I. Phần mở đầu .1
II. Phần nội dung:
A.Phần I: Cở sở lý luận, thực tiễn của công tác quản lý
nguồn vốn của Ngân hàng thương mại .2
A.1 . Đánh giá vai trò quản lý nguồn vốn trong
Ngân hàng thương mại .2
A.2 . Mục tiêu đặt ra đối với công tác quản lý Nguồn vốn .3
A.2.1 .Vấn đề đầu tiên quyết định hoạt động của Ngân hàng thương mại
đó là cơ cấu nguồn vốn .4
A.2.2. Một số vấn đè quản lý nguồn vốn đặt ra đó là
quản lý về cơ cấu nguồn vốn 5
A.3. Các nội dung chính của hoạt động quản lý nguồn vốn trong
Ngân hàng thương mại .7
A.3.1 Quản lý về quy mô và cơ cấu nguồn vốn .7
A.3.2 Quản lý về lãi suất chi trả và kỳ hạn 8
A.3.3. Quản lý khả năng thanh toán .11
A.3.4. Quản lý lãi suất bảo đảm về hệ số khả năng sinh lời
trên cơ sở nguồn vốn của NHTM .11
B. Phần II: Thực trạng hoạt động quản lý nguồn vốn trong
Ngân hàng thương mại .
B.1. Tình trạng hoạt động chung của Ngân hàng thương mại Việt Nam 13
B.2. Đánh giá về cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn
trong Ngân hàng thương mại hiện nay .15
B.3. Vấn đề bức xúc cần nghiên cứu đối với công tác quản lý nguồn
vốn là xử lý nợ tồn đọng và cơ cấu hợp lý giữa vay và cho vay
vốn ngắn hạn, trung và dài hạn .19
3.1. Vốn tín dụng NH bao cấp cho Doanh Nghiệp 19
3.2. Ngân hàng thương mại sử dụng vốn huy động ngắn hạn
không hợp lý 19
3.3. Ngân hàng thương mại cho vay nhận tài sản thế cháp
là bất động sản .20
3.4. Cho vay theo giá trị vật tư tương đương .21
3.5. Nước ta chưa có ngân hàng chính sách đúng với ý nghĩa của nó .22
C. Phần III: Một số ỳ kiền về hướng giải quyết.
III.1. Thực hiện cơ cấu lại Ngân hàng thương mại dưới góc độ
về quy mô huy động nguồn vốn và xử lý nợ .22
1.1. Tăng vốn nhưng hệ số an toàn chưa đạt tiêu chuẩn quốc tế 26
1.2. Xử lý các khoản vay không hiệu quả 27
III.2. Thực hiện các phương pháp quản lý giảm thiểu rủi ro trong quản lý 28
III.3. Tóm lại thông qua các hướng giải pháp về quản lý nguồn
vốn và sử dụng vốn.
3.1. Về nguồn vốn . 29
3.2. Về sử dụng vốn .32
Kết luận.
33 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1266 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề trong quản lý nguồn vốn của các ngân hàng thương mại nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
các nguồn có kì hạn ngắn để cho vay với kì hạn dài hơn.
Có thể nói quản lí kì hạn luôn gắn liền với quản lí lãi suất. Một sự gia tăng trong lãi suất nguồn đều liên quan đến không chỉ tăng quy mô của nguồn, mà còn tới tính ổn định của nguồn giữa các Ngân Hàng. Các cách tính khác nhau để cải thiện sự ổn định của khoản nợ.
Dựa vào những loại tiền gửi chủ yếu (Tiền giao dịch hoặc tiền tiết kiệm) . Mặc dù tiền gửi phải hoàn trả theo yêu cầu, song nó tương đối ổn định. Các Ngân Hàng lớn ngày nay đang cố gắng tăng tiền gửi để giảm vay.
Xây dựng các mỗi liên hệ với người gửi lớn sao cho họ tránh rút tiền trong lúc khủng hoảng.
Đa dạng các nguồn tiền là huy động từ nhiều nguồn khác nhau. Điều này giảm sự phụ thuộc của Ngân Hàng vào một khách hàng.
Phát triển quản lí tài sản bên cạnh quản lí các khoản nợ.
3.3. Quản lí khả năng thanh khoản.
Đối với nhiều Ngân Hàng phân tích tính thanh khoản của nguồn vốn đang trở thành trọng tâm quản lí nguồn vốn. Tính thanh khoản của nguồn vốn được đo bằng khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới với chi phí và thời gian nhỏ nhất. Nhiều Ngân Hàng lớn, do thực hiện chuyển hoán kì hạn của nguồn (nguồn vốn kì hạn ngắn được chuyển sang đầu tư hoặc cho vay với kì hạn dài hơn) và duy trì tỉ lệ dự trữ thấp, rất quan tâm khả năng tìm kiếm nguồn vốn mới để đáp ứng nhu cầu thanh khoản đắc biệt là các nguồn trong ngắn hạn.
Tính thanh khoản của nguồn tuỳ thuộc rất lớn vào thị trường của mỗi Ngân Hàng vào chính sách,vào chính sách tiền tệ đang được vận hành. Nói chung các Ngân Hàng lớn, có nhiều chi nhánh và gần các trung tâm tiền tệ có nhiều khả năng tìm kiếm các nguồn nhanh chóng hơn là các Ngân Hàng nhỏ, ít chi nhánh và ở xa. Hơn nữa việc phát triển các công nợ sẽ cho phép các Ngân Hàng có nhiều cơ hội tiếp xúc với các nguồn. Do vậy, tại các nước mà thị trường nợ kém phát triển thì tính thanh khoản của nguồn vốn của các Ngân Hàng cũng trở nên bị giảm thấp.
3.4. Quản lí lãi suất đảm bảo về hệ số khả năng sinh lời trên cơ sở nguồn vốn của Ngân Hàng thương mại.
Trên cơ sở nguồn vốn của Ngân Hàng ngoài những quản lí về mặt huy động và và vay của Ngân Hàng cần phải có công tác đánh giá về quản lí sử dụng vốn cho vay và đầu tư. Cụ thể hoạt động tín dụng chiếm tỷ trọng lớn, do đó yêu cầu về quản lí khả năng sinh lời của sử dụng nguồn vốn nhằm bù đắp chi phí và tăng lợi nhuận hoạt động. Việc quản lí về lãi suất của tài sản snh lời rất phức tạp. Dựa trên các hình thức huy động vốn ngắn, trung và dài hạn mà có những chính sách quản lí về lãi suất cho vay đảm bảo bù đắp chi phí và có lợi nhuận.
Nếu Ngân Hàng cho rằng, các nguồn ngắn hạn, trước hết dùng để tài trợ cho các tài sản ngắn hạn, thì chi phí nguồn bình quân của các tài sản ngắn hạn chính là chi phí trả lãi ngắn hạn. Tuy nhiên, phần lớn nguồn ngắn hạn phải chịu dự trữ bắt buộc, nên Ngân Hàng có thể phân bố dự trữ bắt buộc cho các khoản vay khác nhau. Hay trường hợp Ngân Hàng nắm giữ chứng khoán thanh khoản (sinh lời thấp) lãi suất các khoản vay ngắn hạn phải tính phần bù cho chứng khoán ngắn hạn (để hạn chế rủi ro thanh khoản). Nhưng đối với các khoản vay trung và dài hạn, lãi suất nguồn vốn tài sản nợ chính là lãi suất hỗn hợp giữa lãi suất trung, dài hạn với lãi suất ngắn hạn. Ngân Hàng có thể không phân bố chi phí nguồn (dành cho các khoản mục dự trữ), các khoản tín dụng trung và dài hạn, song chi phí quản lí trực tiếp gắn liền với việc thẩm định dự án, theo dõi dự án, chi quỹ phòng rủi ro gắn liền với tín dụng trung và dài hạn đều cao hơn ngắn hạn. Đó là yếu tố làm cho lãi suất tín dụng trung và dài hạn cao hơn ngắn hạn.
Trong trường hợp kì hạn định giá huy động và cho vay không bằng nhau thường kì hạn định lại giá của huy động ngắn hơn cho vay, thì việc cho vay dựa trên lãi suất huy động bình quân sẽ không đảm bảo yêu cầu sinh lời. Để thích ứng với lãi suất biên khi huy động, Ngân Hàng thường tăng lãi suất huy động để cho vay với kì hạn dài hơn. Thường là huy động để cho vay trung và dài hạn, hoặc cho vay với lãi suất thả nổi.
Một mặt làm tăng tỉ lệ sinh lời đó là quản lí về lãi suất huy động. Việc này đã được trình bày trong phần lãi suất chi trả. Nó có vai trong quản thiểu chi phí, tăng nguồn huy động từ đó làm cơ sở cho vay với lãi suất hợp lí, khối lượng lớn. Đây tạo nên ưu thế cạnh tranh của các Ngân Hàng và tăng khoản mục lãi chênh lệch thu về.
B. Phần II. Thực trạng hoạt động quản lí nguồn vốn trong Ngân Hàng thương mại Việt Nam.
B.I. Tình hình hoạt động chung của Ngân Hàng thương mại Việt Nam.
Trên cơ sở các thành tựu đạt được từ khi đổi mới nền kinh tế đến nay, đặc biệt là những kết quả đạt được trong 5 năm gần đây, chúng ta đã có những định hướng rất cụ thể trong những năm tới về mọi lĩnh vực, mọi ngành thông qua các chỉ tiêu kinh tế từ vĩ mô đến vi mô. Dự kiến trong 5 năm tới (2001-2005), tốc độ tăng trưởng GDP khoảng 7,2%, vốn huy động cho đầu tư phát triển tương đương 50-60 tỉ USD chiếm khoảng 30% GDP (hệ số ICOR dự kiến là: 4,2) trong đó nguồn vốn trong nước chiếm khoảng 60%, vốn nước ngoài chiếm 40%, vốn trung và dài hạn khoảng 40-50% vốn đầu tư. Nguồn vốn ODA giải ngân khoản 10 tỷ USD, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10 tỷ USD. Tổng tín dụng đạt 40-50% GDP, tỉ lệ tiết kiệm khoảng 26% GDP, tổng ngân sách đạt 20% GDP, giảm tỉ lệ đói nghèo xuống khoảng 5%. Trước những mục tiêu lớn đó, ngành Ngân Hàng cũng đã định hướng nhiều giải pháp quan trọng: Xây dựng và thực thi một chính sách tiền tệ và công cụ chính sách tiền tệ có hiệu qủa phù hợp với cơ chế thị trường thông qua công cụ thị trường mở, lãi suất, tỉ giá….
Hiện nay hệ thống Ngân Hàng thương mại Viêt Nam hiện có các loại hình như sau: Ngân Hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) và Ngân Hàng thương mại cổ phần (NHTMCP) chi nhánh Ngân Hàng nước ngoài và Ngân Hàng liên doanh (CNNHNN và NHLD). Trong các loại hình Ngân Hàng thương mại, thông qua thị phần dịch vụ Ngân Hàng nói chung và thị phần tín dụng nói riêng cho thấy loại hình Ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo, chi phối và khống chế thị trường (khoảng trên 70%), tiếp đến loại hình chi nhánh Ngân hàng nước ngoài và Ngân Hàng liên doanh (chiếm gần 15%). Hiện nay có 6 Ngân hàng thương mại quốc doanh sở hữu 100% vốn của nhà nước, song thực chất chỉ có 4 Ngân Hàng kinh doanh thương mai (Ngân Hàng công thương, Ngân hàng ngoại thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng Nông Nghiệp và phát triển Nông Thôn) còn có 2 Ngân hàng hoạt động như Ngân hàng chính sách (Ngân Hàng người nghèo và Ngân hàng Đồng Bằng Sông Cửu Long). Mặc dù vậy, các Ngân hàng thương mại quốc doanh vẫn nắm vai trò chủ đạo vì đây đều là những Ngân hàng có vốn lớn, có mạng luới rộng khắp trên toàn quốc (như Ngân hàng nông nghiệp có chi nhánh cấp 4 tới tận phường xã) Khách hàng hầu như là đại đa số các doanh nghiệp Việt Nam và các tổng công ty lớn từ các thành phố lớn đến cả những vùng nông thôn miền núi. Ngoài các Ngân hàng thương mại quốc doanh còn có các Ngân hàng nước ngoài và Ngân hàng liên doanh cũng chiếm thị phần 15% toàn hệ thống. Đặc biệt vào giai đoạn tham gia hội nhập này thì Ngân hàng nước ngoài thường có vốn lớn và uy tín trên thế giới. Do đó mà sẽ có lợi thế trong cạnh tranh với các Ngân hàng trong nước. Do vậy tầm quan trọng là củng cố và lành mạnh hoạt động các Ngân hàng thương mại quốc doanh và quản lí có hiệu quả các hoạt động của nó có vai trò quan trọng mang tính chiến lược.
Từ đó cần phải có những đánh giá tổng hợp về tình hình hoạt động về vốn, về khả năng huy động vốn, sử dụng và quản lý nguồn vốn của ngân hàng thương mại.Tình hình tài chính của các ngân hàng thương mại quốc doanh cho đến nay mặc dù đã được chính phủ cấp bổ sung vốn điều lệ song vẫn còn nhiều vấn đề.Tình trạng nợ nần dây dưa quá hạn còn phổ biến, số lượng nhiều, môi trường kinh doanh còn nhiều rủi ro, tỷ lệ rủi rỏ trong hoạt động ở các ngân hàng này còn cao (hệ số an toàn Cook bình quân chỉ vào khoảng 5% trong khi thông thường thì tỷ lệ này tối thiểu phải là 8%).Việc củng cố các Ngân hàng thương mại quốc doanh cần phải nâng cao khả năng quản lý chặt chẽ hơn.
Nhưng thực tế để đánh giá một cách chính xác kết quả hoạt động tài chính của Ngân hàng rất khó khăn. Vì nghiệp vụ kế toán còn có nhiều điều khác với các tiêu chuẩn quốc tế.Thông tin hiện có về hoạt động ngân hàng còn thiếu, tản mạn và không đầy đủ. Khó tính được lợi nhuận Ngân hàng vì ít được biết về thực tế dự phòng của Ngân hàng. Những số liệu sẵn có duy nhất làm rõ được hiệu năng và chất lượng của vốn đầu tư chứng khoán của Ngân hàng đó là số liệu liên quan đến các khoản dịch vụ thanh toán nợ quá hạn. Nó cũng chính là một trong những chỉ tiêu đánh giá công tác quản lý nguồn vốn ở Việt Nam.
B.2. Đánh giá về cơ cấu nguồn vốn và quản lý nguồn vốn trong Ngân hàng thương mại hiện nay.
Hiện nay về quản lý cơ cấu nguồn vốn trở nên cần thiết đối với các Ngân hàng thương mại. Bởi thực trạng mất cân đối trong cơ cấu nguồn vốn ảnh hưởng đến khả năng thanh khoản. Đầu tư vốn tín dụng trung và dài hạn là yêu cầu mang tính khách quan của nền kinh tế trong thời kì công nghiệp hoá. ở nước ta, các ngành kinh tế quốc dân đều có nhu cầu rất lớn về vốn đầu tư dài hạn để tạo lập cơ sơ vật chất ban đầu, đổi mới công nghệ hay mở rộng quy mô sản xuất. Do đó mà vai trò vốn tín dụng chiếm vị trí quan trọng trong tổng số vốn đầu tư và đứng trước yêu cầu cấp thiết để phát triển các ngành kinh tế quốc dân. Thế nhưng hiện nay, nhiều Ngân hàng và các tổ chức tín dụng chỉ dành một phần nhỏ trong tổng số vốn của mình để đầu tư tín dung trung và dài hạn, so với nhu cầu rất cao của các ngành kinh tế, thậm chí ngay cả trong các thời kì không tìm được đầu ra cho tín dụng ngắn hạn. Qua tìm hiêủ ta thấy rằng vấn đề khó khăn là tỷ lệ quy định cho vay dài hạn trong tổng huy động vốn quá thấp, hơn nữa việc sử dụng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn sẽ gặp khó khăn về vấn đề thanh toán. Trong trường hợp này đặt ra về xác định tỷ lệ cơ cấu nguồn vốn huy động ngắn hạn dùng để cho vay trung và dài hạn.
Từ thực trạng đặt ra trên thì cần có hướng giải pháp tạo ra nguồn huy động trung và dài hạn để có thể thực hiện tín dụng dài hạn. Từ thực tiễn ở Ngân hàng thương mại hiện nay chúng ta rút ra một số tác động và hướng về huy động. Theo các nhà nghiên cứu cho rằng để huy động nguồn vốn trung và dài hạn không đâu xa mà khai thác nguồn từ số dư cáctài khoản tiền gửi ngắn hạn mà các Ngân hàng tập trung được. Ta có thể nói cơ cấu huy động có ảnh hưởng rất lớn đến xác định cơ cấu cho vay.Do đó số dư trên tài khoản tiền gửi tương đối vững chắc làm tiền đề tạo vốn . Việc vững chắc của số dư là do các Ngân hàng tạo được tổng số dư các tài khoản huy động vốn ổn định trong một thời gian dài , thì đó chính là nguồn vốn để cho vay trung và dài hạn . ở đây , đó là một tập hợp số có vốn huy động , không phân biệt ngắn hạn hay dài hạn, cho dù huy động ngắn hạn là chủ yếu đi chăng nữa .
Do đó đặt ra tiêu chí cố định là việc huy động vốn ngắn hạn là nguồn để cho vay ngắn hạn , và đồng thời không phải là không huy động vốn dài hạn thì sẽ không có nguồn để cho vay dài hạn . Việc huy động vốn trung và dài hạn giữ vay trò làm tăng tính vững chắc của số dư vốn huy động. Trong phạm vi từng Ngân hàng thương mại , nếu có tỷ trọng vốn trung và dài hạn cao thì có thể chủ động hơn về các kỳ hạn cho vay (và chủ động chi trả tiền gửi cho khách hàng) chứ không hoàn toàn giữ vai trò chủ yếu trong việc tạo nguồn cho vay trung và dài hạn cũng không thể nói huy động ngắn hạn giữ vài trò thiết yếu.
Mặt khác quan điểm tạo vốn hiện nay theo cơ chế thị trường hiện nay mang tính quảng đại về một tập hợp nguồn tiền vào quỹ Ngân hàng, mà không nặng nề về chi tiết, nói cách khác nó phụ thuộc vào chính sách thể lệ hấp dẫn của các thể lệ tiền gửi. Cụ thể là vốn để cho vay trung và dài hạn không hoàn toàn phụ thuộc vào việc các thể lệ tiền gửi có hấp dẫn không? thời gian ra sao? lãi suất cao hay thấp? mà ở chỗ ở NHTM có tạo ra được cơ hội tốt nhất, khơi ra được các cơ hội tốt nhất, khơi ra được các dòng chảy tự nhiên . Để hầu hết mọi khoản tiền đều chảy qua và đọng lại quỹ NH một con số đáng kể hay không. Do đó đòi hỏi công tác quản lý làm rõ một số vấn đề như:
Tổng nguồn vốn huy động có tỷ trọng tiền gửi ngắn hạn cao thì giá cả đầu vào của tín dụng sẽ hạ thấp tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại hạ giá đầu ra. Có được điều này là một ưu thế lớn trong hoạt động kinh doanh của Ngân hàng.
Trong nền kinh tế thị trường, một khi tỉ suất lợi nhuận bình quân đã chi phối hầu hết các doanh nghiệp, họ đòi hỏi lãi suất cho vay của Ngân hàng phải giảm thấp. Các Ngân hàng hiện nay đã có xu hướng giảm lãi suất sàn và trần của tín dụng gần với lãi suất chung của các nền kinh tế thị trường phát triển. Việc hạ thấp lãi suất chính là kích thích đầu tư, những người gửi tiền vào Ngân hàng không hoàn toàn coi đó là một cách đầu tư đơn giản để kiếm lãi suất, do sự hấp dẫn của lãi suất như trong thời kỳ lạm phát. Dần dần người gửi tiền không còn cân nhắc lựa chọn nhiều về các thể lệ có lãi suất cao (tương đương với kỳ hạn dài) vì chênh lệch lãi suất cao (tương đương với các kỳ hạn dài). Vì chênh lệch lãi suất rất nhỏ, lại bất tiện hơn vì bị ràng buộc bởi các kỳ hạn của thể lệ tiền gửi. Khi đó, điều quan tâm nhất của họ là tính an toàn hay uy tín của Ngân hàng về mức độ tiện ích của thể lệ gửi tiền và các công cụ thanh toán, cùng với chất lượng phục vụ của Ngân hàng. Khi trên thị trường đã phổ biến rộng rãi các công cụ thanh toán như séc, thẻ tín dụng, máy rút tiền tự động, các dịch vụ của Ngân hàng tốt hơn như gửi một nơi, rút ở các nơi khác, chuyển tiền nhanh chóng an toàn …thì chính các tài khoản tiền gửi thanh toán và tiền gửi hoạt ký khác, mặc dù với lãi suất thấp, vẫn sẽ chiếm tỉ trọng lớn trong tổng số dư các tài khoản tiền gửi tại các Ngân . Vì thế , việc huy động vốn của Ngân hàng sẽ dễ dàng hơn, việc kinh doanh có hiệu quả hơn.
Trong thực tế , việc tăng khả năng huy động đó cũng dựa trên uy tín của Ngân hàng trong lĩnh vực hoạt động .Ngân hàng thương mại mà phục vụ tốt ( ví như các Ngân hàng thương mại cổ phần ) các khoản tiền gửi hoạt ký ngắn ngày được gọi là tiền ký thác , không những không phải trả lãi cho người gửi mà còn thu được những khoản tiền có tên gọi phí dịch vụ đáng kể . Như vậy, khi kinh tế thị trường phát triển, chưa hẳn các thể lệ huy động vốn có kỳ hạn dài, lãi suất cao được coi là ưu thế tạo vốn của Ngân hàng .
Hiện nay, do chất lượng phục vụ chưa cao, nên hầu hết các Ngân hàng thương mại lấy các thể lệ huy động có định kỳ dài hạn với lãi suất cao hơn làm cộng cụ chính để tạo vốn. Việc các loại tiền gửi này chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn, chính là một bất lợi trong kinh doanh. Trước hết, lãi suất cao là một gắng nặng cho người vay ( gồm cả chính Ngân hàng và người vay NH ) . Do đó việc huy động quá nhiều tiền gửi định kỳ có lãi suất cao không phải là cách của các Ngân hàng) tiên tiến. Và những kế hoạch cho vay dài hạn được lập ra ăn khớp với kỳ hạn của vốn huy động dài hạn là một việc làm manh mún trong kinh doanh. Cách hiểu như thế chỉ phù hợp trong phạm vi cục bộ từng Ngân hàng , chỉ áp dụng trong từng thời điểm và bị giới hạn bởi không gian hẹp , dễ bế tác khi có trục trặc ở một công đoạn đầu vào, đầu ra nào đó. Với xu hướng giảm thấp và ổn định lãi suất, thì các Ngân hàng khôn ngoan và ngay cả các Quỹ tín dụng nhân dân quy mô vừa và nhỏ cũng không muốn huy động tiền gửi kỳ hạn dài trên 3 tháng để luôn có cơ hội giảm thấp “đầu vào” của Tín dụng.
Việc huy động để cho vay dài hạn khi đã tạo được một tổng nguồn vốn vững chắc theo các trên đây, thì tự nó sẽ loại bỏ những khó khăn về việc dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay dài hạn , có thể gây khó khăn cho việc thanh toán, chi trả tiền gửi. ở đây sự hoạt ký của nguồn tiền gửi không gây mất chủ động cho các ngân hàng, bởi nguồn vốn của các Ngân hàng đến mức độ nhất định , là tập hợp của vô số khoản tiền gửi hoạt ký. Đó là một tập hợp bền vững và ổn định nếu như đa số lượng tiền mặt trong lưu thông đều có cơ hội cấn và đủ để đi qua quỹ Ngân hàng .Và hoạt động huy động vốn cần có sự liên kết chặt chẽ với nhau, có sự chỉ đạo và điều hành theo nguyên tắc “ bình thông nhau” , việc xác định tỷ lệ vốn để cho vay dài hạn so với huy động vốn ngắn hạn của từng Ngân hàng thương mại là vô nghĩa. Tỷ lệ này chỉ cần ở tầm Vĩ mô, còn từng Ngân hàng thương mại có thể cao thấp khác nhau, không phụ thuộc vào cơ cấu nguồn vốn của mình.
B.3. Vấn đề bức xúc cần nghiên cứu đối với công tác quản lý nguồn vốn là xử lý nợ tồn động và cơ cấu quản lý hợp lý giữa vay và cho vay vốn ngắn hạn , trung hạn và dài hạn.
Trong những năm qua, hoạt động kinh doanh của Ngân hàng đều có lãi đóng góp vào NSNN và bảo đảm đời sống cho công nhân viên. Nhưng từ năm 1997 đến nay, số lãi giảm nhiều so với những năm trước năm 2000, lợi nhuận ròng của các Ngân hàng thương mại Quốc doanh chỉ đạt 417 tỉ đồng, bằng 62% so với năm 1995. trong khi số tài sản có và số lao động tăng nhanh. Vấn đề này có nhiều nguyên nhân, nhưng rõ ràng đây đang có chiều hướng xấu đi. Theo tôi vấn đề về thu lại nợ, và những khoản nợ khó đòi và xóa nợ đã có ảnh hưởng đến lợi nhuận của Ngân hàng thương mại .
Xét về tính chất hoạt động của Ngân hàng thì hoạt động tính dụng là hoạt động chủ yếu. Về bản chất tín dụng là sự hoàn trả, do đó tính an toàn (khả năng trả của người vay) là yếu tố quan trọng bậc nhất để cấu thành chất lượng tín dụng. Khi một khoản vay không được hoàn trả đúng nguyên tắc tín dụng quan trọng nhất của Ngân hàng và nó bị chuyển sang nợ quá hạn với lãi suất cao hơn lãi suất bình thường. Tiền thực tế phần lớn các khoản nợ quá hạn là các khoản nợ có vấn đề, có khả năng mất vốn có nghĩa là tính an toàn thấp.
Trong nền kinh tế thị trường rủi ro trong hoạt động kinh doanh là khách quan, do đó nợ quá hạn của Ngân hàng thương mại là tất yếu, không thể tránh khỏi. Song, nếu một Ngân hàng thương mại có nhiều khoản nợ khó đòi, nợ quá hạn sẽ gặp nhiều khó khăn trong kinh doanh. Nó sẽ có nguy cơ mất vốn mà đây là điều tệ hại dễ dẫn đến mất khả năng thanh toán và giảm thu nhập. Ngân hàng thương mại nào có tỉ lệ nợ quá hạn cao sẽ bị đánh giá là có chất lượng tín dụng thấp .Do đó , để đảm bảo hoạt động có hiệu quả liên tục và sinh lời , thì vai trò quản lý nguồn vốn về xử lý nợ khó đòi là rất khó khăn và phức tạp . Do vậy cần đi tìm hiểu những nguyên nhân có thể dẫn đến tỷ lệ nợ khó đòi cao hoặc là tỷ lệ nợ quá hạn cao .Lý do :
3.1 Vốn tín dụng Ngân hàng bao cấp cho Doanh nghiệp :
Nhiều Doanh nghiệp hoạt động bằng vốn vay NHTM chiếm tỷ trọng lớn trong vốn lưu động. Chúng ta biết rằng vốn tín dụng của Ngân hàng thương mại ,bản thân nó mang nội dung ứng trước cho doanh nghiệp hoạt động liên tục và chỉ mang tính bổ sung vốn. Nhưng việc tính trước, tính trực tiếp, số tiền cho vay càng lớn thì rủi ro càng cao, vốn cho vay càng nhiều. Có thể nói, hầu như các chi phí sản xuất hoặc dự trữ hàng hoá của doanh nghiệp đều là vốn vay Ngân hàng. Nếu sản phẩm hàng hoá, dịch vụ của daong nghiệp không tiêu thụ được, Ngân hàng thương mại cho vay vốn sẽ không thu hồi được nợ. Vốn ngân hàng bị ứ đọng, thế rồi phải dãn nợ, miễn giảm lãi suất,…. Ngân hàng nhà nước phải cấp bù phần miễn giảm, Ngân hàng thương mại phải trích lập phòng ngừa rủi ro, vừa giảm thu nhập cho cán bộ ngân hàng thương mại , giảm phần nộp thuế cho ngân sách nhà nước..
3. 2. Ngân hàng thương mại sử dụng vốn huy động ngắn hạn không hợp lý:
Nhiều Ngân hàng thương mại, nhất là Ngân hàng thương mại Quốc doanh dùng vốn huy động ngắn hạn để cho vay trung và dài hạn. Cuối năm 2000, ở nước ta dư nợ cho vay trung và dài hạn của các Ngân hàng thương mại chiếm tỷ trọng khoảng 30% tổng dư nợ. NHNN & PTNT Việt Nam, tỷ trọng dư nợ trung và dài hạn còn cao hơn nhiều (gần 40% tổng dư nợ cho vay). Hiện nay nhiều ngân hàng thương mại cho vay trung và dài hạn đối với tất cả các thành phần kinh tế, từ kinh tế tư nhân đến doanh nghiệp nhà nước, bằng nguồn vốn huy động ngắn hạn. Nhiều Ngân hàng thương mại còn cho vay trung và dài hạn bằng ngoại tệ. Doanh nghiệp sử dụng khoản vay này để nhập khẩu máy móc, thiết bị…có giá thành cao. Do đó sảm phẩm sản xuất ra với giá cao, không tiêu thụ được. Nhiều Doanh nghiệp không có khả năng trả nợ trung và dài hạn cho Ngân hàng thương mại. Tất nhiên Ngân hàng thương mại phải xử lý tình huống này. Với các biện pháp gia hạn thêm thời hạn trả nợ, trong khi đó có một tỷ lệ nhất định là nguồn huy động ngắn hạn. Do đó tiềm ẩn về khả năng thanh khoản cho Tổ chức tín dụng .
3.3 Ngân hàng thương mại cho vay nhận tài sản thế chấp là bất động sản .
Hầu hết các Ngân hàng thương mại cho vay, nhận tài sản thế chấp chủ yếu là bất động sản , đó là quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất. Thời gian qua, giá đất luôn gắn với sự biến động của thị trường và bị ảnh hưởng lớn bởi chủ trương của nhà nước, việc phát mại gặp phải một loạt vướng mắc về pháp lý và thủ tục hành chính, khiến việc thu nợ vay của Ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn. Khi ngân hàng cho vay, nhận tài sản thế chấp là bất động sản thường là ở thởi điểm giá bất động sản cao, Ngân hàng thương mại sẽ không thu hồi được nợ khi đến hạn, bởi vì thường là khi đó giá bất động sản khó bán. Ngân hàng công thương Việt Nam đạt tỷ lệ thu hồi được nợ rất thấp đối với vụ án Epco_ Minh Phụng là một dẫn điển hình. Toà phúc thẩm toà án nhân dân tối cao tại thành phố Hồ Chí Minh định giá đất, nhà theo giá nhà nước. Mặt khác việc phát mại khoản nợ của Ngân hàng thương mại gặp nhiều khó khăn và giá bán thường thấp hơn so với giá khi nhận thế chấp.
Ngân hàng thương mại nhận lại tài sản thế chấp là bất động sản thì không có khả năng kinh doanh. Nếu nhận lại tài sản thế chấp là bất động sản, Ngân hàng thương mại không có nguồn vốn để hạch toán mua tài sản thì nợ quá hạn không hề giảm, vì không thể hạch toán kế toán nội bảng được. Ngân hàng thương mại cho vay bằng tiền thì phải thu lại bằng tiền. Hiện nay, NHNo&PTNT Việt Nam cho hộ nông dân vay, nhận tài sản thế chấp là giấy chứng nhận quyền sử dụng đất (sổ bìa đỏ) rất ít có ý nghĩa.
3 .4 . Cho vay theo giá trị vật tư tương đương .
Các Ngân hàng thương mại cho vay còn lấy giá trị vật tư, tài sản hình thành từ vốn vay để làm tài sản bảo đảm tiền vay .Đây là một trong những nguyên nhân nợ khó đòi cho Ngân hàng thương mại , vì giá cả luôn luôn có xu hướng biến động giảm do cạnh tranh về mẫu mã và tính năng của hàng hoá luôn luôn được nâng cao.
Ngoài ra còn cho vay, nhận tài sản thế chấp mà pháp luật cấm. Ví như vụ xét chi nhành uỷ ban thành phố Hồ Chí Minh cho Tamexco vay, đã xiết nợ là khách sạn Đồi sao và một số nhà là tài sản của ban tài chính quản trị thành uỷ thành phố Hồ Chí Minh trực tiếp quản lý. Bởi vậy, toà phúc thẩm toà ản nhân dân tối cao tại Tp HCM đã bác bỏ việc chi nhánh VCB Tp HCM xiết nợ tài sản đó.
3.5. Nước ta chưa có Ngân hàng chính sách đúng với ý nghĩa của nó
NHNo&PTNT Việt Nam đang làm dịch vụ , thực chất là làm nhiệm vụ của NH phục vụ người nghèo về : Cho vay, thu nợ, mở sổ sách kế toán. Ngân hàng công thương Việt Nam được giao nhiệm vụ cho sinh viên vay tiền học tập. Đến nay, một số sinh viên đã ra trường nhưng Ngân hàng công thương Việt Nam không biết họ cư trú nơi nào để thu nợ. Mà nguồn tài trợ này lại phải gánh thiệt hại do quá trình cho vay ưu đãi thì không thu được vốn . Hiện tượng xoá nợ, gây ra thiệt hại cho Ngân hàng.
Theo tình hình hiện nay, thì để xử lý nợ quá hạn đã trở thành một vấn đề trung tâm cho các nhà quản trị Ngân hàng thương mại. Khi đề cập đến vấn đề này, có nhiều ý kiến cho rằng biện pháp tối ưu la rút ngắn, hoàn thiện các thủ tục khởi kiện, đấu giá tài sản thế chấp. Nhưng thời gian chờ đợi việc hoàn thiện các thủ tục pháp lý đó thì các khoản nợ quá hạn vẫn tiếp tục gia tăng. Vậy cần có những giải pháp giải quyết vấn đề này. Ngân hàng thương mại ngày nay có xu hướng chuyển từ phòng thủ bị động sang tích cực, chủ động với nhiều biện pháp đa dạng phong phú. Một biện pháp được trở thành khẩu hiệu của các Ngân hàng thương mại đó là “Nâng cao chất lượng tín dụng” thông qua thẩm định dự án vay, bảo đảm tín dụng , cho vay có hiệu quả . Nhưng thực tế cho thấy chưa có một Ngân hàng thương mại sử dụng triệt để điều 54 khoản 1 luật các TCTD “TCTD có quyền chấm dứt việc cho vay, thu hồi nợ trước hạn khi phát hiên khách hàng cung cấp thông tin sai sự thật, vi phạm hợp đồng tín dụng” Điều này xuất phát từ tâm lý cho rằng, đây là một biên pháp quá mạnh để làm ảnh hưởng xấu đến hoạt động sản xuất kinh doanh của một Doanh nghiệp, từ đó tác động xấu đến nền kinh tế. Để có thể áp dụng lý luận vào thực tiễn ta cần xem xét vấn đề trên nhiều góc độ cụ thể như trên góc đọ về đạo lý, góc độ luật pháp, góc độ triết lý. Nhưng để có thể bảo đảm lợi ích người cho vay và người đi vay khi một Doanh nghiệp, một dự án đã trở nên không còn tính khả thi, khách hàng không trung thực, sự cân nhắc quá kĩ lưỡng của Ngân hàng sẽ vô tình đẩy khách hàng lún sâu vào vũng lầy thua lỗ, gây hậu quả nghiêm trọng thêm cho họ khi phải đối diện trước phấp luật. Về phía khách hàng nên tỏ ra trung thực, giải bày khó khăn để cùng ngân hàng đưa ra những biện pháp giải quyết. Mặt khác có một số nguyên nhân dẫn đến sự xử lý nợ của các Ngân hàng thương mại còn bất cập so với thực tế chưa đồng bộ,
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- L0941.doc