Đề tài Một số vấn đề pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính

Mục lục

Phần mở đầu

1. Tính cấp thiết của đề tài

2. Mục đích nghiên cứu

3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu

4. Phương pháp nghiên cứu

5. Kết cấu của khoá luận

Chương I: Khái quát về cho thuê tài chính và hợp đồng cho thuê tài chính

I.1. Khái niệm và đặc điểm cho thuê tài chính

I.1.1. Khái niệm

I.1.2. Đặc điểm

I.2. Lợi ích của cho thuê tài chính

I.2.1. Đối với bên cho thuê

I.2.2. Đối với bên thuê

I.2.3. Đối với nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị)

I.2.4. Đối với nền kinh tế

I.3. Các phương thức cho thuê tài chính

1.4. Khái niệm, đặc điểm, điều kiện có hiệu lực của hợp đồng cho thuê tài chính

I.4.1. Khái niệm

I.4.2. Đặc điểm

I.4.3. Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng

1.5. Phân loại hợp đồng cho thuê tài chính

Chương II: Các quy định pháp lý cơ bản về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam

II.1. Chủ thể của hợp đồng cho thuê tài chính

II.1.1. Bên cho thuê

II.1.2. Bên thuê

II1.3. Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị)

II.2. Quyền nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng cho thuê tài chính

II.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê

II.2.2. Quyền và nghia vụ của bên thuê

II.2.3. Quyền và nghĩa vụ của Nhà sản xuất

II.3. Đối tượng của hợp đồng cho thuê tài chính

II.4. Phương thức giao kết, thanh toán hợp đồng

II.4.1. Phương thức giao kết

II.4.2. Phương thức thanh toán

II.5. Chấm dứt và giải quyết tranh chấp hợp đồng

II.5.1. Chấm dứt hợp đồng

II.5.2. Giải quýet tranh chấp

Chương III: Thực trạng và giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính ở Việt Nam

III.1. Thực trạng các quy định pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính

III.2. Giải pháp hoàn thiện pháp luật về hợp đồng cho thuê tài chính

Kết luận

Danh mục tài liệu tham khảo

Phụ lục hợp đồng

 

 

 

 

 

 

doc72 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 3644 | Lượt tải: 3download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề pháp lý trong hợp đồng cho thuê tài chính, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ho thuê và đi theo) nên nó được áp dụng rất phổ biến. Theo thống kê của cơ quan thuế Hoa Kỳ, số lượng hợp đồng theo phương thức này chiếm 90% [45, 32]. Phương thức cho thuê tài chính này cũng được áp dụng phổ biến ở Việt Nam. * HĐCTTC hoàn trả từng phần: Tức là sau khi kết thúc thời hạn cho thuê, tổng số tiền thu được chưa đù bù đắp chi phí để thu hôi đủ vốn và đem lại lợi nhuận, người cho thuê cần phải cho thuê tiếp bằng hợp đồng mới. Với phương thức giao dịch này, đưa ra cho người thuê quyền lựa chọn mua tài sản thuê hoặc tiếp tục thuê tài sản thêm một thời gian khi kết thúc thời hạn của hợp đồng. Như vậy, ta có thể rút ra một số đặc trưng của HĐCTTC hoàn trả từng phần như sau: - Trong thời hạn cơ bản các bên không có quyền huỷ ngang hợp đồng nếu không có sự nhất trí chung. - Hết thời hạn cơ bản các bên có quyền tự do lựa chọn tiếp tục thuê tài sản đó thêm một thời gian hay mua chúng theo một giá cả hợp lý. Trường hợp tiếp tục thuê thì bên thuê có quyền huỷ ngang hợp đồng như thuê vận hành. - Do tính chất của hình cho thuê này, bên cho thuê thường tăng tốc độ khấu hao, tức là tăng tiền thuê trong thời hạn cơ bản. Đối với hợp đồng thuê lại này khi kết thúc thời hạn cơ bản thì tiền thuê cao hơn, bên thuê cũng có nhiều sự lựa chọn hơn trong việc kết thúc hợp đồng. - Tiền thu hồi vốn cao trong giai đoạn đầu được đưa vào quỹ phòng ngừa rủi ro [45, 34]. Căn cứ vào tính chất của giao dịch CTTC: * Loại hợp đồng tiếp cận từ phương diện người cho thuê sử dụng sẵn máy móc thiết bị của họ để cho thuê. Trên thực tế, nhiều nhà sản xuất ở các nước phát triển được thực hiện loại cho thuê này như một giải pháp mở rộng doanh số bán hàng. + HĐCTTC liên kết: Là loại hợp đồng gồm nhiều bên cùng tài trợ cho một bên thuê. Trong trường hợp này do một người cho thuê không đủ vốn để tài trợ hoặc sợ rủi ro vì tập trung vốn quá lớn với một khách hàng, nên họ liên kết với nhau để CTTC. Đối với loại hợp đồng này, tài sản cho thuê thường có giá trị lớn. Với phương thức cho thuê liên kết, pháp luật Việt Nam đã tạo cơ sở pháp lý để thực hiện, đó là hình thức cho thuê hợp với quy định tại Thông tư số 08/TT - NHNN ngày 09/06/2001 về hướng dẫn thực hiện NĐ 16/CP (mục 2.2), nhưng những rủi ro đối với loại hợp đồng này là không nhỏ. Để hạn chế những rủi ro có thể xảy ra, pháp luật Việt Nam đã có quy định đó là giới hạn cho thuê không được vượt quá 30% vốn tự có. Trong phương thức này vừa tạo được lợi nhuận cho kinh doanh đồng thời không bỏ lỡ bạn hàng. + Hợp đồng cho thuê bắc cầu: Là trường hợp người cho thuê đi vay để mua tài sản rồi cho thuê, loại cho thuê này thường áp dụng cho những dự án đầu tư lớn. Đây không phải là phương thức cùng tài trợ mà người cho thuê vẫn phải là trái chủ trong quan hệ cho thuê, còn người cho vay là trái chủ của người cho thuê trong quan hệ cho vay. Trong quá trình thực hiện HĐCTTC người cho vay được hoàn trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê và thường là do bên thuê trực tiếp chuyển trả khoản tiền cho vay từ các khoản tiền thuê, sau khi thanh toán hết các món nợ vay bên cho thuê được hưởng những khoản tiền thuê còn lại. Hình thức cho thuê này mở rộng khả năng tài trợ khỏi phạm vi nguồn vốn của người cho thuê. * Loại hợp đồng tiếp cận từ phương diện người thuê. - Hợp đồng bán rồi thuê lại: Các doanh nghiệp có thể bán tài sản của họ cho các Công ty CTTC sau đó thuê lại. Đây là trường hợp mà doanh nghiệp thiếu vốn lưu động để khai thác tài sản cố định hiện có trong hoạt động sản xuất kinh doanh song lại không đủ uy tín để vay vốn ngân hàng, trong trường hợp này họ buộc phải bán một phần tài sản cố định cho ngân hàng hoặc Công ty CTTC, sau đó thuê lại tài sản đó để sử dụng, và như vậy sẽ có nguồn tài chính để đáp ứng nhu cầu vốn lưu động. Đặc trưng chủ yếu của loại hợp đồng này là bên thuê giữ lại quyền sử dụng tài sản và chuyển giao quyền sở hữu pháp lý cho thuê cho thuê, đồng thời nhận tiền bán tài sản, nhưng tài sản đem bán phải còn giá trị sử dụng hữu ích và giá trị của tài sản đó tuỳ thuộc vào giá cả hợp lý của tài sản đó trên thị trường tại thời điểm diễn ra hoạt động mua bán. Với đặc thù là các loại hình doanh nghiệp Việt Nam hiện nay chủ yếu là doanh nghiệp vừa và nhỏ, phương thức giao dịch này đáp ứng được nguồn vốn lưu động cho nhiều doanh nghiệp trong nền kinh tế hiện nay ở Việt Nam khi nguồn vốn kinh doanh còn hạn chế, cơ chế vay vốn Ngân hàng còn gặp nhiều khó khăn. Phương thức cho thuê này được ghi nhận trong khoản 3, điều 16, NĐ 16/ CP tiếp cận dưới phương diện bên cho thuê nên sử dụng thuật ngữ "mua và cho thuê lại". - Hợp đồng cho thuê giáp lưng: Với sự cho phép của người cho thuê, người thuê có thể cho người khác thuê tiếp. Loại hợp đồng cho thuê này được áp dụng trong những trường hợp bên thuê thứ hai cần tài sản muốn đi thuê nhưng không thực hiện trực tiếp từ những người cho thuê chuyên nghiệp - bên Công ty CTTC, do hoạt động yếu kém, do không đảm bảo uy tín hoặc đơn giản chỉ vì doanh nghiệp đó chưa được người cho thuê biết đến. Ví dụ như Công ty CTTC nước ngoài thường chỉ chấp nhận tài trợ cho những Công ty lớn của Việt Nam (bên thứ nhất). Hình thức chothuê này cũng có thể áp dụng trong trường hợp bên thuê thứ nhất khi đã thực hiện một phần hợp đồng, không còn nhu cầu thuê, do đó họ phải tìm đến bên thuê thứ hai để chuyển giao hợp đồng với sự chấp thuận của người cho thuê. Phương thức này giúp bên thuê thứ nhất không bỏ phí tài sản thuê, đồng thời có thể kiếm lời từ bên thuê thứ hai. Bù lại bên đi thuê thứ nhất vẫn phải liên đới chịu trách nhiệm đối với những rủi ro thiệt hại liên quan đến tài sản thuê vì họ là người trực tiếp ký hợp đồng với bên cho thuê ban đầu. Mặc dù, kể từ thời điểm hợp đồng thuê mới lại được ký kết, mọi quyền lợi và nghĩa vụ và tài sản được chuyển giao sang bên thứ hai. - Hợp đồng cho thuê trả góp: Đây là phương thức tài trợ khá đặc biệt của CTTC. Thực chất là hình thức mua trả góp tài sản trong khoảng thời gian từ 1 đến 5 năm, được áp dụng đối với người mua có tài sản thế chấp và cả người không có thế chấp. Theo phương thức này, hợp đồng CTTC có hiệu lực và người mua thường phải trả ngay cho nhà tài trợ một khoản tiền chiếm từ 25% - 30% giá trị tài sản và vào thời điểm kết thúc hợp đồng chủ tài sản sẽ chuyển giao quyền sử dụng cho người thuê, hình thức tài trợ này giúp cho bên cung ứng bán được tài sản của mình và tạo cho bên thuê có ngay tài sản để sử dụng trong hoạt động sản xuất kinh doanh mà không phải trả ngay những khoản tiền đó. Nhưng bên cạnh đó, cũng có những bất lợi trong phương thức này đó là tỷ lệ lãi suất thực tế quá cao (thường lên tới 15%/ năm) và nguy cơ mất quyền sở hữu tài sản vào thời điểm kết thúc hợp đồng nếu không thực hiện đúng tiến độ thanh toán. Như vậy, phương thức tài trợ vốn thông qua hình thức cho thuê tài chính có thể được thực hiện dưới nhiều hình thức khác nhau. Các chủ thể tham gia trong hợp đồng cho thuê tài chính có thể lựa chọn cho mình một phương thức phù hợp để đạt được mục đích hoạt động kinh doanh của mình. CHƯƠNG II: CÁC QUY ĐỊNH PHÁP LÝ CƠ BẢN VỀ CHO THUÊ TÀI CHÍNH VÀ HỢP ĐỒNG CHO THUÊ TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM II.1. Chủ thể của hợp đồng cho thuê tài chính. Chủ thể của mỗi quan hệ hợp đồng là những bên tham gia quan hệ hợp đồng. Các chủ thể trong quan hệ hợp đồng đều đóng vai trò quan trọng và nó góp phần vào việc xác định loại hợp đồng và từ đó phần nào xác định được nộ dung, công việc của loại hợp đồng cũng như cơ quan có thẩm quyền giải quyết khi có tranh chấp hợp đồng. Chủ thể trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính khác so với chủ thể trong quan hệ hợp đồng thuê tài sản thông thường và trong quan hệ hợp đồng tín dụng. Sự khác biệt này không chỉ về địa vị pháp lý, quyền và nghĩa vụ của mỗi bên trong hợp đồng, mà còn về số lượng các chủ thể tham gia vào quan hệ hợp đồng. Trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài sản thông thường và quan hệ hợp đồng tín dụng thường chỉ bao gồm hai chủ thể bên cho thuê và bên thuê. Còn trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính, ngoài hai chủ thể cơ bản của hợp đồng thuê còn xuất hiện một chủ thể thứ ba trong quan hệ đó là nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị). Thực chất, chủ thể tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính chỉ gồm hai bên: bên cho thuê và bên thuê. Nhưng thông thường khi hai bên thoả thuận xong về các điều Khoản và đối tượng của hợp đồng thuê sẽ làm xuất hiện bên thứ ba là nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị), và khi đó bên thứ ba sẽ có trách nhiệm cung cấp đúng, đầy đủ các yêu cầu về máy móc thiết bị của bên thuê. Có thể nói rằng: Hợp đồng cho thuê tài chính là một loại "hợp đồng tín dụng đặc biệt" vì khi tham gia vào quan hệ hợp đồng thường xuất hiện ba chủ thể. Ngoài ra, trong một số trường hợp, tham gia vào quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính có thể chỉ gồm hai bên chủ thể (ví dụ, hình thức thuê trực tiếp, hình thức bán và tái thuê…) và có thể có 4 bên hoặc nhiều hơn nữa (ví dụ, hình thức thuê liên kết, thuê đòn bẩy…) Dưới đây, chúng ta sẽ xem xét từng chủ thể trong một quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính thông thường. II.1.1. Bên cho thuê. Theo thông lệ quốc tế, việc cho thuê thường do các Công ty tài chính thực hiện. Các Công ty này có thể là Công ty độc lập hoặc là Công ty thành viên của một tập đoàn tài chính - ngân hàng. Ở Việt Nam, theo quy định của pháp luật hiện hành thì bên cho thuê là Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động theo pháp luật Việt Nam (Khoản 1 Điều 7 Nghị định 16). Công ty cho thuê tài chính là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, là pháp nhân Việt Nam. Công ty cho thuê tài chính được thành lập và hoạt động tại Việt Nam dưới hình thức sau; - Công ty cho thuê tài chính Nhà nước; - Công ty cho thuê tài chính cổ phần; - Công ty cho thuê tài chính trực thuộc của tổ chức tín dụng. - Công ty cho thuê tài chính liên doanh (được thành lập bằng vốn góp giữa bên Việt Nam bao gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng, doanh nghiệp Việt Nam và bên nước ngoài gồm một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài, trên cơ sở hợp đồng liên doanh); -Công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài (được thành lập bằng vốn góp của một hoặc nhiều tổ chức tín dụng nước ngoài theo quy định của pháp luật Việt Nam). Để được Ngân hàng Nhà nước cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, các Công ty co thuê tài chính phải thoả mãn những điều kiện sau (Điều 8 Nghị định 16): - Có nhu cầu hoạt động cho thuê tài chính trên địa bàn xin hoạt động; - Có đủ vốn pháp định: Theo quy định tại Nghị định 82/1998/NĐ - CP ngày 3/10/1998, mức vốn pháp định của Công ty cho thuê tài chính 100% vốn Việt Nam là 55 tỷ đồng (VND) và vốn pháp định của Công ty cho thuê tài chính có vốn nước ngoài là 5 triệu đô la Mỹ. Theo thống kê, hiện nay có 6 Công ty cho thuê tài chính có số vốn điều lệ bằng mức vốn pháp định và ba Công ty cho thuê tài chính có số vốn điều lệ lớn hơn mức vốn pháp định. - Thành viên sáng lập là các tổ chức, cá nhân có uy tín và năng lực tài chính; - Người quản trị, điều hành có năng lực hành vi dân sự đầy đủ và trình độ chuyên môn phù hợp với hoạt động của Công ty cho thuê tài chính; - Có dự thảo điều lệ về tổ chức, hoạt động phù hợp với quy định của Luật Các tổ chức Tín dụng và các quy định khác của pháp luật; - Có phương án kinh doanh khả thi. Ngoài các điều kiện nêu trên, đối với bên nước ngoài trong các Công ty liên doanh hoặc Công ty 100% vốn nước ngoài, phải được tổ chức có thẩm quyền theo quy định của pháp luật nước ngoài cho phép liên doanh, cho phép hoạt động cho thuê tài chính tại Việt Nam. Tính đến thời điểm trước ngày 16/5/2000, Ngân hàng Nhà nước đã cấp giấy phép thành lập và hoạt động cho 9 Công ty cho thuê tài chính. Để đi vào hoạt động, Công ty cho thuê tài chính có đủ những điều kiện sau đây (Điều 11 Nghị định 16): - Điều lệ đã được Ngân hàng Nhà nước chuẩn y; - Có đủ vốn pháp định, có trụ sở phù hợp với yêu cầu hoạt động cho thuê tài chính và đã được cấp Giấy chứng nhận đăng ký kinh doanh; - Phần vốn pháp định góp bằng tiền phái đượ gửi vào tài Khoản phong toả tại Ngân hàng Nhà nước trước khi hoạt động tối thiểu 30 ngày. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho Ngân hàng Nhà nước kiểm tra số vốn thực có của Công ty để tránh những hậu quả có thể xảy ra sau khi Công ty cho thuê tài chính được thành lập và đi vào hoạt động, điều này hoàn toàn phù hợp với tinh thần của các nhà làm luật khi xây dựng Luật doanh nghiệp. - Đăng báo trung ương, địa phương theo quy định của pháp luật về nhữn nội dung quy định trong giấy phép. Trong thời hạn 12 tháng kể từ ngày được cấp Giấy phép thành lập và hoạt động, Công ty cho thuê tài chính phải khai trương hoạt động. Điều 16, Nghị định 16 quy định: sau khi khai trương hoạt động, Công ty cho thuê tài chính được tiến hành hoạt động nghiệp vụ: (i) Huy động vốn; (ii) cho thuê tài chính; (iii) Mua và cho thuê lại theo hình thức cho thuê tài chính (dưới đây gọi tắt là mua và cho thuê lại). Theo hình thức này, Công ty cho thuê tài chính mua lại máy móc, thiết bị, phương tiện vận chuyển và các động sản khác thuộc sở hữu của bên thuê và bên thuê thuê lại chính các tài sản đó để tiếp tục sử dụng phục vụ cho hoạt động của mình; (iv) Tư vấn cho khách hàng về những vấn đề có liên quan đến nghiệp vụ cho thuê tài chính; (v) Thực hiện các dịch vụ uỷ thác, quản lý tài sản và bảo lãnh trách nhiệm liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính; (vi) Các hoạt động khác khi được Ngân hàng Nhà nước cho phép. Điều 12, Nghị định 16 quy định, Công ty cho thuê tài chính có thể bị thu hồi giấy phép trong những trường hợp sau: - Có chứng cứ là trong hồ sơ xin cấp giấy phép có những thông tin cố ý làm sai sự thật; - Sau thời hạn 12 tháng kể từ ngày cấp giấy phép thành lập và hoạt động mà Công ty không hoạt động; - Tự nguyện hoặc bị cơ quan Nhà nước có thẩm quyền buộc phải giải thể; - Chia, sáp nhập, hợp nhất, phá sản; - Hoạt động sai mục đích; - Không có đủ điều kiện quy định tại Khoản 1 và 2 Điều 28, Luật các tổ chức Tín dụng. Sau khi bị thu hồi giấy phép, các Công ty cho thuê tài chính phải chấm dứt ngay các hoạt động ngân hàng. II.1.2. Bên thuê. Theo quy định tại Khoản 2, Điều 2, Nghị định 64: bên thuê là doanh nghiệp được thành lập theo pháp luật Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thue trong thời hạn thuê theo mục đích kinh doanh hợp pháp của mình. Như vậy, tất cả các loại hình doanh nghiệp thuộc mọi thành phần kinh tế, nếu có nhu cầu để có thể tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính để phục vụ mục đích kinh doanh của mình. Quy định này không cho phép các cá nhân, hộ gia đình, hộ kinh doanh cá thể sản xuất kinh doanh tham giao giao kết loại hợp này. Xét từ góc độ pháp lý, có lẽ nhà làm luật muốn thử nghiệm thành công hoạt động này trước khi mở rộng cho các loại hình chủ thể khác tham gia. Rõ ràng, việc điều chỉnh pháp lý với các doanh nghiệp có dễ dàng hơn do yêu cầu pháp lý về việc thành lập và hoạt động của loại hình chủ thể này đầy đủ hơn. Tuy nhiên dưới góc độ bình đẳng trong kinh doanh, việc pháp luật nước ta hạn chế một số chủ thể nhất định (các doanh nghiệp) dược quyền tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính đã mâu thuẫn với nội dung của nguyên tắc bình đẳng giữa các chủ thể trong kinh doanh. Bởi lẽ, nội dung của nguyên tắc này ghi nhận: trong hoạt động kinh doanh, các chủ thể kinh doanh thuộc mọi thành phần kinh tế có chế độ sở hữu khác nhau, không phân biệt về quy mô, hình thức, lĩnh vực và phạm vi kinh doanh đều có quyền và nghĩa vụ như nhau. Mặt khác, việc hạn chế này dương như đã không thấy hết được lợi ích mà hoạt động cho thuê tài chính đem lại cho nền kinh tế - cho thuê tài chính là nhân tố tác động tích cực đối với sự phát triển của các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Theo Công văn 681 ngày 20/6/1998 của Chính phủ, tiêu chí phân loại doanh nghiệp vừa và nhỏ đó là: chủ thể kinh doanh có đăng ký, không phân biệt thành phần kinh tế, có quy mô về vốn dưới 5 tỷ đồng và/ hoặc có số lao động trung bình hàng năm dưới 200 người. Như vậy, theo cả hai tiêu chí trên, hiện nay có Khoảng 88 - 90% DN ở Việt Nam thuộc loại vừa và nhỏ. Trong đó, chúng ta nhận thấy rằng chỉ có một số ít các doanh nghiệp là có đủ điều kiện cũng như uy tín tài chính để vay tín dụng từ các ngân hàng với mục đích mở rộng hoạt động sản xuất kinh doanh. Chính từ nhận thức là tạo ra sự bình đẳng giữa các chủ thể kinh doanh, nên khi xây dựng Luật Các tổ chức Tín dụng và Nghị định 16, các nhà làm luật đã kịp thời sửa đổi và mở rộng phạm vi chủ thể khi tham giao vào quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính. Khoản 1, Điều 61, Luật các tổ chức Tín dụng đã đề cập tới sự tham gia của các cá nhân trong hoạt động cho thuê tài chính: "Hoạt động cho thuê tài chính đối với tổ chức, cá nhân được thực hiện thông qua Công ty cho thuê tài chính". Đến Khoản 2, Điều 7, Nghị định 16 đã khẳng định sự tham gia của cá nhân trong hoạt động cho thuê tài chính. Cụ thể: "Bên thuê là tổ chức, cá nhân hoạt động tại Việt Nam, trực tiếp sử dụng tài sản thuê cho mục đích hoạt động của mình" (người viết in đậm và gạch chân để nhấn mạnh). Điều này có nghĩa, không phải chỉ có các doanh nghiệp mới có quyền tham gia vào quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính với tư cách là bên thuê mà các cá nhân, các mô hình tổ chức kinh doanh tài chính với tư cách là bên thuê mà các cá nhân, các mô hình tổ chức kinh doanh khác cũng có thể tham gia vào quan hệ này nếu họ có nhu cầu thuê máy móc thiết bị dùng vào hoạt động kinh doanh. Tuy nhiên, cùng với việc mở rộng phạm vi chủ thể, đòi hỏi chúng ta phải có một cơ chế giám sát hiệu quả để quản lý các hoạt động cho thuê tài chính giữa các bên. Nghị định 16 đã đi một bước khá dài trong việc giải quyết vấn đề này - những vấn đề mà Nghị định 64 đã không đề cập đến. Thứ nhất, Điều 29, Nghị định 16 quy định; Công ty cho thuê tài chính không được cho thuê tài chính đối với những người sau đây: - Thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó giám đốc (Phó Giám đốc) của Công ty cho thuê tài chính; - Người thẩm định, xét duyệt cho thuê; - Bố, mẹ, vợ, chồng, con của thành viên Hội đồng quản trị, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc (Giám đốc), Phó tổng Giám đốc (Phó Giám đốc). Thứ hai, Công ty chot huê tài chính không được cho thuê tài chính vớicác điều kiện ưu đãi (Tổng giá trị tài sản cho thuê không được vượt quá 5% vốn tự có của Công ty cho thuê tài chính) cho những đối tượng sau (Điều 30, Nghị định 16): - Tổ chức kiểm toán. Kiểm toán viên đang kiểm toán tại Công ty cho thuê tài chính; Kế toán trưởng, Thanh tra viên; - Các cổ đông lớn của Công ty cho thuê tài chính; - Doanh nghiệp có một trong những đối tượng quy định tại Điều 29, Nghị định này sở hữu trên 100% vốn Điều lệ của doanh nghiệp đó. Thứ ba, Điều 31, Nghị định 16 quy định: - Tổng mức cho thuê tài chính đối với một khách hàng không được vượt quá 30% vốn tự có của Công ty cho thuê tài chính, trừ trường hợp đối với những Khoản cho thuê tài chính từ các nguồn uỷ thác của Chính phủm của các tổ chức, cá nhân hoặc khách hàng thuê là tổ chức tín dụng. - Trường hợp nhu cầu thuê của một khách hàng vượt quá 30% vốn tự có của Công ty cho thuê tài chính hoặc khách hàng có nhu cầu thuê từ nhiều nguồn thì các Công ty cho thuê tài chính được chot huê hợp vốn theo quy định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Trong trường hợp đặc biệt để thực hiện nhiệm vụ kinh tế - xã hội mà khả năng hợp vốn của các Công ty cho thuê tài chính chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng thuê, Thủ tướng Chính phủ có thể quyết định mức cho vay tối đa với từng trường hợp cụ thể. Điều 9, Quyết định 149 quy định: điều kiện để bên thuê được thuê máy móc, thiết bị và các loại động sản khác dùng cho sản xuất kinh doanh dưới dạng hình thức tín dụng thuê mua, đó là: - Đối với pháp nhân: + Phải được thành lập và hoạt động theo lập pháp hiện hành của Việt Nam; + Có tình trạng tài chính lành mạnh; + Có nhu cầu đổi mới trang thiết bị, máy móc nhằm hiện đại hoá và hợp lý hoá sản xuất; + Có những đảm bảo thích hợp cho tài sản thuê, khi tổ chức tín dụng yêu cầu (tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh…) - Đối với thể nhân, hộ sản xuất: ngoài một số điều kiện được quy định đối với pháp nhân, thể nhân, hộ sản xuất phải có hộ khẩu cùng địa bàn với tổ chức tín dụng. Quy định này nhằm tạo điều kiện cho các tổ chức tín dụng có thể dễ dàng tiến hành kiểm tra việc sử dụng tài sản thuê của bên thuê. Các quy định về điều kiện đối với pháp nhân, thể nhân, hộ sản xuất đã không được cụ thể hoá trong các văn bản pháp luật sau này (Nghị định 64, Nghị định 16 và Luật Các Tổ chức Tín dụng). Chính vì vậy, khi chúng ta có một văn bản luật hoàn chỉnh điều chỉnh quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính, chúng tôi kiến nghị rằng, nên quy định các điều kiện đối với bên thuê khi tham gia vào quan hệ hợp đồng. Điều này đảm bảo việc thực hiện nghĩa vụ của bên thuê đối với bên cho thuê trong quan hệ hợp đồng cho thuê tài chính. Nghị định 16 đã tạo điều kiện cho việc các Công ty cho thuê tài chính mở rộng mối quan hệ với khách hàng nước ngoài khi quy định: "Các hoạt động cho thuê tài chính của các Công ty cho thuê tài chính ra nước ngoài được thực hiện theo quy định của Nghị định này và các quy định khác có liên quan của pháp luật Việt Nam hoặc các bên tham gia có thể thoả thuận áp dụng tập quán quốc tế, nếu tập quán đó không trái với pháp luật của Việt Nam (Khoản 4 Điều 1 Nghị định 16). Đây là một dấu hiệu tốt đối với các Công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam hiện nay. II.1.3. Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) Như đã phân tích ở trên, Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) máy móc thiết bị không phải là người tham gia giao kết hợp đồng cho thuê tài chính mà chỉ có trách nhiệm cung cấp đúng các yêu cầu về máy móc thiết bị của bên thuê. Trong mối quan hệ này, bên cho thuê (trong hợp đồng cho thuê tài chính) sẽ ký hợp đồng mua bán với Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) và trả tiền cho bên bán, bên bán sẽ chuyển giao quyền sở hữu cho bên cho thuê. Trong trường hợp nếu có hư hỏng đối với máy móc thiết bị thì bên thuê sẽ đề nghị Nhà sản xuất (hoặc nhà cung cấp thiết bị) sửa chữa, thay thế và trả tiền. Có thể minh hoạ mối quan hệ giữa các chủ thể trong hợp đồng cho thuê tài chính theo sơ đồ sau: II.2. Quyền và nghĩa vụ của các bên tham gia hợp đồng cho thuê tài chính. Nội dung của hợp đồng cho thuê tài chính là toàn bộ các điều khoản mà hai bên giao kết hợp đồng thoả thuận, giao kết, sau khi đã bàn bạc thương lượng trên cơ sở tự nguyện, tự do ý chí của các bên. Nội dung của hợp đồng cho thuê tài chính xác định quyền và nghĩa vụ của các chủ thể đối với nhau, quyết định tính hiện thực và hiệu lực pháp lý của hợp đồng. Do đó, yêu cầu đặt ra là nội dung của hợp đồng cho thuê tài chính phải hợp đồng, có khả năng thực hiện, các điều khoản phải rõ ràng, cụt hể, ý chí của các bên phải được khẳng định không mập mờ, mâu thuẫn. Dù hợp đồng cho thuê tài chính là kinh tế hay dân sự thì nội dung của hợp đồng cho thuê tài chính cũng gồm ba loại điều khoản: điều khoản thường lệ, điều khoản chủ yếu, điều khoản tuỳ nghi. - Điều khoản thường lệ là những điều khoản mà nội dung của nó đã được quy định trong các văn bản quy phạm pháp luật. Những nội dung này các bên có thể đưa vào hợp đồng nhằm khẳng định lại hoặc cụt hể hoá, nhưng không được trái với quy định của pháp luật. - Điều khoản chủ yếu là những điều khoản căn bản, nhất thiết phải có trong hợp đồng. Đây chính là những điều khoản bắt buộc các bên phải thoả thuận ghi vào văn bản hợp đồng. Nếu thiếu những điều khoản này thì coi như hợp đồng cho thuê tài chính chơa được giao kết. - Điều khoản tuỳ nghi là những điều khoản được đưa vào hợp đồng căncứ vào khả năng, nhu cầu và sự thoả thuận của hai bên.8 Xem Giáo trình Kinh tế, Khoa Luật - Đại học Quốc gia Hà Nội Trong khi chưa có các quy định hướng dẫn Nghị định 16, chúng ta có thể dựa vào các quy định tại Điểm B, Phụ lục 7, Thông tư 03/TT - NH5 ngày 9/2/1996 về việc hướng dẫn thực hiện "Quy chế tạm thời về tổ chức và hoạt động của Công ty cho thuê tài chính tại Việt Nam" ban hành kèm theo Nghị định 64/CP ngày 9/10/1995 của Thủ tướng Chính phủ (sau đây gọi là Thông tư 03) để xem xét những nội dung chính trong hợp đồng cho thuê tài chính. Theo đó, hợp đồng cho thuê tài chính bao gồm những nội dung sau: a. Các bên tham gia hợp đồng cho thuê. b. Tài sản cho thuê bao gồm các đặc điểm về yếu tố nhận dạng: số sê ri, số đăng ký, bẳng liệt kê mô tả trang thiết bị và danh sách mô tả các bộ phận, các chi tiết kỹ thuật, tính năng của tài sản thuê. c. Tên, địa chỉ người cung ứng. d. Nơi tài sản được sử dụng hoặc cất giữ, nơi đặt hoặc vận hành tài sản thuê. đ. Giá mua tài sản thuê. e. Thời gian thuê. g. Cơ sở để tính toán tiền thuê. h. Lãi suất nợ quá hạn (lãi phạt sẽ tính vào tiền thuê quá hạn thanh toán) i. Các điều khoản khác như: quyền lựa chọn mua, tiền đặt cọc, tăng tiền thuê hoặc tiền trả trước hoặc yêu cầu an toàn khác, các điều kiện về bảo lãnh, thế chấp. Nội dung của hợp đồng cho thuê tài chính còn bao gồm quyền và nghĩa vụ của các bên đối với nhau: II.2.1. Quyền và nghĩa vụ của bên cho thuê. Theo Điều 62, Luật Các tổ chức Tín dụng và Điều 23 và 24, Nghị định 16 thì bên cho thuê có các quyền và nghĩa vụ sau: - Quyền của bên cho thuê. + Yêu cầu của bên thuê cung cấp các báo cáo quý, quyết toán tài chính năm và tình hình hoạt đ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docDA2125.doc
Tài liệu liên quan