doanh. So sánh lợi thế về chi phí giữa tố tụng trọng tài và tố tụng toà án Án phí và lệ phí toà án được quy định tại Nghị định số 70/1997/NĐ-CP ngày 12/06/1997 Về án phí và lệ phí Toà án, còn phí trọng tài sẽ được quy định theo biểu phí trọng tài của mỗi trung tâm, nhưng đa phần là sẽ thấp hơn so với án phí và lệ phí của toà án. Bảng so sánh dưới đây chỉ có tính chất tham khảo (Phí trọng tài được căn cứ theo biểu phí trọng tài của Trung tâm trọng tài quốc tế Việt Nam (VIAC) - Bên cạnh phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam Giá ngạch (1000đồng) Phí trọng tài (1000đồng) Án phí và lệ phí toà án (1000đồng) 10.000 80 + 0,3% số tiền vượt trên 10.000 500 10.000 - 100.000 80+ 0,3% số tiền vượt trên 10.000 (max: 350) 5% giá trị tranh chấp (max: 5.000) 100.000 - 200.000 80+ 0,3% số tiền vượt trên 10.000 (max: 650) 5.000 + 4% số vượt quá 100.000 (max: 9.000) 200.000 – 500.000 80+ 0,3% số tiền vượt trên 10.000 (max: 1.550) 9.000 + 3% số vượt quá 200.000 (max: 18.000) 500.000 – 1.000.000 80+ 0,3% số tiền vượt trên 10.000 (max: 3.550) 18.000 + 2% Số vượt quá 500.000 (max: 28.000) Trên 1.000.000 80+ 0,3% số tiền vượt trên 10.000 28.000 + 0,1% số vượt quá 1.000.000 Hoàn lại phí Phí trọng tài được hoàn lại trong các trường hợp sau: - Nếu đơn kiện, đơn kiện lại được rút hoặc các bên thương lượng/hoà giả thành trước khi Hội đồng trọng tài được thành lập sẽ được hoàn 75% số phí, tuy nhiên số phí còn lại không thấp hơn 5 triệu đồng. - Nếu sau khi HĐTT được thành lập thì phí chỉ được hoàn lại 50% - Nếu sau nhận được giấy triệu tập và trước ngày mở phiên họp GQ vụ tranh chấp thì sẽ đuợc hoàn lại 25% Các trường hợp khác không được hoàn lại phí trọng tài. Án phí toà án sẽ đuợc xử lý như sau: Người đã nộp tiền tạm ứng án phí sơ thẩm/phúc thẩm nếu rút đơn kiện trước khi mở phiên toà sẽ đuợc hoàn lại 50% số tiền tạm ứng án phí đã nộp. Như vậy dựa vào bảng so sánh trên chúng ta có thể thấy mức phí trọng tài luôn thấp hơn mức án phí và lệ phí của toà án. Trình tự và thủ tục tiến hành giải quyết tranh chấp HĐTM theo tố tụng trọng tài: a. Nguyên đơn nộp đơn khởi kiện Đơn kiện bao gồm ngày, tháng; tên và địa chỉ của các bên; tóm tắt nội dung vụ tranh chấp; căn cứ pháp lý để khởi kiện; trị giá của vụ tranh chấp và các yêu cầu khác của Nguyên đơn; tên trọng tài viên mà Nguyên đơn chọn. b. Chuẩn bị phiên họp giải quyết vụ tranh chấp của HĐTT: Kể từ khi Trung tâm trọng tài nhận đơn khởi kiện giải quyết vụ tranh chấp. Công việc phải thực hiện: - Chỉ định trọng tài viên. - Tham gia phiên hoà giải. - Yêu cầu thay đổi: Trọng tài viên, xem xét lại thoả thuận trọng tài nếu xét thấy không thuộc thẩm quyền giải quyết của toà án; yêu cầu áp dụng, thay đổi hoặc huỷ bỏ biện pháp khẩn cấp tạm thời (nếu các yêu cầu này có căn cứ). c. Tham dự phiên họp giải quyết tranh chấp: - Đưa ra yêu cầu hoãn phiên hợp hoặc tiếp tục phiên hợp nếu thấy cần thiết - Đưa ra ý kiến thương lượng hoặc chấp nhận ý kiến thương lượng của phía bên bị kiện. - Chuẩn bị các căn cứ pháp lý cho việc đưa ra yêu cầu và bảo vệ yêu cầu truớc hội đồng trọng tài. - Tranh luận và đưa ra các ý kiến và căn cứ phản đối ý kiến của phía bị đơn. d. Yêu cầu toà án huỷ quyết định trọng tài nếu quyết định trọng tài vi phạm thủ tục tố tụng hoặc yêu cầu thi hành quyết định trọng tài nếu quyết định này bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của mình. è Những thuận lợi khi giải quyết tranh chấp bằng Trọng tài thương mại: Trọng tài viên của Trung tâm trọng tài thương mại hầu hết là những chuyên gia đầu ngành trong các lĩnh vực (Hiện nay Trung tâm trọng tài Quốc tế Việt Nam - Bên cạnh Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam “VIAC” có 118 Trọng tài viên là các chuyên gia: Luật học, Tài chính - Ngân hàng, Bảo hiểm; Thương mại, Xuất nhập khẩu, Xây dựng, Vận tải, Sở hữu trí tuệ ), khi xem xét giải quyết tranh chấp ở bất kỳ lĩnh vực nào, Trọng tài thương mại đều có chuyên gia trong lĩnh vực đó nên sự nhìn nhận, xem xét, đánh giá sự việc của Trọng tài thương mại sẽ toàn diện hơn và chuyên sâu hơn so với thẩm phán của các tòa án. Các Trọng tài viên hầu hết là những người có uy tín rất cao, họ rất quý trọng và có ý thức giữ gìn uy tín đó nên họ rất thận trọng khi đưa ra những phán quyết bởi vì mỗi phán quyết hoặc có thể sẽ đưa uy tín của họ lên cao hơn hoặc có thể sẽ làm giảm uy tín của họ đi. Do vậy, khi đưa vụ kiện ra giải quyết tại Trung tâm Trọng tài thương mại thì cơ hội để có được một phán quyết công bằng sẽ cao hơn rất nhiều so với đưa vụ kiện ra giải quyết tại cơ quan tòa án. Trọng tài viên là những người am hiểu thông lệ thương mại quốc tế nên nếu vụ việc tranh chấp thương mại có phát sinh những vấn đề pháp luật chưa điều chỉnh tới thì họ vẫn có thể vận dụng thông lệ thương mại quốc tế để giải quyết vụ kiên. Đây là một ưu điểm nổi bật của giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài nhất là ở Việt Nam với điều kiện pháp luật chưa hoàn thiện và các thẩm phán rất máy móc trong việc áp dụng pháp luật. Một ưu điểm nữa là thời gian giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài ngắn hơn rất nhiều, thủ tục lại đơn giản gọn nhẹ. Mặc dù phương thức giải quyết tranh chấp thương mại bằng trọng tài có nhiều ưu điểm như vậy nhưng hầu hết các doanh nghiệp Việt nam ít biết tới điều này nên họ thường đưa vụ việc tranh chấp của mình ra cơ quan tòa án. Theo con số thống kê của VIAC thì hầu hết các vụ kiện do VIAC thụ lý giải quyết đều có yếu tố nước ngoài (một bên hoặc các bên đương sự là các thương nhân nước ngoài hoặc là doanh nghiệp có yếu tố nước ngoài). Giải quyết tranh chấp thương mại bằng tố tụng tòa án: Bên cạnh việc giải quyết tranh chấp theo tố tụng trọng tài thì phần lớn các tranh chấp thương mại ở nước ta hiện nay được giải quyết theo thủ tục tố tụng tại Toà án. Việc giải quyết tranh chấp thương mại bằng Toà án có nhiều lợi thế: - Thứ nhất: Toà án là cơ quan đại diện cho quyền lực của Nhà nước nên các quyết định, bản án của Toà án mang tính cưỡng chế thi hành đối với các bên. - Thứ hai: Với nguyên tắc hai cấp xét xử (sơ thẩm và phúc thẩm) thì những sai sót trong quá trình giải quyết tranh chấp có khả năng được phát hiện và khắc phục những sai sót này. Ngoài ra khi bản án/quyết định của Toà án đã có hiệu lực pháp luật vẫn có thể được xem xét lại theo một trình tự tố tụng đặc biệt nữa đó là Giám đốc thẩm/Tái thẩm. - Thứ ba: Việc áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời nhanh và bảo đảm tốt hơn quyền lợi cho bên bị vi phạm. Tuy nhiên việc giải quyết tranh chấp thương mại tại Toà án cũng có những hạn chế nhất định như: Thời gian giải quyết thường kéo dài, sự quan liêu của các công chức trong ngành tòa án cũng đe doạ tới tính công minh trong việc giải quyết tranh chấp, các thẩm phán nhiều khi còn hạn chế về nghiệp vụ do đối với nhiều vụ việc đòi hỏi phải có hiểu biết chuyên sâu về một lĩnh vực, ví dụ như: Tranh chấp về sở hữu trí tuệ liên quan đến sáng chế, giải pháp hữu ích, tranh chấp liên quan đến thương mại quốc tế Cách thức tiến hành: a. Chuẩn bị tài liệu, hồ sơ khởi kiện: Nói chung về tranh chấp thương mại thì hồ sơ, tài liệu của vụ tranh chấp có thể bao gồm các tài liệu liên quan đến vụ việc như: Thư chào hàng, đơn đặt hàng, chấp nhận chào hàng, hợp đồng đã ký, hoá đơn thanh toán, các loại tờ khai hải quan, xác nhận thanh toán, thư nhắc nợ, thư gia hạn trả nợ, các thoả thuận bổ sung, thoả thuận về cách thức giải quyết tranh chấp ban đầu. Việc chuẩn bị đầy đủ các tài liệu cần có của hồ sơ vụ tranh chấp trước khi khởi kiện ra toà án là hết sức quan trọng, việc này không chỉ giúp mỗi bên không mất thời gian khi nộp đơn khởi kiện và thời gian thu thập tài liệu làm chứng cứ cung cấp cho tòa án mà còn là cơ sở quan trọng quyết định việc thắng hay thua của các bên khi tranh tụng tài toà án. Trước khi tiến hành nộp đơn khởi kiện chúng ta phải nghiên cứu kỹ các quy định của pháp luật liên quan đến nội dung việc tranh chấp. Chuẩn bị các văn bản pháp luật liên quan và xác định các quy định áp dụng cho việc giải quyết tranh chấp. b. Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp của Toà án và điều kiện khởi kiện: Xác định thẩm quyền giải quyết tranh chấp theo vụ việc: Theo quy định tại điều 29 của Bộ luật tố tụng dân sự năm 2004 thì điều kiện để xác định một tranh chấp thuộc lĩnh vực kinh doanh, thương mại, bao gồm: Về lĩnh vực: Phải phát sinh trong hoạt động thương mại. Theo quy định tại khoản 1 điều 3 của Luật thương mại năm 2005 thì: “Hoạt động thương mại là hoạt động nhằm mục đích sinh lợi, bao gồm mua bán hàng hoá, cung ứng dịch vụ, đầu tư, xúc tiến thương mại và các hoạt động nhằm mục đích sinh lợi khác”. Về chủ thể: Phải là các tổ chức và cá nhân có đăng ký kinh doanh (trường hợp một trong các bên không có đăng ký kinh doanh nhưng đều có mục đích lợi nhuận cũng sẽ được coi là các tranh chấp thương mại). Về mục đích: Đều phải có mục đích lợi nhuận. Ngoài việc xác định thẩm quyền của toà án theo vụ việc thì để có thể nộp đơn khởi kiện đúng Toà án có thẩm quyền chúng ta cần phải xác định : Thẩm quyền của toà án theo lãnh thổ (điều 35 và điều 36 của Bộ luật tố tụng dân sự 2004) và thẩm quyền của cấp toà án giải quyết vụ việc (điều 29, 33 và 34 của Bộ luật tố tụng dân sự 2004). Chú ý: Trước khi khởi kiện chúng ta cũng phải xác định rõ tranh chấp còn thời hiệu khởi kiện của vụ án theo điều 159 của Bộ luật tố tụng dân sự. c. Nộp đơn khởi kiện: Đơn kiện thể hiện yêu cầu chính đáng của mỗi bên đối với vụ tranh chấp mà toà án tiến hành giải quyết. Tuy nhiên trong đa số các trường hợp (không có luật sư) khách hàng do mong muốn toà án giải quyết vụ án có lợi cho mình nên khi viết đơn chỉ chú trọng vào việc đưa ra các yêu cầu mà không chú ý đến các nội dung cần thiết khác, cũng như hình thức của đơn khởi kiện, do vậy càng không gây được sự chú ý của toà án và không tạo được những thuận lợi tiếp theo trong quá trình tố tụng. Vì vậy, khi làm đơn khởi kiện chúng ta cần chú ý những nội dung sau: Đơn khởi kiện phải thể hiện được những nội dung chủ yếu sau: - Ngày, tháng, năm viết đơn. - Toà án được yêu cầu giải quyết vụ tranh chấp. - Họ, tên và địa chỉ của nguyên đơn. - Họ, tên và địa chỉ của bị đơn; của người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan. - Nội dung của sự việc (tóm tắt nội dung của tranh chấp nếu có hoặc nội dung cần yêu cầu toà án giải quyết) kèm theo các phụ lục. - Tóm tắt quá trình vi phạm hợp đồng của bị đơn kèm theo các phụ lục. - Tóm tắt quá trình thương lượng của các bên cho đến thời điểm khởi kiện ra trước toà án kèm theo các phụ lục. - Các yêu cầu của nguyên đơn đề nghị Toà án xem xét giải quyết. d. Chuẩn bị các công việc liên quan đến giải quyết vụ tranh chấp trong giai đoạn chuẩn bị xét xử: Trong giai đoạn này các bên tranh chấp (tuỳ là nguyên đơn hay bị đơn) sẽ phải thực hiện một số công việc: - Thu thập và cung cấp chứng cứ cho toà án. - Tham gia các buổi hoà giả - Yêu cầu toà án áp dụng/ huỷ bỏ các biện pháp khẩn cấp tạm thời nếu có - Nghiên cứu, đánh giá giá trị và xác định những lý lẽ của bên kia để chuẩn bị cho phiên toà. e. Chuẩn bị các nội dung và tham dự phiên toà sơ thẩm: Trình bày các yêu cẩu của mình và căn cứ đưa ra yêu cầu đối với bị đơn. - Chuẩn bị các nội dung trả lời các câu hỏi của: Hội đồng xét xử, của bên bị đơn, của luật sư (nếu có). - Chuẩn bị các nội dung liên quan khi tranh luận: phải đưa ra yêu cầu và các căn cứ pháp lý bảo vệ yêu cầu củ mình.. Căn cứ đưa ra ở đây phải bao gồm cả căn cứ thực tế và dẫn chiếu cụ thể các quy định của pháp luật áp dụng cho truờng hợp đó thì mới có đủ khả năng thuyết phục Hội đồng xét xử. Còn đối với các căn cứ của bị đơn phải chuẩn bị các lập luận và căn cứ để phản biện cho chuẩn xác. f. Kháng cáo và tham gia phiên toà phúc thẩm. Theo quy định của pháp luật thì nếu xét thấy bản án/Quyết định sơ thẩm đuợc tuyên không đúng pháp luật, gây ảnh hưởng đến quyền và lợi ích hợp pháp của mình thì mỗi bên có quyền kháng cáo bản án/quyết định này. Do vậy có thể các bên sẽ là người kháng cáo hoặc phải tham tố tụng khi bên kia kháng cáo. Công việc giai đoạn này chuẩn bị và thực hiện như các công việc như giai đoạn sơ thẩm. Những nhược điểm của phương thức tố tụng toà án: Cũng phải thừa nhận rằng mặc dù đã có nhiều nỗ lực cải cách trong lĩnh vực tư pháp, công tác xét xử các tranh chấp kinh doanh thương mại của tòa án vẫn còn chưa thực sự hiệu quả. Có một số lý do làm cho doanh nghiệp không “mặn mà” với tòa án. - Thứ nhất, các công việc của tòa án vẫn còn “thủ công”, chưa ứng dụng nhiều công nghệ thông tin, nên còn nhiều chậm trễ. - Thứ hai, tư duy thẩm phán chưa thích nghi được với kinh tế thị trường, nên trong quá trình xét xử, các thẩm phán rát máy móc, thiên về bảo vệ lợi ích của Nhà nước hơn là tôn trọng quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp từ đó giải quyết tranh chấp theo hướng bảo vệ lợi ích của bên bị vi phạm. - Thứ ba, kinh nghiệm giải quyết các tranh chấp kinh doanh thương mại (nhất là về sở hữu trí tuệ, có yếu tố quốc tế) của đội ngũ thẩm phán còn rất hạn chế nên quyết định của tòa có vẻ không được các doanh nghiệp phục và tự nguyện thi hành. - Thứ tư, vai trò của luật sư trong các phiên tòa còn hạn chế do chưa lấy được sự tin tưởng từ thẩm phán và bản thân luật sư trong nước

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5631.doc
Tài liệu liên quan