ĐẶT VẤN ĐỀ
NỘI DUNG CHUYÊN ĐỀ
Phần thứ nhất
MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN SÁCH NHÀ NƯỚC
I. Khái niệm về NSNN và chính sách tài khoá.
II. Bản chất, chức năng và vai trò của NSNN nói chung, của Hà Giang nói riêng trong sự nghiệp phát triển kinh tế -xã hội .
III. Quan điểm của Đảng và Nhà nước ta về chính sách động viên tài chính nói chung và thuế nói riêng cho ngân sách Nhà nước.
Phần thứ hai
TÌNH HÌNH VỀ TỰ NHIÊN- KINH TẾ-XÃ HỘI VÀ THƯC TRẠNG CÔNG TÁC QUẢN LÝ SỬ DỤNG NSNN TỈNH HÀ GIANG
I. Điệu kiện tự nhiên- kinh tế-xã hội của tỉnh Hà Giang.
II. Thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN tỉnh Hà Giang 1997- 1999.
III. Đánh giá tình hình công tác quản lý thu thuế trong mấy năm qua.
Phần thứ ba
PHƯƠNG HƯỚNG VÀ NHỮNG GIẢI PHÁP CHỦ YẾU ĐỂ NÂNG CAO CÔNG TÁC QUẢN LÝ VÀ SỬ DỤNG NSNN CỦA TỈNH HÀ GIANG
I. Phương hướng, mục tiêu chung.
II. Những giải pháp chung chủ yếu để nâng cao công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh Hà Giang
Kiến nghị và kết luận.
I. Kiến nghị
II. Kết luận.
Danh mục tài liệu tham khảo
55 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1229 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về nâng cao công tác quản lý và sử dụng ngân sách nhà nước trên địa bàn tỉnh Hà Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng, chì, sắt, vàng, nước khoáng... khoáng sản có nhiều triển vọng nếu được đầu tư thăm dò khai thác thích hợp.
2. Điều kiện kinh tế - xã hội của tỉnh Hà Giang
* Dân số và lao động: Dân số toàn tỉnh tính đến 1/4/1999 có: 60,268 vạn người với 22 dân tộc, trong đó 90% là đồng bào dân tộc thiểu số. Trong đó dân tộc Mông chiếm 31,3%; Tày 26,5%; Dao 15,3%; Kinh 11,8% còn lại các dân tộc ít người khác.
Hà Giang có 9 Huyện và 1 thị xã tỉnh lỵ, trong đó có 7 Huyện vùng cao biên giới thì có 4 huyện đặc biệt khó khăn trong 9 Huyện khó khăn nhất cả nước. Hiện nay toàn tỉnh có 128/191 xã thuộc diện xã đặc biệt khó khăn (vùng III).
* Về sự phân vùng kinh tế:
Xuất phát từ điều kiện, đặc điểm tự nhiên, kinh tế, xã hội tỉnh Hà Giang hình thành làm 3 vùng kinh tế - xã hội và mỗi vùng có các tiềm năng thế mạnh khác nhau:
- Vùng cao núi đá gồm 4 huyện phía Bắc là Mèo Vạc, Đồng Văn, Yên Minh, Quản Bạ. Đây là vùng khó khăn nhất so với cả nước. Diện tích toàn vùng này là 2.353 km2, độ cao trung bình: 1000 - 1600m; Dân số: 203.027 người, khí hậu đất đai phù hợp với trồng cây ôn đới, dược liệu. Sản xuất nông nghiệp chủ yếu là trồng ngô một vụ trên đất hốc đá, chăn nuôi là bò, ngựa, dê, ong và gia cầm. Trong vùng có tiềm năng về khoáng sản.
Khó khăn lớn của vùng: Khí hậu khắc nghiệt của mùa đông kéo dài, nhiệt độ thấp 5 - 100C, có năm tuyết rơi, sương muối ảnh hưởng tới phát triển nông nghiệp, là vùng cao núi đá tình trạng thiếu nước sinh hoạt, nghiêm trọng nhất là trong những tháng mùa khô lên tới 10 vạn dân. Thu nhập bình quân chỉ đạt 70 - 80 USD/người/năm. Tỷ lệ người mù chữ thất học vẫn còn rất cao, địa hình hiểm trở, diện tích canh tác manh mún, giao thông đi lại khó khăn.
- Vùng cao núi đất gồm 2 huyện Hoàng Su Phì và Xín Mần; diện tích vùng này là 1460 km2, độ cao trung bình 500 - 900 m; Dân số: 105.083 người, khí hậu thích hợp với những cây ôn đới, thuận lợi cho phát triển rừng, nuôi ong, trồng cây công nghiệp như chè, thông nhựa, trẩu, đậu tương... cây lượng thực chính là lúa, ngô, chăn nuôi chủ yếu là trâu, bò, ngựa, dê... và gia cầm.
Khó khăn lớn nhất của vùng này là độ dốc rất lớn, hệ thống giao thông dễ sạt lở và sinh lầy trong mùa mưa lũ. Thu thập bình quân 80 -90 USD/người/năm, về văn hoá xã hội cũng khó khăn tương tự như vùng cao.
- Vùng thấp gồm 3 huyện, thị xã: Bắc Quang, Bắc Mê, Vị Xuyên và thị xã Hà Giang. Diện tích tự nhiên là 4071 km2, độ cao trung bình 100 - 500 m; dân số: 294.574 người. Đây là vùng phù hợp với cây nhiệt đới phát triển như cam, quýt, dược liệu, cây công nghiệp như chè, cà phê, quế, dâu tằm, đậu tương, lạc... cây lương thực chủ yếu là lúa nước, ngô. Chăn nuôi: trâu bò, dê, cá và gia cầm. Trong vùng có cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ rất thuận lợi cho giao lưu kinh tế, văn hoá với Trung Quốc, có điều kiện về xuất nhập khẩu và phát triển thương mại, dịch vụ...
Đây là vùng thuận lợi nhất của tỉnh, song vẫn là khu vực còn những khó khăn về đời sống kinh tế - xã hội. Thu nhập bình quân ở mức 100 - 130 USD/người/năm. Hầu hết hệ thống thuỷ lợi, kênh mương chưa được kiên cố hoá.
* Thực trạng sản xuất nông, lâm nghiệp của tỉnh trong những năm vừa qua:
- Một số kết quả chung về phát triển kinh tế xã hội của tỉnh:
Thực hiện đường lối của Đảng và chính sách của Nhà nước, trong đó vấn đề quan trọng có tính chiến lược lầu dài là chủ trương phát triển kinh tế nhiều thành phần vận hành theo cơ chế thị trường có sự quản lý của Nhà nước theo định hướng XHCN. Trong quá trình xây dựng và phát triển kinh tế Tỉnh đã phát huy được cơ bản các thành phần kinh tế tham gia trong sản xuất kinh doanh, khẳng định hộ nông dân là một đơn vị tự chủ trong kinh tế... đồng thời đã thực hiện tốt các chính sách của Đảng và Nhà nước nhất là Nghị quyết 22 NQ Trung ương của Bộ Chính trị, và Nghị quyết 72CT của Chủ tịch Hội đồng Bộ Trưởng về một số chính sách phát triển kinh tế xã hội miền núi, các Quyết định 327CP về sử dụng đất trống đồi núi trọc, và các chính sách vay vốn, trợ giá trợ cước vận chuyển và đảm bảo các hàng thiết yếu cho miền núi, chương trình 06CP về không trồng thuốc phiện và cai nghiện ma tuý; chương trình y tế và giáo dục VHXH đã trực tiếp thúc đẩy kinh tế xã hội ở địa phương.
Về sản xuất: Trong những năm qua nền kinh tế của tỉnh phát triển tăng dần, đã duy trì nhịp độ tăng trưởng GDP từ 9 - 10,0% ( Năm 1994 GDP tăng 9,1% thì năm 1999 tăng 10,3%). GDP bình quân đầu người tăng từ 685.000 đồng năm 1994 lên 1.535.000 đồng năm 1999, chất lượng và hiệu quả của nền kinh tế nông lâm nghiệp lạc hậu mang tính tự cấp tự túc của những năm trước đây thì vài ba năm nay sản xuất hàng hoá đã bắt đầu phát triển, đã hình thành được một số vùng sản xuất tập trung. Cơ cấu kinh tế được chuyển dịch đúng hướng.
+ Tỷ trọng các ngành nông lâm nghiệp trong GDP giảm từ 63% năm 1994 xuống còn 61,8% năm 1995 và đến năm 1998 là 52,60%, năm 1999 là 51,46%. Nông lâm nghiệp phát triển tương đối toàn diện, nhiều giống cây, con có chất lượng và năng suất cao được đưa vào sản xuất đại trà, việc đưa những tiến bộ khoa học kỹ thuật vào sản xuất tạo nên sự chuyển biến rõ rệt trong sản xuất. Sản lượng lương thực quy thóc tăng từ 14,5 vạn tấn năm 1994 lên 18,4 vạn tấn trong năm 1999 tăng gần 4 vạn tấn. Chăn nuôi phát triển khá năm sau đều tăng hơn năm trước từ 4 - 5% năm.
+ Tỷ trọng ngành công nghiệp + xây dựng từ 17,02% năm 1994 lên 21,3% năm 1999. Trong công nghiệp từ chỗ hầu như chưa có gì, sản xuất quy mô thiết bị nhỏ bé lạc hậu nay đã bắt đầu được mở mang xây dựng phát huy tác dụng như: Nhà máy Xi măng 4 vạn tấn/năm, dây truyền Nhà máy gạch 15 triệu viên/năm, nhiều cơ sở chế biến chè, chế biến nông sản thực phẩm.. ra đời thu hút sản phẩm nông nghiệp và tạo công ăn việc làm cho hàng ngàn lao động. Nguồn điện lưới đã tới 10/10 huyện, thị trên toàn tỉnh...
+ Tỷ trọng ngành dịch vụ tăng từ 19.9% năm 1994 lên 27,13% năm 1999. Các hoạt động lĩnh vực thương mại, dịch vụ, tiền tệ tín dụng cơ bản đáp ứng được các nhu cầu, phát triển cho các thành phần kinh tế thu ngân sách tăng từ 24 tỷ đồng năm 1994 lên 64 tỷ đồng năm 1999... Giá trị hàng hoá xuất khẩu và có tính chất xuất khẩu đạt 6,1 triệu USD/năm...
+ Về xây dựng cơ sở hạ tầng: Đã có bươc phát triển khá về số lượng chất lượng, góp phần to lớn trong việc phát triển nền kinh tế xã hội theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá. Các tuyến quốc lộ, tỉnh lộ đang từng bước được nâng cấp, mở rộng nhựa hoá. Đến nay có 232 km đường quốc lộ và 91 km đường tỉnh lộ được nhựa hoá. Đường cửa khẩu quốc gia Thanh Thuỷ, cửa khẩu tiểu ngạch được khai thông... Đặc biệt đến nay có 183/191 xã có đường về đến trung tâm xã...
Công tác thuỷ lợi có những chuyển biến mạnh. Từ những công trình trước đây còn tạm bợ, chưa được kiên cố hoá, khả năng tưới 22.000 ha thì đến nay đã có 215 công trình lớn nhỏ được sửa chữa nâng cấp, cộng với 5283 công trình siêu nhỏ do dân tự làm với năng lực tưới đạt trên 28.000 ha.
+ Sự nghiệp y tế - Giáo dục - phát thanh , truyền hình trên địa bàn tỉnh đã từng bước được phát triển mở rộng, đã xoá được tất cả các xã trắng không có trạm xá và từng bước xây dựng kiên cố vững chắc. Tỉnh được công nhận đạt tiêu chuẩn quốc gia về hoàn thành phổ cập giáo dục tiểu học và chống mù chữ trên địa bàn toàn tỉnh vào năm 1999. Tỷ lệ phủ sóng phát thanh đạt 67,7%, sóng truyền hình đạt 61% năm 1999. An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được đảm bảo. Từ những kết quả chung nêu trên đã có tác dụng kích thích môi trường thuận lợi cho sản xuất kinh tế phát triển, có nhu nhập đời sống dần tăng lên. Tỷ lệ đói nghèo giảm từ 35% năm 1998 xuống còn 22% năm 1999, tỷ lệ hộ khá giàu đạt 3-4%, các khoản thu cho NSNN cũng tăng lên.
- Thực trạng của cơ cấu ngành và sản xuất nông, lâm nghiệp trong những năm qua của địa phương:
+ Về nông nghiệp: Là một ngành kinh tế truyền thống đồng thời là ngành quan trọng hàng đầu trong các ngành kinh tế của tỉnh. Trên cơ sở về tiềm năng đất đai, khí hậu, được sự đầu tư giúp đỡ của Chính phủ, sự lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng bộ, Chính quyền tỉnh cộng với sự vượt khó đi lên của nhân dân các dân tộc trong những năm gần đây bộ mặt nông thôn và đời sống nhân dân đã có nhiều chuyển biến phát triển rõ nét. Sản xuất nông, lâm nghiệp năm sau đều cao hơn năm trước.
Tỉnh đã tập trung chỉ đạo phát triển nông, lâm nghiệp một cách tòan diện, bằng nhiều biện pháp tích cực, như làm thuỷ lợi, cung ứng vật tư kỹ thuật, công tác khuyến nông, khuyến lâm; có chính sách hỗ trợ sản xuất kịp thời để mở rộng diện tích thâm canh, thay đổi cơ cấu mùa vụ, đưa giống mới có năng suất cao vào sản xuất.
Tổng sản lượng quy thóc toàn tỉnh tăng lên đáng kể qua các năm. Nếu năm 1995 đạt 15,4 vạn tấn thì đến năm 1999 sản lượng lương thực quy thóc đạt 18,4 vạn tấn tăng 3,0 vạn tấn. Tăng bình quân mỗi năm 6000 tấn. Thể hiện qua biểu sau:
Biểu 1. Sản lượng lương thực quy thóc
Sản lượng
Tổng số
Chia ra
Năm
(tấn)
Thóc (tấn)
Màu (tấn)
1995
154.158,4
85.422,3
68.736,1
1996
159.057
89.424
69.633
1997
165.479
95.581
69.898
1998
175.840,6
100.885,4
74.955,2
1999
184.000
109.800
74.800
Chỉ số phát triển về sản lượng lương thực quy thóc qua biểu trên ta thấy năm sau thường tăng hơn so năm trước từ 5-6%.
Có được sản lượng tăng như trình bày trên đó là nhờ việc mở rộng diện tích ở những nơi có điều kiện canh tác, làm thuỷ lợi, đồng thời tăng cường các biện pháp thâm canh, áp dụng giống mới để đẩy mạnh năng suất cây trồng.
Bỉểu 2. Tổng diện tích cây lương thực từ năm 1995 đến 1999
Năm
Tổng số
Trong đó
(ha)
Lúa (ha)
Màu (ha)
1995
75.600,1
29.208,3
46.451,8
1996
76.999,5
29.896,0
47.103,5
1997
77.100,4
29.447,7
47.652,7
1998
77.880,4
29.684,6
48.205,8
1999
76.280,0
30.364,6
45.916,0
Chỉ số phát triển về diện tích cây lương thực: Năm trước là 100% thì năm sau thường tăng hơn 1,02%- 1,068%.
Năng suất lúa ruộng cả năm: nếu năm 1995 đạt 31,3 tạ/ha cả năm thì năm 1999 đạt 38,05 tạ/ha, tăng hơn 7,2 tạ/ha. Năng suất ngô cả năm năm 1995 đạt 13,64 tạ/ha thì năm 1999 đạt 18-20 tạ/ha.
Bên cạnh cây lương thực cây công nghiệp ngắn ngày cũng đuợc phát triển khá tạo ra những vùng tập trung có sản lượng hàng hoá trao đổi như huyện Hoàng Su Phì, Bắc Quang, Vị Xuyên đặc biệt là cây đậu tương: Năm 1995 diện tích 3.271 ha đến năm 1999 diện tích 5079,9 ha tăng 1,826 ha, năng suất đạt 6,53 tạ/ha. Đưa tổng sản lượng năm 1999 lên 3.338 tấn tăng gấp 2 lần so với năm 1995. Sản lượng bán ra hàng năm trên 2.500 tấn.
Một số cây công nghiệp ăn quả chính dài ngày như cây chè, cà phê, cây ăn quả cam, quýt đang có chiều hướng tăng lên đáng kể tạo ra hàng hoá lớn trên địa bàn nâng cao thu nhập và đời sống nhân dân. Cây soài, cây lê, cây hồng cũng đã phát triển mở ra hướng chuyển đổi mới về cơ cấu cây trồng cho vùng cao. Kết quả thể hiện:
Biểu 3. Diện tích cây công nghiệp lâu năm
Diện tích
Tổng số
Chia ra
Năm
(ha)
Chè (ha)
Cà phê (ha)
1995
6.473,3
6.220,9
249
1997
8.617,3
7.613,6
1003,7
1998
9.361,1
8.621,3
739,4
1999
9.654,7
9.654,7
769,4
Chỉ số phát triển (nếu lấy năm trước là 100%) thì năm sau tăng hơn năm trước bình quân 13%.
Về sản lượng cây chè và cà phê tăng khá nhanh, đạt chất lượng tốt cho xuất khẩu và tiêu thụ nội địa. Đặc biệt là cây chè Santuyết trên núi cao 500-1000 m đạt độ sạch và chất lượng cao được nhiều người ưa dùng.
Năm 1995 sản lượng chè búp tươi đạt 9,624 nghìn tấn, thì năm 1999 đạt 16,2 nghìn tấn, và đã tạo ra trên 2500 tấn chè khô hàng hoá xuất khẩu và tiêu thụ nội địa.
Cây ăn quả: được phát triển mạnh, năm 1995 tổng cây ăn quả đạt 3.395 ha đến năm 1999 lên tới 6.345 ha tăng gần gấp 2 lần. Trong đó diện tích cam, quýt đạt 4.638 ha, sản lượng quả 12,8 ngàn tấn, cây soài hiện có 354 ha, nhãn, vải, hồng không hạt 103,6 ha, lê 66,28 ha.
Ngành trồng trọt phát triển đã thúc đẩy cho ngành chăn nuôi cũng được phát triển nhanh, tổng đàn năm sau cao hơn năm trước. Đặc biệt tổng đàn trâu bò, đàn lợn, gia cầm... có sản lượng thịt hơi xuất chuồng đều tăng, tốc độ tăng của đàn gia súc hàng năm từ 4-5% năm, đàn gia cầm 3-4%. Thể hiện qua các biểu sau:
Biểu 4. Số lượng gia súc, gia cầm
Đơn vị: con
Trâu
Bò
Lợn
Ngựa
Dê
Gia cầm
T. số con năm 1995
110.541
42.749
195.335
24.283
72.732
1.031.326
1997
116.998
45.779
211.144
25.009
78.185
1.073.000
1998
120.542
48.301
220.180
25.115
82.436
1.118.332
1999
127.428
51.955
236.000
25.250
88.716
1.250.350
Tính đến năm 1999 chỉ số PT bình quân %
3,2
5,5
4,2
0,4
5,4
4,2
Biểu 5. Sản lượng thịt hơi xuất chuồng chủ yếu
Đơn vị: tấn
1995
1997
1998
1999
99/95%
Trâu
390,1
411
423
450
115
Bò
369,4
392,8
412
430
116
Lợn
3.353,1
3.857,0
4.050
4.350
135
Gia cầm
1.102
1.175,4
1.223
1.320
119,7
Hiện nay tỉnh tập trung thực hiện chương trình hỗ trợ cho vay đầu tư phát triển trâu bò hàng hoá với chương trình 3 vạn con trâu bò. Năm 1999 đã thực hiện được gần 10.000 con.
Năm 1999 diện tích nuôi trồng thuỷ sản có 900 ha, tăng hơn năm 1995 là 120 ha. Sản lượng thuỷ sản năm 1999 đạt 820 tấn.
Đàn ong năm 1999 có 9.009 tổ, tăng 3% so với năm 1998 cho sản lượng 40 tấn mật.
+ Về lâm nghiệp: Là tỉnh có diện tích đất rừng tự nhiên nhiều, nhưng hiện tại phần lớn là đất trống đồi núi trọc, rừng đầu nguồn và rừng phòng hộ. Những năm trước đây do tệ nạn khai thác không có tổ chức, buôn bán trái phép, dân du canh dư cư nhiều, mặt khác ảnh hưởng chiến tranh thế giới tàn phá, nên đã làm cho rừng ngheo kiệt, làm mất cân bằng hệ sinh thái; Ngoài ra việc giao đất giao rừng chưa hợp lý, người dân chưa thực sự được làm chủ đất rừng, nên ảnh hưởng đến sự phát triển kinh tế -xã hội và nguồn thu của nhân dân.
Nhưng những năm gần đây do thực hiện tốt chủ trương giao đất giao rừng đến từng hộ và nguời lao động (đến năm 1998 diện tích đất nông nghiệp đã giao tới xã đạt 93% và 92,4% đất lâm nghiệp). Đặc biệt thông qua chương trình 327, ĐCĐC... Rừng Hà Giang đã tái sinh trở lại. Công tác trồng, chăm sóc, bảo vệ, khoanh nuôi được tăng cường rừng đã trở lại mầu xanh, độ che phủ của rừng từ 22% năm 1992 nay đã nâng lên 35% năm 1999.
Kết quả năm 1995- 1999:
- Diện tích đất rừng được giao tới hộ 126.088 ha, bình quân mỗi hộ 4-5 ha đất rừng.
- Trồng rừng 17.773 ha, bình quân mỗi năm trồng 3.554 ha
- Chăm sóc rừng trồng 21.218 ha, bình quân mỗi năm 4.243 ha
- Bảo vệ rừng 145.263 ha, bình quân mỗi năm bảo vệ 29.053 ha
- Khoanh nuôi rừng 25.455 ha, bình quân mỗi năm là 5.091 ha
Về sản phẩm lâm nghiệp chủ yếu khai thác hàng năm:
- Gỗ tròn bình quân mỗi năm khai thác 60.200 m3
- Củi khai thác bình quân mỗi năm 103.800 m3
- Tre, vầu, nứa bình quân mỗi năm 2.500 triệu cây.
Tổng giá trị sản xuất của ngành lâm nghiệp trên địa bàn bình quân năm đạt 139.00 triệu đồng/năm.
Trong đó: - Trồng và nuôi rừng 23.000 triệu đồng/năm
- Khai thác và thu hoạch 116.000 triệu đồng.
+ Về tình hình phát triển kinh tế HTX và kinh tế trang trại:
Theo báo cáo của các huyện, thị đến tháng 9 năm 1998 toàn tỉnh có 693 HTX (Trong đó nông nghiệp 680, tiểu thủ công nghiệp có 6, tín dụng 4, thuỷ sản 2, vận tải 1).
Đến nay việc triển khai thực hiện Luật HTX trong phạm vi toàn tỉnh đã chuyển đổi và thành lập được 135 HTX mới theo luật. (Trong đó có 131 nông nghiệp, 4 tiểu thủ công nghiệp, 2 tín dụng, 1 vận tải, 1 dịch vụ vật tư xây dựng, 2 thuỷ sản).
Đây là những mô hình tiên tiến có tác dụng tốt trong việc phát triển theo hướng sản xuất hàng hoá và làm dịch vụ cho kinh tế hộ gia đình, tạo điều kiện cho họ được quyền tự chủ trong mọi hoạt động sản xuất kinh doanh.
- Về kinh tế trang trại, trong những năm gần đây Hà Giang đã có sự quan tâm phát triển mô hình này.
Tổng số trang trại lớn, nhỏ tính đến năm 1998 toàn tỉnh có trên 2000 hộ dân làm kinh tế trang trại, trong đó chính sách 478 hộ kinh doanh nông, lâm, ngư nghiệp theo mô hình trang trại quy mô từ 2 ha trở lên, chiếm 0,48% tổng số hộ toàn tỉnh. Trong số hộ trên riêng huyện Bắc Quang có khoảng 100 hộ, đạt doanh thu hàng năm từ 100-200 triệu đồng.
Đây thực sự là một mô hình mới về phát triển nông, lâm nghiệp hàng hoá đúng hướng có hiệu quả cần được tiếp tục nghiên cứu, tổng kết và tạo điều kiện để khuyến khích mở rộng.
+ Về đầu tư phát triển:
Được sự hỗ trợ của Chính phủ cộng với tinh thần phát huy nội lực của địa phương trong những năm qua, hướng đầu tư cho nông nghiệp, lâm nghiệp xây dựng cơ sở hạ tầng kỹ thuật và các chính sách trợ cước, trợ giá trong chương trình phát triển nông, lâm nghiệp của tỉnh năm sau để tăng hơn năm trước. Đảm bảo cho sản xuất tăng trưởng, phát triển ổn định bền vững.
Trong 6 năm từ 1994-1999, tổng số nguồn vốn đầu tư cho phát triển các lĩnh vực trên toàn tỉnh là 1424,3 tỷ đồng thì đầu tư cho nông, lâm nghiệp là 297,4 tỷ đồng bằng 20,88%. Đặc biệt năm 1999 đầu tư cho nông nghiệp lên tới 88,2 tỷ đồng/354,6 tỷ đồng chiếm 24,87%.
+ Về hoạt động thương mại- du lịch:
Hà Giang có đường biên giới giáp với Trung Quốc dài trên 270 km có cửa khẩu Quốc gia Thanh Thuỷ và Phó Bảng, ngoài ra còn có các cửa khẩu tiểu ngạch rất thuận tiện cho giao lưu buôn bán với Trung Quốc. Có những địa danh độc đáo như Căng Bắc Mê, Núi Cấm, Cổng Trời, Suối Tiên, Chum vàng chum bạc, Núi Cô Tiên và một số di tích lịch sử được xây dựng từ thế kỷ 19 như Chùa Sùng Khánh, Nhà Vương... và các hang động, rừng đặc dụng phòng hộ khu bảo tồn thiên nhiên khác...
Các hoạt động thương mại và du lịch tiếp tục được củng cố và phát triển. Công tác quảnlý hoạt động thương nghiệp quốc doanh được chấn chỉnh do đã hạn chế được thua lỗ trong kinh doanh. Đồng thời khuyến khích mạng lưới thương nghiệp, dịch vụ ngoài quốc doanh phát triển đúng hướng đã góp phần làm đa dạng các mặt hàng phục vụ sản xuất và đời sống nhân dân.
Tổng giá trị hàng xuất khẩu đạt 4,3 triệu USD. Trong đó mặt hàng chủ yếu là chì, quặng ăng ti môn.
Về giá trị du lịch đạt 4,5tỷ đồng, tăng 4% so với năm 1998. Tuy nhiên hoạt động thương mại chưa làm tốt chức năng hướng dẫn sản xuất, tổ chức thu mua và tiêu thụ sản phẩm, đặc biệt là đối với hàng nông- lâm sản.
Tóm lại, trong những năm qua thực hiện đường lối của Đảng nhất là từ Nghị quyết VII và VIII của Đảng về CNH, HĐH. Trên cơ sở các Nghị quyết cụ thể của Trung ương Đảng chỉ đạo trên từng lĩnh vực. Được sự quan tâm từ Trung ương Đảng, Chính phủ và các Bộ, ngành Trung ương, Đảng bộ và các dân tộc trong tỉnh đã nhận rõ trách nhiệm của mình, lãnh đạo chỉ đạo sự nghiệp phát triển kinh tế-xã hội trên địa bàn và đạt được các mục tiêu cơ bản sau đây:
- Về kinh tế đã phát duy trì được tốc độ tăng trưởng khá, GDP bình quân tăng 9-10%/năm. Cơ cấu kinh tế chuyển dịch theo hướng tiến bộ.
- Cơ sở hạ tầng được tăng cường và phát triển mạnh hơn các năm sau đều cao hơn năm trước. Triển khai thực hiện tốt một số chương trình lớn của Chính phủ và các dự án lớn của tỉnh, từ đó nâng cao năng lực tổ chức và lãnh đạo của cán bộ các cấp tỉnh, củng cố lòng tin của nhân dân đối với Đảng.
- Bộ mặt xã hội có bước đổi mới, đời sống nhân dân được cải thiện thêm, các vấn đề xã hội được giải quyết, nhất là giáo dục đào tạo.
- An ninh chính trị và trật tự an toàn xã hội được giữ vững, toàn dân đoàn kết tin tưởng vào đường lối đổi mới của Đảng.
Riêng về nông nghiệp nông thôn Hà Giang có bước phát triển mới, cơ cấu kinh tế được xác lập và chuyển dịch hợp lý, đem lại hiệu quả nhất định, kinh tế các thành phần trong nông nghiệp đã phát triển, trong đó kinh tế hộ gia đình theo mô hình trang trại được xem là một nhân tố quan trọng có ý nghĩa thúc đẩy sự chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp, nông thôn từ sản xuất tự túc tự cấp lên sản xuất hàng hoá theo hướng công nghiệp hoá.
Sức sản xuất trong nông nghiệp được khai thác, tiềm năng được phát huy một cách hợp lý hơn; sản xuất ngày một phát triển, sản phẩm nông nghiệp tăng, thu nhập đời sống nhân dân có bước nâng lên, góp phần xoá đói giảm nghèo, ổn định đời sống nhân dân. Cơ sở vật chất- kỹ thuật đầu tư cho nông, lâm nghiệp tăng cường; công tác khuyến nông, khuyến lâm được coi trọng hơn, tiến bộ khoa học kỹ thuật được tăng cường áp dụng tốt hơn, sự phân công lao động sản xuất kinh doanh đa dạng, năng động đã thúc đẩy và góp phần xây dựng cơ cấu nông thôn mới ngày một tiến bộ, hợp lý.
Ii. thực trạng công tác quản lý và sử dụng NSNN của tỉnh hà giang năm 1997 - 1999.
Năm 1999 là năm thứ ba thực hiện luật NSNN. Mặc dù tỉnh mới được tái lập, cơ sở vật chất kỹ thuật, vốn liếng còn có nhiều khó khăn thiếu thốn. Bên cạnh đó lại chịu ảnh hưởng của thời tiết thất thường và sự tác động của cuộc khủng hoảng tài chính- tiền tệ của các nước trong khu vực. Song với tinh thần đoàn kết, chủ động khắc phục khó khăn của các cấp, các ngành và các tầng lớp nhân dân, vì vậy nền kinh tế của tỉnh vẫn tiếp tục tăng trưởng, phát triển, nguồn thu NSNN tiếp tục tăng qua các năm.
Để thấy rõ thực trạng công tác này, ta có thể nghiên cứu kết quả, các chỉ tiêu về hoạt động thu, chi ngân sách của tỉnh từ năm 1997 đến 31/12/1999.
1. Về công tác quản lý thu NSNN của tỉnh
Năm 1997: Tổng thu NSNN đạt 356.545,4 triệu đồng, trong đó: đầu tư về NS TW là 9.023 triệu.
- NS để lại địa phương là 349.522,4 triệu.
Cơ cấu nguồn thu: thu trên địa bàn 47.264,5 triệu; thu viện trợ 1.000 triệu; thu từ NSTW 295.861,2 triệu; thu hút dư năm trước 12.419,7 triệu; thu từ đi vay 2.000 triệu.
Năm 1998: Tổng thu NSNN là 431.621 triệu, trong đó:
- Điều tiết về NSTW là 12.254 triệu.
- NS để lại địa phương là 419.367 triệu.
Như vậy nếu so với kế hoạch thì 1998 thu đạt 113% và tăng so với năm 1997 là 120,3%, bao gồm: thu trên địa bàn 55.749 triệu, đạt 1264% kế hoạch hoá giao tăng so với năm 1997 là 138,7%; thu bổ sung từ NSTW 337.569 triệu đạt 112,8% kế hoạch; thu kết dư năm trước 1.148 trệi, đi vay 27.350 triệu; thu trái phiếu kho bạc 9.760 triệu.
Năm 1999: thực hiện là 521.416 triệu đạt 102,1% so với kế hoạch và tăng so với năm 1998 là 120,8%, trong đó:
- Điều tiết về NSTW theo quy định là 18.977 triệu
- NS để lại địa phương là 502.439 triệu.
Các nguồn thu bao gồm: thu trên địa bàn là 64.521 triệu, đạt 124,1% kế hoạch, so với năm 1998 tăng 115,6%; thu viện trợ 16.609 triệu; thu bổ sung từ NSTW là 325.617 triệu; thu kết dư năm trước 5.535 triệu; thu từ đi vay là 13.067 triệu.
Qua khảo sát kết quả thu NSNN qua các năm 1997- 1999 cho thấy tổng số thu NSNN đều tăng qua các năm và đều hoàn thành kế hoạch được giao. Tuy nhiên nếu xem xét từng chỉ tiêu cụ thể thì thấy có sự tăng, giảm không đều nhau, chẳng hạn:
+ Thu từ DNNN trung ương:
Năm 1997 thực hiện 3.558 triệu, đạt 95,7% so với kế hoạch. Năm 1998 dự toán kế hoạch thu 3.200 triệu, thực hiện cả năm là 3.725 triệu, đạt 116,1% so với kế hoạch và bằng 104,7 so với năm 1997. Năm 1999 thực hiện 4.000 triệu, đạt 123% so với kế hoạch cả nămg và bằng 107,3% so với năm 1998. Số vượt thu chủ yếu tập trung vào các đơn vị kinh doanh có hiệu quả như: bưu điện tỉnh, điện lực tỉnh.
+ Thu từ DNNN địa phương:
Năm 1997 kế hoạch giao thu 6.333 triệu, thực hiện là 5.268 triệu, đạt 83,2% so với kế hoạch cả năm. Nguyên nhân do tình hình sản xuất và tiêu thụ sản phẩm trên địa bàn tỉnh gặp nhiều khó khăn, cho nên 16/27 doanh nghiệp không hoàn thành kế hoạch nộp ngân sách. Năm 1998: kế hoạch giao 7.754 triệu, thực hiện 7.029 triệu đạt 90,6% so với kế hoạch và bằng 33,4% so với năm 1997. Tuy nhiên còn một số doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất kinh doanh còn nhiều mặt hạn chế, cho nên chưa làm tốt nộp thuế cho NSNN. Chẳng hạn như Công ty thương mại tổng hợp Hà Giang, Công ty xuất nhập khẩu, Công ty du lịch, Công ty chế biến nông sản thực phẩm... Năm 1999 thực hiện 7000 triệu đồng đạt 91,9% so với kế hoạch cả năm và bằng 99,5% so với năm 1998.
+ Thu ngoài quốc doanh:
Cùng với sự phát triển nền kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, kinh tế ngoài quốc doanh cũng đã có những chuyển biến nhất định. Do đó hàng năm đóng góp vào NSNN ngày càng tăng:
Năm 1997: Nộp vào NSNN 12.334 triệu, đạt 103% kế hoạch; năm 1998 nộp vào ngân sách 15.400 triệu, đạt 104,45 so với kế hoạch và bằng 120% so với năm 1997. Năm 1999 nộp vào ngân sách 16.290 triệu, đạt 130,3% so với kế hoạch và bằng 105,7% so với năm 1998. Năm 1999 là năm đầu tiên thực hiện 2 luật thuế mới (VAT và thuế thu nhập doanh nghiệp ), cơ sở thu nộp vì có nhiều nguyên nhân cho nên thu từ hai loại thuế đó vào ngân sách thấp hơn so với thuế doan thu và thuế lợi tức trước đây. Song tổng số thu nhập vẫn tăng hơn năm 1998. Sở dĩ như vậy là do năm nay tỉnh được NSTW bổ sung vốn xây dựng cơ bản thanh toán khối lượng vượt năm 1996, 1997 và việc quản lý thu thuế từ lĩnh vực xây dựng cơ bản đã huy động kịp thời vào ngân sách địa phương.
+ Lệ phí trước bạ:
Đây là loại lệ phí nhằm vào việc hướng dẫn tiêu dùng của xã hội và điều tiết các đối tượng có thu nhập cao theo chính sách hiện hành. Năm 1997 thực hiện 1.085 triệu, đạt 120% kế hoạch, năm 1998 thực hiện 2.153 triệu, đạt 111,4% so với kế hoạch và tăng 119,2% so với năm 1997. Năm 1999 thực hiện 2.350 triệu, đạt 124,5% so với kế hoạch và tăng 132,2% so với năm 1998. Sở dĩ nguồn thu này tăng lên là do nhu cầu mua sắm phương tiện đi lại, và xây dựng nhà ở trong nhân dân tăng lên.
+ Thuế sử dụng đất lâm nghiệp:
Trong những năm gần đây sản xuất nông nghiệp đã có bước phát triển rõ rệt, dần dần đã giải quyết được một phần quan trọng nhu cầu lương thực và bắt đầu chú ý đến sản
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0141.doc