A. ĐẶT VẤN ĐỀ 1
B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 2
I. Một số vấn đề lý luận về toàn cầu hoá và hội nhâp kinh tế quốc tế 2
1. Khái niệm về toàn cầu hóa, khu vực hoá và hội nhập kinh tế quốc tế 2
2. Các nhân tố thúc đẩy toàn cầu hoá kinh tế 3
2.1. Sự phát triển nhảy vọt của lực lượng sản xuất do phân công lao động ngày càng diễn ra sâu rộng trên phạm vi toàn thế giới. 3
2.2 Sự phát triển mạnh mẽ của kinh tế thị trường. 5
2.3. Sự gia tăng của các vấn đề toàn cầu trong bối cảnh thế giới kết thúc chiến tranh lạnh, bước vào thời kỳ hoà bình, hợp tác và phát triển 9
3. Tính tất yếu của hội nhập kinh tế Việt Nam 10
II. Thực trạng hội nhập kinh tế ở Việt nam 11
1. Quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Việt Nam 11
1.1. Thuận lợi trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 11
Nhiều thời cơ tiếp nhận và đổi mới công nghệ trang thiết bị 13
Mở của tạo điều kiện phát huy nội lực 13
1.2. Khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 14
2. Những thành tựu hạn chế cần khắc phục trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. 18
2.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập 18
2.2.1. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta và của các doanh nghiệp còn yếu hơn nhiều so với các nước khu vực. 21
2.2.2. Các thủ tục hành chính còn khá phức tạp 21
2.3.4. Khoảng cách về trình độ phát triển của nước ta so với các nước trong khu vực chậm phát triển được thu hẹp như mong muốn. 23
III. Chủ trương, nguyên tắc và các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập KTQT ở Việt Nam. 24
1. Các chủ trương và nguyên tắc chủ đạo hội nhập KTQT. 24
2. Nhiệm vụ và các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 25
2.1. Nhiệm vụ trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế 25
2.2 Các biện pháp cần thực hiện trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam 26
C. KẾT THÚC VẤN ĐỀ 32
Tài liệu tham khảo 33
34 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 2031 | Lượt tải: 3
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề lý luận về toàn cầu hoá và hội nhâp kinh tế quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ơ bản đầu tiên của Việt Nam trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế của Đảng và Nhà nước có quan điểm và đường lối đúng đắn và có sự năng động điều chỉnh về chủ trương, chính sách phát triển kinh tế phù hợp với điều kiện cụ thể của đất nước trong mỗi thời kỳ.
Vào giữa và cuối những năm 80 (thế kỷ XX) nền kinh tế Việt Nam phát triển chậm không ổn định. Trong bối cảnh cực kỳ khó khăn đó, đại hội lần thứ VI của đảng và các hội nghị ban chấp hành trung ương khoá VI đã nẵm bắt xu thế khách quan của thời đại, đề ra đường lối đổi mới toàn diện nền kinh tế đất nước, trong đó có những quan điểm cơ bản về mở rộng kinh tế đối ngoại theo phương châm: " đa phương hoá, đa dạng hoá". Tiếp theo đại hội VII, VIII và IX của Đảng ta tiếp tục khẳng định thực hiện chủ trương đó. Tính đến đầu năm 2003, Việt Nam đã có quan hệ ngoại giao với hơn 90 nước, quan hệ kinh tế - thương mại với hơn 60 nước, ký kết nhiều hiệp định thương mại Nền kinh tế ngoại giao đa phương hoá và đa dạng hoá Việt Nam phát triển vượt bậc cả về lượng và chất. Tích cực hội nhập ASEAN tham gia AFTA và ASEM phát triển ngày càng sâu rộng quan hệ trên nhiều phương diện với các nước Tây - Bắc Âu và EU, đã gửi đơn gia nhập tổ chức thương mại thế giới (WTO) từ tháng 12/1994, đảm nhiệm thành công nhiều trọng trách tại các thiết chế khu vực và thế giới. Đây là thành tựu quan trọng góp phần tạo ra thế và lực mới cho việc đẩy mạnh sự nghiệp công nghiệp hoá và hiện đại hoá đất nước.
1.1.2.Thuận lợi rất cơ bản thứ hai để Việt nam đẩy mạnh hội nhập kinh tế quốc tế là: những thành tựu to lớn của quá trình đổi mới môi trường hoà bình và ổn đình về nhiều mặt, tiềm năng lớn cả về tài nguyên thiên nhiên và nguồn lực con người, vị trí địa lý kinh tế quan trọng.
Việt nam là quốc gia có nguồn tài nguyên thiên nhiên phong phú nhưng chưa được khai thác hiệu quả. Với nguồn tài nguyên phong phú không chỉ tạo điều kiện cho việc phát triển các ngành công nghiệp khai thác chế biến mà còn là sức thu hút đối với khu các công ty nước ngoài. Trên cơ sở các nguồn tài nguyên thiên nhiên chúng ta có thể xác lập cơ cấu ngành kinh tế với những sản phẩm có tính cạnh tranh đáp ứng nhu cầu thị trường thế giới.
Về vị trí địa lý, nước ta là cửa ngõ đi ra ngoài Thái Bình Dương của một số quốc gia Đông Nam á, là điểm tiếp giáp với các tuyến đường giao thông quan trọng của thế giới với bờ biển rộng trải dài từ Bắc tới Nam với nhiều hải cảng, đặc biệt là cảng Cam Ranh có độ sâu thuận lợi cho phát triển giao thông hàng hải cũng như phát triển kinh tế hàng hoá. Ngoài một số khoáng sản như Bôsit có chữ lượng lớn 5 tỷ tấn đứng thứ ba trên thế giới , quặng đất hiếm có trữ lượng lớn đứng thứ 2 trên thế giới, sau Trung Quốc thì các loại khoáng sản ở Việt Nam tuy trữ lượng không lớn nhưng rất đa dạng và phong phú. Với nguồn tài nguyên hiện có chúng ta cần tập trung phát triển ngành vật liệu xây nghiệp: gốm, sứ, du lịch, kết hợp phát triển từ các sản phẩm công nghiệp để tạo ta sản phẩm xuất khẩu. Đồng thời chú ý phát triển các loại hình xí nghiệp vừa và nhỏ trên cơ sở liên doanh để tận dụng nguồn phóng sản phong phú, đa dạng phục vụ nhu cầu CNH, HĐH.
Đến nay, sau gần 17 năm đổi mới nền kinh tế Việt Nam đã đạt được những kết quả quan trọng để chủ động hội nhập kinh tê quốc tế. Thuận lợi này có tác dụng thúc đẩy quá trình đổi mới ở Việt Nam.
1.1.3. Những thời cơ mới để Việt Nam phát triển trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế đó là:
Mở rộng thị trường ra nước ngoài, tìm hiểu thị trường mới cho hàng hoá Việt Nam trên cơ sở các hiệp đinh thương mại song phương đã ký kết.
Việc mở rộng thị trường ra nước ngoài sẽ đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam. Nếu chúng ta thực hiện đầy đủ cam kết của AFTA vào năm 2006 thì các hàng công nghiệp chế biến mang thương hiệu Việt Nam có thể tiêu thụ ở tất cả các nước ASEAN - thị trường có số dân hơn nửa tỷ người và GDP trên 700 tỷ USD. Trong tương lai gần, khi gia nhập WTO thì Việt Nam sẽ được hưởng quyền ưu đãi tối huệ quốc (MFN) và hàng hoá của Việt Nam xuất khẩu 148 nước thành viên của các tổ chức này được thuận lợi hơn. Nhìn về tương lai xa hơn, nếu như nhìn vào năm 2020 hàng rào thuế quan các nước APEC được rỡ bỏ thì hàng hoá "Made in Vietnam" sẽ có một thị trường tiêu thụ rất rộng lớn. Thực tế cho thấy nếu trước khi hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực, thuế xuất của hàng hoá Việt Nam vào thị trường Mỹ ở mức từ 40% đến 50% thì sau khi hiệp định đó có hiệu lực thuế suất chỉ còn từ 3% đến 4%. Nhờ đó hàng thuỷ sản của Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ tăng từ 6% (năm 1998) lên 27.8% (năm 2000) và năm 2002 còn tăng cao hơn.
Có cơ hội thu hút vốn đầu tư nước ngoài
Theo số liệu của bộ kế hoạch và đầu tư, tính đến đầu năm 2003, Việt Nam đã nhận được các khoản cam kết ODA là hơn 20 tỷ USD, trong đó giải ngân được hơn 10 tỷ hơn USD đối với FDI có trên 3800 dự án với tổng số vốn đăng ký trên 24 tỷ USD, đã thực hiện khoảng 22 tỷ USD. Chính nhờ có nguồn vốn này, chúng ta xây dựng được nhiều công trình kết cấu hạ tầng quan trọng, hoạt động có hiệu quả, hình thành thành phần kinh tế thứ 6 - kinh tế có vốn đầu tư nước ngoài chiếm tỷ trọng 13% GDP và tốc độ tăng trưởng trên 20% năm.
Nhiều thời cơ tiếp nhận và đổi mới công nghệ trang thiết bị
Ngày nay tốc độ phổ cập trí thức mới kỹ thuật và công nghệ tiên tiến diễn ra rất nhanh tróng, đa dạng thông qua nhiều hình thức và kênh thông tin khác nhau, nhất là con đường nghiên cứu ứng dụng và tiếp nhận chuyển giao công nghệ mới của thế giới. Tuy nhiên độ tiếp nhận khác nhau tuỳ thuộc vào khả năng và điều kiện của từng nước. Những năm qua chúng ta đã có nhiều nỗ lực nên được xếp vào hàng các nước có tốc độ phát triển hạ tầng công nghệ thông tin nhanh nhất thế giới.
Mở của tạo điều kiện phát huy nội lực
Nguồn nhân lực của Việt Nam khá dồi dào về số lượng và có ưu thế nổi trội về chất lượng ở một số lĩnh vực công nghệ hiện đại nhu công nghệ thông tin, điện tử, công nghệ sinh học Nhưng nếu chúng ta đứng ngoài nền kinh tế thế giới thì sẽ gặp rất nhiều khó khăn trong việc khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực đó. Hội nhập kinh tế quôc tế sẽ giúp khai thông các mối quan hệ giao lưu nguồn nhân lực của Việt Nam với thế giới. Nhờ hội nhập có thể mở rộng hợp tác trao đổi chuyên gia để đưa đội ngũ cán bộ khoa học của Việt Nam ra làm việc ở nước ngoài xuất khẩu lao động và đẩy mạnh xử dụng lao động thông qua các hợp đồng gia công chế biến hàng xuất khẩu. Đồng thời có thể nhập khẩu các loại lao động kỹ thuật cao, các công nghệ mới, các bằng phát minh sáng chế mà Việt Nam chưa có. Hội nhập sẽ đưa đến cho Việt Nam cơ hội kết hợp ngoại lực, góp phần đẩy nhanh công nhiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và nâng cao tốc độ tăng trưởng kinh tế.
Có sự phân công lao động mới và chuyển dịch cơ cấu kinh tế diễn ra trên nhiều phương diện.
Sự phát triển của các ngành, lĩnh vực kinh tế mới như hoạt động thương mại, dịch vụ, công nghiệp bảo quản nông phẩm chế biến,sản xuất hàng thủ công mỹ nghệsẽ tạo ra nhiều việc làm mới do vậy sẽ giảm tỉ lệ thất nghiệp. Mặt khác để thích ứng với quá trình xã hội hoá lao động, chất lượng nguồn nhân lực sẽ được nâng cao, người lao động sẽ chuyển dần từ lao động giản đơn sang lao động phức tạp, từ lĩnh vực có năng suất thấp sang lĩnh vực có năng suất cao.
Tính năng động, sáng tạo trong tư duy và cách làm ăn kinh tế theo cơ chế mới được đẩy mạnh, nhu cầu học tập và tìm hiểu kinh nghiệp quản lý tiên tiến được coi trọng, góp phần quan trọng vào dân chủ hoá đời sống kinh tế tham gia vào nền kinh tế thế giới các doanh nghiệp Việt Nam sẽ có điều kiện tiếp cận các thị trường lớn một cách bình đẳng, sẽ có một vị thế tốt hơn để mở rộng quan hệ buôn bán với các nước. Mặt khác các doanh nghiệp Việt Nam cũng phải cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài ngay trên thị trường nội địa. Điều này đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải đổi mới cách thức tổ chức sản xuất, đổi mới công nghệ và trang thiết bị tiếp thu những phương pháp quản lý tiên tiến, từ bỏ lối làm việc hành chính quan liêu, cửa quyền, bảo thủ, trì trệ, không ngừng nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng hoá, doanh nghiệp và nền kinh tế Việt Nam.Hội nhập kinh tế quốc tế cùng mở ra cơ hội cho tất cả các thành phần kinh tế được quyền tham gia vào các hoạt động sản suất kinh doanh làm giàu cho mình và cho đất nước.
1.2. Khó khăn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế ở Việt Nam
1.2.1. Khó khăn, thách thức chủ quan lớn nhất mà Việt Nam cần nỗ lực vượt qua là thực trạng nền kinh tế có nhiều mặt lạc hậu so với khu vực và thế giới nhưng phải chấp tư cách là thành viên cạnh tranh bình đẳng với các nước khác.
Về mặt kinh tế, trình độ phát triển của ta so với quốc tế còn thấp, lạc hậu.Hiện nay 75% lao động làm việc trong lĩnh vực nông nghiệp.Cho đến năm 1999 nền kinh tế nước ta về thực chất vẫn là nền kinh tế nông nghiệp .Trong đó khu vực nông nghiệp chiếm 25.4% GDP,công nghiệp chiếm 34.5% và dịch vụ chiếm 40.4%.Trong khi đó ở các nước phát triển, tỷ trọng khu nông nghiệp giảm mạnh chỉ còn khoảng 3%GDP,công nghiệp cũng giảm chỉ còn 20% và khu vực dịch ì đặc biệt phát triển, nhất là lĩnh vực thông tin. Nhìn chung trong nền kinh tế của Việt Nam về công nghệ hiện nay vô cùng lạc hậu, so với thế giới chậm từ 50-100 năm. Hệ thống thiết bị ở hầu hết các doanh nghiệp lạc hậu so với mức trung bình hiện nay của thế giới từ 2-3 thế hệ, thậm chí có lĩnh vực 4-5 thế hệ. Chính vì vậy năng suất lao động của ta thấp, sản phẩm làm ra giá thành cao, không có sức cạmh tranh. Sự yếu kém của ta không chỉ ở chất lượng và giá cả mà còn ở các mặt hàng xuất khẩu không có tính cạnh tranh cao. Hiện nay chúng ta chủ yếu xuất nhập khẩu nnguyên nhiên liệu và sản phẩm sơ chế như dầu thô, gạo, cao su, chè , cà phêCác sản phẩm công nghiệp nhất là những sản phẩm có hàm lượng khoa học cao còn ít ,sức cạnh tranh yếu.
Chúng ta biết rằng chủ thể tham gia thực sự vào hội nhập là các doanh nghiệp. Trong khi đó các doanh nghiệp của Việt Nam còn nhỏ, yếu, yếu cả về khả năng quản lý kinh doanh lẫn khả năng, năng lực sản xuất. Các doanh nghiệp của chúng ta sau một thời gian dài hoạt động theo cơ chế kế hoạch hoá, chuyển sang phương thức kinh đoanh mới còn lúng túng, nhất là trong tham gia cạnh tranh quốc tế. Mặt khác tham gia hội nhập là phải tham gia vào các định chế kinh tế khu vực và toàn cầu. Các luật chơi chúng ta chưa thông thạo, thậm chí kiến thức kinh tế thị trường còn bất cập. Đây là một khó khăn cho việc hội nhập kinh tế Quốc tế ở Việt Nam.
1.2.2. Trình độ quản lý kinh tế của Việt Nam nhìn chung còn thấp, phải cố gắng rất lớn mơí đáp ứng yêu cầu của tiến trình hội nhập kinh tế Quốc tế.
Muốn hội nhập tốt, một trong những điều quan trọng là có bộ máy điều hành quản lý có hiệu quả.Tình trạng tham nhũng trong xã hội hiện nay đang trở thành quốc nạn thực sự, đang là vấn đề nan giải nguy cơ lớn không những đối với thúc đẩy hội nhập nói giêng mà còn đối với sự phát triển kinh tế nói chung. Nếu không cải cách bộ máy điều hành càng hội nhập chúng ta càng thua thiệt. Riêng trong lĩnh vực nhập khẩu công nghệ, theo bộ khoa học công nghệ môi trường, qua kiểm tra thử ở 42 cơ sở công nghệ cho thấy số công nghệ nhập về có tới 60-70% tân trang lại.
Theo đánh giá chung của các nhà nghiên cứu thì sự phân phối kết hợp giữa các bộ phận ban ngành, địa phương và các doanh nghiệp trong quá trình hội nhập chưa thực sự chặt chẽ nhịp nhàng vầ đồng bộ. Chính phủ đã có chủ chương và chỉ đạo tích cực hội nhập, nhưng các doanh nghiệp còn chần chừ, thậm chí thờ ơ do quen cách làm cách kinh doanh cũ. Việc phối hợp giữa các bộ phận trong các loại hình đàm phán quốc tế hoặc tham gia vào các hoạt động cụ thể ở các cấp hội nghị khác nhau chưa gắn bó, thậm chí còn hiện tượng ganh đua gây ra chồng chéo. Thực tế nó thông qua Uỷ ban quốc gia về hợp tác kinh tế quốc tế chưa tạo thành bộ máy vận hành đồng bộ. Rõ ràng để hội nhập có hiệu quả, bộ máy hành chính của ta cần được cải cách tích cực.
1.2.3. Quá trình chuyển đổi cơ chế thị trường kinh tế của Việt Nam còn chậm.
Trong khi rất nhiều nước vận hành theo cơ chế thị trường từ nhiều thập kỷ nay thì chúnh ta mới chỉ đi những bước đầu trong một thời gian ngắn, thị trường chưa phát triển, hệ thống chính sách kinh tế chưa đồng bộ, môi trường luật pháp chưa hoàn thiện. Nhìn chung cơ chế chính sách, hệ thống luật pháp của Việt Nam so với các nước còn nhiều khác biệt và bất cập. Mặt khác sự hiểu biết về các thông lệ và luật pháp quốc tế của các doanh nghiệp Việt Nam còn hạn chế.
Khi gia nhập WTO và các tổ chức thương mại khu vực khác ngoài các lợi ích như được hưởng chế độ ưu đãi hoặc có thể cải thiện được vị thế thương mại của Việt Nam trên trường Quốc tế thì chúng ta cần vượt qua những rào cản rất lớn. Đó là việc chúng ta phải chia sẻ thị phần trong nước với đối tác nước ngoài ở các lĩnh vực mà lâu nay đều do các nhà đầu tư trong nước chiếm lĩnh như ngân hàng, bảo hiểm, viễn thông tư vấn
Tham gia vào WTO cũng có nghiã là chúng ta phải chấp nhận cắt giảm thuế nhập khẩu theo " Luật chơi" của tổ chức này. Điều đó đồng nghĩa với nguồn thu ngân sách nhà nước giảm xuống. Sản xuất trong nước phải đương đầu với việc không còn bảo hộ như trước đây. Chính vì thế không tránh khỏi nhiều doanh nghiệp sẽ bị phá sản, kéo theo là thất nghiệp gia tăng .
Trong xu thế cạnh tranh toàn cầu và khu vực diễn ra ngày càng gay gắt thì việc Việt Nam tham gia hội nhập sau nhiều quốc gia khác cũng là một khó khăn, là quốc gia đi sau, Việt Nam sẽ học hỏi được nhiều kinh nghiệm, nhưng trong xu thế cạnh tranh quốc tế đầy biến động không phải lúc nào chúng ta cũng tránh được những vấn đề nguy hiểm mà phải đối mặt với nó. Cách mạng khoa học- công nghệ cùng với sự phát triển của kinh tế tri thức đã tạo thời cơ và vận hội cho các nước đang phát triển "đi tắt", "đón đầu" để tiến hành CNH-HĐH theo con đường rút ngắn, nhưng cũng đặt ra yêu cầu ngày càng cao và chất lượng đội ngũ lao động và nguyên liệu thô ngày càng giảm giá trị.
1.2.4 Công nợ lớn và sử dụng vốn kém hiệu quả
Mặc dầu hiện nay tổng dư nợ nước ngoài so với GDP của Việt Nam vẫn nằm trong giới hạn an toàn nhưng còn một số khía cạnh cần quan tâm
Thứ nhất, hiệu quả sử dụng vốn ưu đãi cho các dự án còn thấp và chưa được đấp ứng đúng mức. Một số dự án gặp khó khăn trong việc thu hồi vốn để trả nợ nước ngoài, nhất là các dự án ở các ngành: mía đường, dâu, tơ tằm,chè, cơ khí, chế biến, thuỷ sảnTình trạng trên do nhiều nguyên nhân, nhưng chủ yếu là khi xây dựng các dự án này đã không xác định đúng mục tiêu, hạng mục đầu tư và tính đồng bộ giữa các khâu, dẫn đến việc nhập khẩu thiết bị không đồng bộ, nguyên liệu không đủ, sử dụng không hết công suất thiết kế gây nên gây lãng phí lớn, thị trường tiêu thụ hạn chếDo đóa hiệu quả kinh tế của dự án thấp, gây khó khăn trong việc trả nợ .
Thứ hai, một số các dự án trong lĩnh vực bảo vệ môi trường phải áp dụng phương thức vay lại vốn ODA của Chính phủ nhưng bản thân các dự án này lại được xác định là không có khả năng thu hồi vốn nên đã gây khó khăn trong việc bố trí nguồn trả nợ nước ngoài.
Thứ ba, quản lý nguồn vốn ODA của Chính phủ chưa được tập trung thống nhất vào đầu mối dẫn đến quy định trách nhiệm chưa rõ ràng giữa các cơ quan quản lý.Tình hình vay nợ và trả nợ các khoản vay thương mại của các loại hình doanh nghiệp cũng tồn tại nhiều vấn đề phải được quan tâm xem xét.
1.2.5. Sự yếu kém trong việc tiếp nhận các nguồn vốn và công nghệ
Đây là một thách thức quan trọng trong tiến trình hội nhập của Việt Nam. Lợi dụng sự ưu đãi của nhà nước vói các mặt hàng được khuyến khích nhậo khẩu , một số công ty liên doanh đưa vào Việt Nam nhiều máy mmóc thiết bị lạc hậu với giá cao thậm chí có những dây truyền công nghệ còn kém hơn dây truyền công nghệ hiện có ở Việt Nam. Chính vì việc tiếp nhận các nguồn vốn và công nghệ một cách yếu kém như vậy đã gây ra nhiều cản trở cho cho quá trình hội nhập ở Việt Nam.
1.2.6. Thách thức mang tính tổng hợp là nguy cơ mất độc lập tự chủ vể kinh tế và chủ quyền quốc gia.
Xương sống của quá trình toàn cầu hoá kinh tế hiện nay là do 60.000 công ty nguyên quốc gia của các nước phát triển với hơn năm trăm chi nhánh khắp nơi trên thế giới hợp thành các công ty này với tham vọng thôn tính các công ty bản địa đang có xu hướng sáp nhập, chuyển dần từ độc quyền đơn sang độc quyền nhóm để cùng nhau thống trị nền kinh tế thế giới . ở Việt Nam các công ty bản địa đang có xu hướng sáp nhập, chuyển dần từ độc quyền đơn sang độc quyền nhóm để cùng nhau thống trị nền kinh thế giới. ở Việt Nam các doanh nghiệp trong nước mất thị phần ngay cả trên thị trường nội địa cũng đã cũng đã xảy. Nhiều doanh nghiệp liên doanh (trong đó giá Việt Nam góp 30% so với phần đóng góp nhà đất) đã chuyển thành công ty 100% vốn nước ngoài vì nhiều lý do đặc biệt là phía nước ngoài đề nghị tăng vốn nhưng phía Việt Nam không có thực lực để đáp ứng. Nếu tình trạng này không được kịp thời khắc phục thì một khi người nước ngoài làm chủ doanh nghiệp lớn của Việt Nam thì khi ấy sẽ khó giữ được độc lập tự chủ về kinh tế. Nhất là trong bối cảnh hiện nay khi toàn cầu hoá đang bị nước tư bản đế quốc lợi dụng chi phối thì các nước đang phát triển trong đó có Việt Nam chẳng những đứng trước nguy cơ mất độc lập tự chủ về kinh tế mà chủ quền quốc gia cũng bị đe doạ.
Những phân tích trên cho thấy bức tranh khá rõ ràng là toàn cầu hoá kinh tế đã và đang tác động đến Việt Nam trên nhiều phương diện. Thời cơ và thuận lợi có nhiều những khó khăn, thách thức không ít. Tuy nhiên không thể vì những khó khăn thách thức rất lớn đó mà Việt Nam đứng ngoài cuộc. Ngược lai, phải kịp thời nắm bắt thời cơ và vận hội , phát huy những thuận lợi tham gia hội nhập kinh tế quốc tế một cách chủ động, sáng tạo theo đúng quan điểm , đường lối của Đảng và chủ trương chính sách của Nhà nước.
Việt Nam cũng như các quốc gia khác trên thế giới, ngày nay không thể tồn tại và phát triển nếu đứng biệt lập, vấn đề đặt ra là cần có cái nhìn khách quan về những thời cơ và thách thức, cái được và cái mất. Tuy nhiên việc đó không thể dễ dàng, vì giữa chúng có quan hệ mật thiết nội tại trong thời cơ có thách thức, trong thách thức có thuận lợi.
Như vây, để tranh thủ thời cơ và vận hội, phát huy thuận lợi vượt qua khó khăn thách thức chủ động hội nhập kinh tế quốc tế cần có chiến lược đúng và những giải pháp đồng bộ hữu hiệu để nâng cao năng lực hội sinh của nền kinh tế đất nước và sức cạnh tranh trên cả ba cấp độ: sản phẩm, hàng hoá, doanh nghiệp và nền kinh tế quốc dân.
2. Những thành tựu hạn chế cần khắc phục trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế.
2.1. Những thành tựu đạt được trong quá trình hội nhập
Sau gần 15 năm thực hiện đường lối đổi mới và mở cửa theo tinh thần Đại hội VI của Đảng nền kinh tế nước ta đã đạt được những thành tựu hết sức quan trọng tạo thế và lực tương đối vững chắc cho đất nước vào thế kỷ XXI.
Về công nghiệp: Việc tham gia các thể chế hợp tác kinh tế khu vực như AFTA đã tạo điều kiện cho các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam xâm nhập vào thị trường khu vực và thế giới.
Các mặt hàng được đánh giá có khả năng tạo được chỗ đứng trên thị trường đã có hơn 200 mặt hàng.
Nếu như 1990 kim ngạch xuất khẩu và nhập khẩu mới đạt mức 2,404 tỷ USD và 11,143 tỷ USD. Năm 1999 kim ngạch xuất khẩu 11,5 tỷ USD, nhập khẩu 11,54 tỷ USD. Các ngành nghề dịch vụ cũng phát triển mạnh mẽ và ta đã có khả năng xuất khẩu một số ngành dịch vụ như: xây dựng, ngân hàng ... Công nghiệp chế biến đã có tốc độ tăng trưởng khá và đã chiếm tới 60,6% giá trị toàn ngành công nghiệp năm 1999. Dầu khí có tốc độ tăng trưởng cao nhất trong toàn ngành công nghiệp. Sản lượng dầu mỏ năm 2000 tăng gấp 6 lần so với năm 1999. Sản lượng điện phát ra năm 2000 so với năm 1990 đã tăng gấp 3 lần, sản lượng thép cán gấp 16 lần, xi măng gấp 5.3 lần, phân hoá học 4.2 lần, giầy dép da 14.9 lần, giầy vải 4.9 lần, bột giặt 4.6 lần, đường 3.6 lần, bia 3.6 lần... giá trị sản phẩm công nghiệp xuất khẩu tăng trung bình năm là 20%. Các ngành dịch vụ đã tăng trưởng nổi bật trong các ngành thương mại, dịch vụ, bưu chính viễn thông. Giá trị hàng hoá bán ra trên thị trường trong nước năm 1999đã gấp 11.3 lần năm1990.
Hoạt động xuất khẩu cũng có mức tăng trưởng nổi bật , các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao đã được xây dựng, nhiều ngành công nghiệp mới đã được hình thành như ô tô, xe máy, điện tử...
Về nông nghiệp : Nông nghiệp đạt tốc độ tăng trưởngkhá và toàn diện trên nhiều lĩnh vực. Giá trị sản lượng toàn ngành tăng bình quân hàng năm 5.6% .Trong đó nông nghiệp tăng 5.4% , Thuỷ sản tăng 9.1%, Lâm nghiệp tăng 2.1%.Nổi bật nhất là sản lượng lương thực tăng bình quân mỗi năm tăng 1.1 triệu tấn .Sản lượng lương thực năm 2000 đạt 34 triệu tấn, đưa mức lương thực bình quân đầu người từ294.9 kg năm 1990 lên trên 436 kg , năm 2000 Việt Nam từ nước nhập khẩu lương thực hàng năm trở thành nước xuất khẩu gạo thứ hai thế giới. Sản lượng của một số cây công nghiệp trong thời kỳ 1999-2000 đã tăng khá cao : cafê tăng 4.7 lần, cao su tăng 4.5 lần, chè tăng 02 lần , mía tăng 03 lần, bông tăng 9.7 lần.
Trong nông nghiệp cơ cấu cây trồng và vật nuôi được dịch chuyển theo hướng tăng tỷ trọng một số cây công nghiệp và ăn quả có tiềm năng xuất khẩu và sức cạnh tranh quốc tế như cafê, điều, chè, tiêu, rau quả, cao su... tốc độ chăn niôi tăng nhanh hơn trồng trọt.
Về kinh tế đối ngoại: thiết lập quan hệ với 170 nước, tranh thủ được sự đầu tư trực tiếp cỉa gần 100 nước với 2290 dự án, vốn đăng ký trên 35.5 tỷ USD và vốn thực hiện trên 15.1 tỷ USD. Khai thông được mối quan hệ với các tổ chức tài chính tiền tệ lớn trên thế giới như WB, IMF... Mở rộng thị trường xuất nhập khẩu sang EU, Bắc Mỹ... Hợp tác kinh tế giữa các quốc gia theo chương trìnhd dài hạn hay theo vụ việc cụ thể đã từng diênx ra phổ biến trên thế giới. Nhưng ngày nay, hợp tác kinh tế, tức là gia nhập và trở thành thành viên của tổ chức kinh tế quốc tế. Điề đó được chứng minh ở tuyệt đại đa số các quốc gia trên hành tinh đều tham gia các trổ chức kinh tế trong khu vực, toàn cầu.là thành viên, các quốc gia phải thực hiện những định chế, những hiệp định , những cam kết do các bên thoả thuận. Người ta coi đó là "luật chơi" chung hay còn gọi là " thông lệ quốc tế" mà các quốc gia phải tuân thủ. Nhưng tuyệt đối không nên nghĩ rằng các luật chơi, các thông lệ hiện hành đã hoàn hảo, bất di, bất dịch. Đấu tranh để cải tiến hoàn thiện nó theo hướng tích cực đã trở thành nhu cầu, trách nhiệm của các quốc gia, trước hết chủ yếu là các quốc gia chậm phát triển.
Hội nhập quốc tế bao gồm quan hệ đa phương lẫn song phương. Hội nhập quốc tế không chỉ có việc gia nhập AFTA, APEC, IMF, WB ... mà việc thiết lập quan hệ thương mại, đầu tư, khoa học kỹ thuật với từng nước riêng rẽ có ý nghĩa rất quan trọng. Vì vậy hội nhập quốc tế không thể không tham gia quan hệ đa phương tức là không thể không gia nhập, trở thành thành viên của các tổ chức kinh tế khu vực và toàn cầu. Nếu chỉ dừng lại quan hệ quốc tế song phương thì sẽ không được hưởng lợi thế do quan hệ đa phương tạo nên không có điều kiện và cơ hội nói lên tiếng nói đấu tranh bảo vệ lợi ích quốc gia trên các diễn đàn quốc tế đặc biệt không tận dụng được sức mạnh tập thể của các nước đang phát triển để chống thái độ cửa quyền , sức ép của các nước đang phát triển để chống thái độ cửa quyền, sức ép của các nước đang phát triển để chông thái độ cửa quyền , sức ép của các nước phát triển.
Song thành tựu lớn nhất sau hơn một thập kỷ triển khai hội nhập kinh tế quốc tế là quá trình này đã đóng phần suy trì hoà bình ổn định tạo dựng môi trường thuận lợi để chúng ta tập trung mọi nỗ lực vào phát triển kinh tế đất nước và góp phần nâng cao vị thế nước ta trên trường quốc tế.
2.2. Những hạn chế cần khắc phục trong quá trình hội nhập
2.2.1. Năng lực cạnh tranh của nền kinh tế nước ta và của các doanh nghiệp còn yếu hơn nhiều so với các nước khu vực.
Năng lực cạnh tranh là một yếu tố quyết định trong việc mở rộng thị trường, hội nhập kinh tế với thế giới có hiệu quả bảo đảm sự phát triển bền vững của mỗi doanh nghiệp và mỗi nước.
Năng lực cạnh tranh của mỗi nước là năng lực tạo lập môi trường cạnh tranh kinh tế của nước đó có thể thúc đẩy mạnh mẽ hoạt động đầu tư và kinh doanh trong đó Nhà nước đóng vai trò quyết định. Nó liên quan đến hàng loạt yếu tố quan trọng của chính sách kinh tế vĩ mô, xu hướng tự do hoá thương mại và đầu tư, khuyến khích cạnh tranh và chống độc quyền, các định chế tài chính tiền tệ hệ thống thông tin và các chủ thể được tiếp cận thông tin, cơ sở hạ tầng kỹ thuật và xã hội, dịch vụ công cộng, thị trường lao động, thể chế, luật pháp, chính sách cơ cấu bộ máy nhà nước và năng lực của công chức trong bộ máy đó.
Hiện nay, ở nhiều nước đang phát triển để bảo vệ nền sản xuất trong nước, chính phủ cho các công ty nước một số ưu đãi về xuất nhập khẩu hoặc ưu tiên thị trường tiêu thụ ... Các nước phát triển cho rằng đó là những rào cản đối với sản phẩm của các công ty nước ngoài. Họ cho rằng cần phải phá bỏ hàng rào đó để các công ty cạnh tranh bình đẳng với nhau. Tuy nhiên việc áp dụng nguyên tắc bình đẳng cho các nước có trình độ khác nhau thực chất là một sự bất bình đẳng.
ở nước ta sự ách tắc trong lưu thông hàng hoá tổng cung lớn hơn tổng cầu, nhiều hàng hoá bị tồn đọng dẫn đế
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- R0142.doc