Đề cương đề tài:
MỘT SỐ VÂN ĐỀ TRONG VIỆC THỪA NHẬN QUYỀN LẬP DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ - CHỒNG
A . PHẦN MỞ ĐẦU
1. Tính cấp thiết của đề tài
2. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu của đề tài
3. Đối tượng và phạm vi nghiên cứu của đề tài
4. Phương pháp nghiên cứu của đề tài
5. Bố cục của đề tài
B. PHẦN NỘI DUNG
CHƯƠNG 1.
CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ MỘT SỐ VẤN ĐỀ VỀ VIỆC THỪA NHẬN
QUYỀN LẬP DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ - CHỒNG
1. Một số vấn đề chung về di chúc chung của Vợ - Chồng
1.1. Các văn bản pháp luật hiện hành liên quan
1. 2. Di chúc và di chúc chung của Vợ - Chồng
1.3. Một số khái niệm
1.4. Chủ thể và các trường hợp được lập di chúc
CHƯƠNG 2.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG VIỆC THỪA NHẬN QUYỀN LẬP DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ - CHỒNG
1. Lịch sử vấn đề và những thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ - chồng
1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề
1.2. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân trong việc lập di chúc
1.3. Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ - chồng
1.3.1. Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng
1.3.2. Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ - chồng
1.3.3. Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc
1.4. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng
1.4.1. Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng?
1.4.2. Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc viết tay mà không có người làm chứng?
1.5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung
1.6. Hiệu lực của di chúc chung của vợ - chồng
1.7. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung
2. Một số giải pháp giải quyết và kiến nghị
2.1. Có tiếp tục thừa nhận di chúc chung của vợ, chồng?
2.2. Trường hợp không thể bãi bỏ các qui định về di chúc chung trong luật thực định, thì cần có những thay đổi toàn diện về vấn đề này trong BLDS 2005
C. KẾT LUẬN
TÀI LIỆU THAM KHẢO
27 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1969 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề trong việc thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc xác định di chúc có giá trị pháp lý hay không có giá trị pháp lý.
CHƯƠNG 2.
MỘT SỐ VẤN ĐỀ TRONG VIỆC THỪA NHẬN QUYỀN LẬP DI CHÚC CHUNG CỦA VỢ - CHỒNG
2.1.Lịch sử vấn đề và những thiếu sót, bất cập trong các qui định của pháp luật hiện hành về di chúc chung của vợ - chồng
2.1.1. Sơ lược lịch sử vấn đề
Xem xét trong Bộ luật Hồng Đức và Luật Gia Long thì không thấy có qui định về vấn đề này. Đối chiếu với Luật La Mã cũng như Bộ luật Dân sự Cộng hòa Pháp thì thấy họ cũng không thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ – chồng 1. Tuy vậy, việc lập di chúc chung của vợ - chồng lại được thừa nhận trong tục lệ của ta từ lâu. Theo Giáo sư Vũ Văn Mẫu, thực tiễn tục lệ của Việt Nam trong các xã hội trước đây cho thấy, di chúc chung của vợ, chồng là hình thức di chúc thông dụng và việc vợ - chồng cùng nhau lập di chúc chung, là hiện tượng phổ biến thời bấy giờ 2. Quan niệm truyền thống của người Việt Nam vốn rất coi trọng đạo nghĩa vợ - chồng và luôn muốn củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nên cũng khuyến khích việc vợ, chồng cùng nhau lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung, và coi đó như là một biểu hiện cao đẹp của sự đoàn kết, yêu thương giữa vợ - chồng.
Luật thực định thời cận đại cũng đã bắt đầu ủng hộ giải pháp mang tính luân lý đó. Nghiên cứu các Bộ Dân luật của các chế độ trước, thì thấy các Bộ Dân luật Bắc và Dân luật Trung đều thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng 3. Bộ Dân luật Sài Gòn 1972 cũng cho phép vợ - chồng cùng lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung4. Pháp luật hiện hành của Nhà nước ta cũng thừa nhận vợ, chồng có quyền lập di chúc chung. Thông tư 81-TANDTC ngày 24/71981 đã từng nhắc đến di chúc chung của vợ, chồng. Pháp lệnh Thừa kế 1990 tuy không trực tiếp qui
định về di chúc chung của vợ, chồng, nhưng cũng gián tiếp thừa nhận hiệu lực của di chúc chung5. Vấn đề di chúc chung của vợ, chồng được qui định khá rõ trong BLDS 1995 và BLDS 2005 6. Các qui định này trong BLDS 2005 đã có nhiều sửa đổi so với qui định của BLDS 1995 7. Mặc dù vậy, việc qui định về di chúc chung trong BLDS 2005 vẫn còn nhiều điểm thiếu sót, bất cập và chưa phù hợp với thực tế.
Có thể nói, pháp luật cận đại và luật hiện hành Việt Nam thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ - chồng là thể hiện nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, nhưng như vậy sẽ gây ra sự mâu thuẫn với các quy định khác về di chúc làm nảy sinh nhiều bất cập không thể giải quyết được, thậm chí, còn làm phá vỡ tính hệ thống của chế định quyền thừa kế.
2.1.2. Quyền lập di chúc chung của vợ - chồng và nguyên tắc tự nguyện cá nhân trong việc lập di chúc
Điều 646 Bộ luật Dân sự (BLDS) 2005 qui định rõ: “Di chúc là sự thể hiện ý chí của cá nhân nhằm chuyển dịch tài sản của mình cho người khác sau khi chết”. Theo đó, di chúc được xem là phương tiện pháp lý để cá nhân định đoạt tài sản thuộc quyền sở hữu của mình. Di chúc không thể là giao dịch dành cho mọi chủ thể hay một cộng đồng chủ thể. Mặt khác, vấn đề thừa kế di sản là vấn đề pháp lý liên quan tới thân trạng và quyền lợi vật chất của một cá nhân, được tiến hành sau khi cá nhân chết. Như vậy, Điều 663 qui định di chúc chung của vợ, chồng đã tạo ra sự mâu thuẫn so với Điều 646 nói trên. Mặt khác, việc thừa nhận di chúc chung của vợ chồng sẽ dẫn đến các vấn đề pháp lý phức tạp khác rất khó xử lý về mặt kỹ thuật pháp lý. Ví dụ như xác định thời điểm có hiệu lực của di chúc chung, việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung, chấm dứt di chúc chung…
Tuy vậy, nếu thiên về nguyên tắc củng cố tình thương yêu và đoàn kết trong gia đình, thì việc qui định về di chúc chung của vợ, chồng là điều cần thiết. Cũng cần phải nói thêm là, trong quan điểm của tục lệ và pháp luật của các chế độ trước, việc thừa nhận quyền lập di chúc chung không chỉ để củng cố tình thương yêu đoàn kết trong gia đình, mà việc lập di chúc chung, trước hết, là nhằm tạo ra giải pháp phòng ngừa, tạo ra sự chế ước đối với người chủ gia đình, theo quan điểm phụ hệ, để bảo vệ quyền thừa kế của những người thân thích khác trong gia đình.
2.1.3. Nội dung và mục đích của di chúc chung của vợ - chồng
2.1.3.1. Di chúc chung chỉ dùng để định đoạt tài sản chung của vợ chồng Điều 663 BLDS 2005 qui định: “Vợ, chồng có thể lập di chúc chung để định đoạt tài sản chung”. Theo đó, nội dung và mục đích của di chúc chung là để định đoạt tài sản chung của vợ, chồng. Sẽ đơn giản, nếu vợ, chồng chỉ có tài sản chung. Nhưng sẽ phức tạp, nếu vợ, chồng vừa có tài sản chung, vừa có tài sản riêng, mà họ lại muốn định đoạt cả hai loại tài sản này trong cùng một di chúc. Trong trường hợp đó, sẽ có nhiều vấn đề pháp lý đặt ra rất khó xử lý, như: vấn đề hiệu lực của di chúc chung sẽ được xác định như thế nào; phần di chúc định đoạt tài sản riêng có phải là một di chúc riêng; sau khi một bên vợ hoặc chồng chết, thì phần di chúc liên quan tới tài sản riêng của họ có hiệu lực hay chưa… Đây là những vấn đề pháp lý phức tạp mà BLDS 2005 chưa tiên liệu được. Như vậy, nếu qui định trên được thực hiện đúng, thì vợ, chồng không thể dùng di chúc chung để định đoạt tài sản riêng của mình. Điều này sẽ dẫn tới hai hệ quả là: -Khi vợ, chồng muốn lập di chúc chung thì di chúc đó chỉ được định đoạt tài sản chung. Nếu vợ, chồng muốn định đoạt phần tài sản riêng, thì họ phải lập
một tờ di chúc khác. Sẽ phức tạp nếu một người có nhiều sản nghiệp khác nhau (tài sản riêng hoặc tài sản với vợ hay chồng hợp pháp khác). Điều này sẽ gây ra trở ngại tâm lý không nhỏ khi người ta muốn lập di chúc chung, vì như thế sẽ tạo ra thêm nhiều khó khăn cho các bên liên quan, như phải lập nhiều tờ di chúc khác nhau, thay vì chỉ cần duy nhất một tờ di chúc. - Nếu trong di chúc chung vợ - chồng định đoạt cả tài sản chung và tài sản riêng thì di chúc đó sẽ phát sinh hiệu lực vào hai thời điểm khác nhau. Điều này dẫn tới việc, chỉ dựa vào một tờ di chúc, 5 Điều 23 khoản 1 Pháp lệnh Thừa kế 1990: “Trong trường hợp di chúc lập chung, mà có người chết trước, thì chỉ phần di chúc liên quan đến phần tài sản của người chết trước có hiệu lực”. người ta phải chia thừa kế nhiều lần trên cùng sản nghiệp của một người. Từ đó sẽ phát sinh nhiều vấn đề khác, như việc xác định người thừa kế bắt buộc, người thừa kế thế vị; sự ra đời của những người mới nằm trong hàng thừa kế, sau khi một bên vợ hoặc chồng chết mà di chúc chung vẫn chưa phát sinh hiệu lực; cơ sở để xác định giá trị một suất di sản bắt buộc… là những vấn đề pháp lý không dễ dàng giải quyết.
2.1.3.2. Việc thừa kế lẫn nhau giữa vợ - chồng
BLDS 2005 không qui định rõ những trường hợp bị cấm đoán khi lập di chúc chung. Điều này sẽ tạo nên những tình huống pháp lý rất khó xử, như việc hai bên lập di chúc để thừa kế lẫn nhau, thì di chúc đó có hiệu lực hay không? Di chúc vốn là một loại giao dịch pháp lý đơn phương và không mang tính chất đền bù. Việc cho phép vợ, chồng khi lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau, đã biến loại giao dịch này thành giao dịch pháp lý song phương và mang tính chất có đền bù, làm thay đổi bản chất pháp lý của di chúc. Pháp luật của các chế độ trước tuy có thừa nhận quyền lập di chúc chung của vợ chồng, nhưng luôn cấm vợ, chồng lập di chúc chung để thừa kế lẫn nhau. Điều 572 Bộ Dân luật Sài Gòn qui định: “… hai người không thể cùng làm chung một
chúc thư… lưỡng tương đắc lợi” (tức thừa kế lẫn nhau - Tác giả chú thích). Việc pháp luật hiện hành không cấm đoán vợ, chồng lập di chúc chung thừa kế lẫn nhau, chẳng những sẽ không đạt được mục đích tăng cường tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình, mà có thể còn gây nên nhiều hệ luỵ không thể lường trước được, như: sự thông đồng giữa vợ, chồng lập di chúc giả tạo để che đậy những hành vi trái pháp luật; hoặc làm gia tăng nguy cơ khiến các bên phản bội, lừa dối, giả mạo di chúc, hoặc thậm chí, tạo cơ hội cho các bên thực hiện âm mưu xấu nhằm trục lợi bất chính di sản của nhau. 2.1.3.3. Xâm phạm đến quyền lợi của những người thừa kế bắt buộc
Vấn đề thừa kế bắt buộc đối với di sản của cá nhân được qui định rõ tại Điều 699 BLDS 2005. Theo đó, những người thuộc diện thừa kế bắt buộc (cha, mẹ, vợ hoặc chồng, con chưa thành niên và con đã thành niên mà không có khả năng lao động) có quyền được hưởng 2/3 một suất thừa kế theo pháp luật, nếu họ không được hưởng hoặc thực tế được hưởng ít hơn 2/3 của một suất thừa kế theo pháp luật. Tình huống đặt ra là, di chúc chung chỉ để lại thừa kế cho một số người mà không dành phần di sản cho những người thừa kế bắt buộc kể trên và cũng không dành phần di sản cho một bên vợ hoặc chồng, thì những người đó có được chia thừa kế bắt buộc không? Nếu họ vận dụng qui định tại Điều 699 để xin được hưởng thừa kế bắt buộc thì giải quyết thế nào. Ví dụ: ông A và bà B cùng lập di chúc chung để lại toàn bộ tài sản cho người con cả là C. Di chúc chung của ông A và bà B đã xâm phạm tới quyền được hưởng di sản bắt buộc của các con chưa thành niên khác của ông A và bà B, cũng như của cha, mẹ ông A và cha, mẹ bà B. Vậy, di chúc này có bị vô hiệu một phần không, những người thừa kế bắt buộc này có được khởi kiện đòi chia thừa kế của A, B hay không… là những vấn đề chưa được BLDS 2005 làm rõ, nên chắc chắn sẽ dẫn tới nhiều vướng mắc trong việc thực thi pháp luật. Không loại trừ trường hợp người vợ hay người chồng còn sống, vì lý do
nào đó, đã khởi kiện đòi hưởng thừa kế bắt buộc từ phần di sản của người kia trong di chúc chung thì cũng sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết. 2.1.4. Hình thức của di chúc chung của vợ - chồng
Di chúc cá nhân được lập theo 1 trong 2 hình thức là di miệng và di chúc viết, theo những thủ tục rất chặt chẽ. Dường như ý chí của nhà làm luật muốn di chúc chung sẽ được lập theo những hình thức tương tự như di chúc cá nhân. Nhưng thực tiễn cho thấy, các hình thức và thủ tục để lập di chúc cá nhân không phải lúc nào cũng có thể áp dụng phù hợp cho di chúc chung của vợ, chồng.
2.1.4.1. Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc chung bằng miệng? Theo Điều 651, việc lập di chúc miệng chỉ dành cho cá nhân: “Trong trường hợp tính mạng một người bị cái chết đe dọa do bệnh tật hoặc các nguyên nhân khác mà không thể lập di chúc bằng văn bản thì có thể di chúc miệng”. Do đó, vợ chồng không thể cùng nhau lập di chúc vì một số lý do:
Một là, muốn lập di chúc chung, vợ - chồng phải có sự bàn bạc và thống nhất ý chí chung trước khi cùng nhau lập di chúc. Trong tình trạng bị cái chết đe dọa thì điều này là hạn hữu. Khi không có sự thống nhất quan điểm rõ ràng, thì việc lập di chúc chung sẽ không thể phản ánh đầy đủ và trung thực ý chí cá nhân của mỗi người. Tình trạng này dễ dẫn đến việc một bên quyết định nội dung di chúc chung theo ý chí chủ quan của mình mà không có sự thống nhất ý chí với người kia.
Hai là, thủ tục lập di chúc miệng trực tiếp trước mặt hai nhân chứng, không cho phép hai người phát biểu ý chí cùng một lúc, mà phải từng người phát biểu. Vậy, sự thể hiện ý chí chung sẽ được biểu đạt bằng cách nào? Nếu từng người trình bày riêng ý nguyện của mình, thì thực ra, đó là di chúc cá nhân; còn nếu một người đại diện trình bày ý chí chung và người kia chấp
nhận toàn bộ, thì cũng giống như đã uỷ quyền lập di chúc, mà như vậy thì lại vi phạm nguyên tắc lập di chúc trực tiếp. Hơn nữa, trong hoàn cảnh đặc biệt do cái chết đe dọa cả hai, để một người phát biểu ý chí chung cho người kia nghe và hoàn toàn đồng ý là không thực tê. Ba là, sau 3 tháng kể từ ngày di chúc miệng mà một người chết và một người còn sống, thì toàn bộ di chúc miệng hoặc một phần di chúc miệng liên quan tới người còn sống có còn giá trị thi hành nữa hay không? Vì theo Điều 651 khoản 1: “Sau 3 tháng kể từ thời điểm di chúc miệng mà người di chúc còn sống, minh mẫn, sáng suốt thì di chúc miệng mặc nhiên bị huỷ bỏ”. Trong khi đó, di chúc chung chỉ có hiệu lực khi cả hai người đều đã chết. Bốn là, đang lúc hoàn cảnh bối rối trước sự sống, chết của cả 2 người, việc tiếp nhận và ghi nhớ ý nguyện của mỗi người có thể sẽ không đầy đủ, không chính xác. Ý nguyện của người chết lại không được thể hiện ra thành một dạng vật chất định hình rõ ràng và cố định, rất dễ quên và cũng dễ bị sửa đổi mà lại không có chứng cứ xác đáng thể hiện sự đồng thuận của vợ, chồng. Việc chứng minh được tính chất đồng thuận, tự nguyện của cả hai vợ chồng trong trường hợp này sẽ không bảo đảm được tối đa tính trung thực, khách quan. Chính vì thế, việc cho phép vợ chồng lập di chúc chung bằng miệng sẽ trở nên phức tạp và không bảo đảm sự an toàn pháp lý cho quyền lợi chính đáng của chính người lập di chúc lẫn người thừa kế hợp pháp của họ.
2.1.4.2. Vợ, chồng có thể cùng nhau lập di chúc viết tay mà không có người làm chứng?
Điều 655 BLDS qui định về lập di chúc viết tay của cá nhân: “Người lập di chúc phải tự tay viết và ký vào bản di chúc”. Về mặt lôgic, hai người không thể cùng một lúc viết cùng một nội dung trên cùng một tờ di chúc. Vậy phải từng người viết xong, rồi sau đó, từng người ký tên vào bản di chúc đó. Vấn đề đặt ra là di chúc do một người viết và người kia chỉ ký tên hoặc điểm chỉ
thì có hiệu lực pháp luật không? Hoặc mỗi người viết một đoạn để nói về những quyết định của mình về từng vấn đề khác nhau, rồi sau đó, cùng ký tên vào di chúc thì có được không? Chúng tôi cho rằng, nếu chỉ một người viết toàn bộ di chúc, rồi cả hai cùng ký vào bản di chúc thì không đảm bảo thủ tục lập di chúc viết tay, dễ dẫn đến sự ngụy tạo chữ ký để giả mạo di chúc chung, mà không có cơ sở để giám định bút tích của người lập di chúc. Nhưng việc cả hai cùng nhau và thay nhau viết bằng chữ viết của chính mình để định đoạt tài sản chung, thì không thể thực hiện được trên thực tế, vì như vậy, tức là hai người phải cùng viết giống nhau về cùng một nội dung, thành 2 đoạn khác nhau trên tờ di chúc, mà như vậy thì giống với di chúc cá nhân nhiều hơn. Một bên cũng không thể “uỷ quyền” cho người kia thay mặt để viết ra toàn bộ di chúc, vì trái với nguyên tắc di chúc viết tay phải được viết trực tiếp bằng chữ viết tay. Mặt khác, làm như vậy giống như là viết hộ di chúc, nên sẽ phải tiến hành theo một thủ tục khác, trước mặt ít nhất hai người đủ điều kiện làm chứng để chứng kiến việc lập di chúc chung.
Tóm lại, pháp luật cần phải qui định hình thức riêng cho di chúc chung của vợ chồng, chứ không thể áp dụng giống như di chúc của cá nhân. BLDS 2005 chưa qui định cụ thể vấn đề này là một thiếu sót cần được khắc phục. Tốt nhất, chỉ nên thừa nhận vợ, chồng được lập di chúc bằng hình thức văn bản có người làm chứng hoặc văn bản có công chứng, chứng thực.
2.1.5. Quyền sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung
Việc sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung của vợ, chồng phải dựa trên nguyên tắc nhất trí. Khoản 2 Điều 664 BLDS 2005 qui định: “Khi vợ hoặc chồng muốn sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung thì phải được sự đồng ý của người kia; nếu một người đã chết thì người kia chỉ có thể sửa đổi, bổ sung di chúc liên quan đến phần tài sản của mình”. Điều này tạo ra sự thống nhất cao cho việc lập di chúc chung cũng như việc sửa đổi, bổ sung… di chúc chung. Tuy vậy, nếu một bên muốn thay đổi quyết định trong di chúc chung mà bên kia không đồng ý, thì các bên cũng không được quyền thay đổi. Qui định này tạo ra những vấn đề bất cập sau:
- Thứ nhất, qui định này xâm phạm tới quyền tự do định đoạt của cá nhân đối với tài sản thuộc quyền sở hữu của mình, cũng như vi phạm nguyên tắc tự nguyện trong việc lập di chúc. Nếu một bên vợ hoặc chồng, vì lý do nào đó mà bắt buộc phải sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ di chúc chung đã lập, nhưng không được sự đồng ý của người kia, thì việc sửa đổi, bổ sung đó sẽ không được luật chấp nhận. Thiết nghĩ, qui định này đã xâm phạm quyền tự do định đoạt của người có tài sản và xâm phạm tới sự tự nguyện trong việc lập di chúc, thậm chí, xâm phạm tới lợi ích chính đáng của cá nhân khi cấm họ đưa ra những quyết định cá nhân, nhằm bảo đảm lợi ích cho mình. Điều đó cũng không công bằng đối với bên muốn được sửa đổi, bổ sung, thay thế, hủy bỏ di chúc chung.
- Thứ hai, qui định này cũng tỏ ra thiếu nhất quán vì không cho phép một bên tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi vợ - chồng còn sống, nhưng lại cho phép một bên còn sống có quyền sửa đổi, bổ sung phần di chúc liên quan đến phần tài sản của mình khi một bên vợ hoặc chồng đã chết. Sự thiếu nhất quán trong qui định trên không thể giải thích được, vì thực chất, cả hai trường hợp này đều giống nhau là khi một bên sửa đổi, bổ sung di chúc chung đều không có sự đồng thuận của người kia. Trong khi việc sửa đổi, bổ sung di chúc chung của vợ, chồng cần phải bảo đảm nguyên tắc nhất trí giữa vợ, chồng với tư cách là các đồng sở hữu chủ của tài sản chung. Do đó, nếu đã cho phép một bên được tự ý sửa đổi, bổ sung di chúc chung khi một bên đã chết, thì cũng cần phải công nhận quyền của một bên được tự mình sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan đến tài sản của mình, khi không tìm thấy sự đồng thuận của bên kia.
- Thứ ba, qui định trên cũng chưa dự liệu các khả năng khác khiến di chúc phải bị sửa đổi, bổ sung mà không thể tìm được sự đồng thuận của vợ, chồng do vợ, chồng đã mâu thuẫn và sống ly thân, ly hôn hoặc do một bên vợ hoặc chồng còn sống, nhưng đã bị tuyên bố mất tích, bị tuyên bố mất năng lực hành vi dân sự, bị mất trí, bị bệnh lú lẫn tuổi già… khiến cho họ không còn thể hiện được ý chí cá nhân được nữa. Điều này chưa được qui định rõ ràng trong luật, nên dễ dẫn đến sự lúng túng và thiếu nhất quán trong việc áp dụng và thực thi pháp luật liên quan đến vấn đề vừa nêu.
Suy cho cùng, lập di chúc chung là sự thể hiện tập trung của nguyên tắc củng cố tình thương yêu, đoàn kết trong gia đình. Nhưng việc níu kéo các bên vợ chồng, buộc họ phải nhất trí với nhau, trong hoàn cảnh mâu thuẫn giữa họ không thể dung hoà được nữa, thì việc lập di chúc chung hay cố giữ lại di chúc chung cũng không phải là cách hữu hiệu khiến cho họ trở nên thương yêu, đoàn kết với nhau hơn, mà chưa biết chừng, đó còn là tiền đề làm cho mâu thuẫn giữa các bên càng trở nên trầm trọng thêm, nhất là khi ý nguyện tự do của một bên (muốn sửa đổi, bổ sung di chúc chung) bị bên kia khước từ.
2.1.6. Hiệu lực của di chúc chung của vợ - chồng
Vấn đề hiệu lực pháp luật của di chúc chung vốn đã gây ra rất nhiều tranh cãi giữa các chuyên gia pháp luật thừa kế, khi góp ý cho Dự thảo BLDS 2005. Sở dĩ có sự bất đồng này là do thời điểm có hiệu lực của di chúc chung không trùng với thời điểm mở thừa kế10. Điều 668 BLDS 2005 qui định: “Di chúc chung của vợ, chồng có hiệu lực từ thời điểm người sau cùng chết hoặc tại thời điểm vợ, chồng cùng chết”. Giải pháp này đã đơn giản hóa việc thực thi di chúc chung (vì chỉ chia thừa kế theo di chúc chung một lần), so với giải pháp của BLDS 199511. Mặc dù vậy, việc xác định di chúc chung của vợ chồng phát sinh tại thời điểm người sau cùng chết lại phát sinh những vấn đề phức tạp khác sau đây:
- Thứ nhất, phải chia thừa kế nhiều lần đối với di sản của người vợ hay chồng chết trước Thực tế cho thấy, một cá nhân có thể có nhiều sản nghiệp, bao gồm tài sản riêng của cá nhân và phần tài sản chung với vợ hay chồng, chưa kể có thể họ còn có nhiều vợ hay nhiều chồng hợp pháp khác. Nếu xác định di chúc chung chỉ có hiệu lực dựa vào “cái chết sau cùng”, thì sẽ có ít nhất hai lần “chia thừa kế” đối với di sản của người vợ hay người chồng chết trước. Lần thứ nhất là chia thừa kế đối với phần di sản là tài sản riêng hoặc những tài sản chung khác không định đoạt trong di chúc chung, dựa vào thời điểm mở thừa kế. Lần thứ hai là chia thừa kế phần di sản định đoạt trong di chúc chung của vợ, chồng, khi di chúc chung có hiệu lực. Người thừa kế của bên chết trước sẽ phải mất hai lần yêu cầu phân chia di sản và rất có thể, toà án sẽ phải hai lần thụ lý và giải quyết hai vụ tranh chấp khác nhau trên di sản của cùng một người. Điều này không chỉ gây khó khăn cho người thừa kế của người chết trước, làm phức tạp thêm tính chất của vụ việc, mà còn gây khó khăn cho các cơ quan chức năng trong việc giải quyết tranh chấp thừa kế 12, thậm chí, có thể còn vi phạm nguyên tắc “nhất sự bất tái cứu” trong tố tụng (vụ việc đã xét xử xong rồi thì toà án không thụ lý, giải quyết lại), vì phải tiến hành xét xử nhiều lần để phân chia di sản của người chết. - Thứ hai, làm ảnh hưởng nghiêm trọng tới quyền và lợi ích hợp pháp của những người thừa kế của người vợ hay chồng chết trước
Quyền thừa kế đối với di sản của người chết trước phát sinh từ thời điểm mở thừa kế, nhưng cho đến khi di chúc chung chưa phát sinh hiệu lực, những người thừa kế của người chết trước sẽ không thể yêu cầu phân chia di sản của người chết đã được định đoạt trong di chúc chung và phần di sản liên quan tới phần nội dung di chúc chung bị vô hiệu, nếu có; hoặc trong trường hợp người vợ hay người chồng vẫn còn sống lâu hơn so với tuổi thọ của những người
thừa kế hợp pháp của người chết trước (như cha, mẹ của người chết trước, người thừa kế là con riêng chưa thành niên đang đau yếu cần có tiền để chữa bệnh…), làm những người này mất quyền được hưởng di sản. Điều này đã xâm phạm tới quyền thừa kế hợp pháp của công dân được hiến pháp và pháp luật bảo hộ. - Thứ ba, gây khó khăn cho việc xác định phạm vi những người thừa kế và tư cách của người được thừa hưởng di sản.
Nếu những người thừa kế (của vợ, chồng đã quá cố hoặc những người được chỉ định trong di chúc chung) chết sau thời điểm mở thừa kế, nhưng chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, thì họ có còn được hưởng thừa kế nữa không, có chia thừa kế thế vị hay thừa kế chuyển tiếp không; hoặc những người trong diện thừa kế hợp pháp (của người vợ hoặc chồng còn sống), nhưng tư cách thừa kế của họ được xác định trước khi di chúc chung có hiệu lực (như vợ, chồng tái hôn hoặc con riêng với người vợ, chồng sau…), thì họ có được thừa kế bắt buộc đối với phần di sản đã được định đoạt trong di chúc chung hay không; hoặc những được chỉ định trong di chúc chung chết trước khi di chúc chung có hiệu lực, nhưng chết sau thời điểm mở thừa kế của người vợ hay chồng đã quá cố, thì họ có thuộc thừa kế theo di chúc chung hay không… là những vấn đề chưa được qui định trong pháp luật hiện hành, làm ảnh hưởng rất nhiều đến việc xác định tư cách người thừa kế và các qui định khác có liên quan.
- Thứ tư, làm ảnh hưởng đến thời hiệu khởi kiện thừa kế đối với di sản của người chết trước.
Thời hiệu khởi kiện thừa kế là 10 năm kể từ thời điểm mở thừa kế. Nếu hết 10 năm đó mà người kia vẫn còn sống, thì thời hiệu khởi kiện xin chia thừa kế đối với phần di sản của người chết trước cũng không còn. Nếu vì lý do nào đó, chẳng hạn nội dung di chúc chung vi phạm pháp luật, có dấu hiệu lừa dối, giả mạo… mà người thừa kế không biết để khởi kiện kịp thời (do di chúc chung chưa được công bố), đến khi người sau cùng chết mà thời hiệu khởi kiện không còn, thì quyền lợi của người thừa kế của người chết trước cũng như những người thừa kế hợp pháp của cả vợ, chồng có được bảo vệ không, cũng chưa được pháp luật qui định rõ. Vấn đề đã đuợc chúng tôi đề cập trong một bài viết khác về thời hiệu khởi kiện thừa kế 13.
- Thứ năm, nếu tình trạng không phân chia di sản kéo dài quá lâu, khiến cho di sản là tài sản chung không còn nguyên vẹn do bị tiêu huỷ, giảm sút giá trị, hoặc do sự đầu tư, sửa chữa, tu bổ làm tài sản tăng giá trị, thì hậu quả của nó càng hết sức phức tạp, việc xác định giá trị của tài sản chung trong trường hợp này sẽ rất khó khăn, sẽ càng tạo ra nhiều tranh chấp khác rất khó giải quyết.
Như vậy, thời điểm phát sinh hiệu lực pháp luật của di chúc chung, không đơn giản chỉ là căn cứ để phân chia di sản theo di chúc chung, mà sẽ ảnh hưởng tới thời hiệu khởi kiện, quyền thừa kế di sản của người chết trước, xác định phạm vi những người thừa kế hợp pháp, xác định giá trị di sản của người chết và những biến động của nó… Qua đó, sẽ làm cho việc chia thừa kế theo di chúc chung trở nên khó khăn, phức tạp thêm.
2.1.7. Vấn đề chấm dứt sự tồn tại của di chúc chung Di chúc chung có nhiều tính chất khác biệt so với di chúc cá nhân. Dù vậy, nhà làm luật vẫn không dự liệu các căn cứ riêng biệt đương nhiên làm chấm dứt di chúc chung. Như đã biết, di chúc chung được hình thành dựa trên hai yếu tố quan trọng của quan hệ vợ - chồng, đó là tình cảm vợ - chồng và tài sản chung của vợ - chồng. Nếu hai yếu tố này mất đi thì di chúc chung cũng không còn ý nghĩa. Trên thực tế sẽ phát sinh nhiều tình huống pháp lý khiến cho hai yếu tố trên bị thay đổi, như trường hợp: các bên vợ chồng ly hôn; chia tài sản chung trong khi hôn nhân đang tồn tại; một bên mất tích hoặc bị toà án tuyên bố chết và người còn lại đã kết hôn với người khác, sau đó người bị tuyên bố chết còn sống trở về, nhưng không thể tái hợp quan hệ vợ chồng; hoặc sau khi có di chúc chung, vợ chồng lại định đoạt tài sản chung vào một mục đích khác, như tặng cho, bán; vợ hay chồng còn sống đã kết hôn với người khác hoặc có những quyết định làm ảnh hưởng tới hiệu lực hoặc sự tồn tại của di chúc chung (như quyết định sửa đổi, bổ sung, thay thế, huỷ bỏ phần di chúc chung liên quan tới phần tài sản của họ trong tài sản chung của vợ, chồng…). Đây là những trường hợp dẫn đến việc chấm quan hệ vợ - chồng, hoặc chấm dứt tình trạng sở hữu