LỜI NÓI ĐẦU 1
CHƯƠNG I: LÝ LUẬN CHUNG VỀ BHXH 2
I. Tổng quan về BHXH 2
1. Khái niệm của BHXH 2
2. Bản chất của BHXH 2
3. Vai trò của BHXH trong KTQD 3
4. Một số nội dung cơ bản của BHXH 5
II. Quỹ BHXH 6
1. Khái niệm và vai trò của quỹ BHXH đối với hệ thống BHXH 6
2. Nguồn hình thành và các mục đích sử dụng của quỹ BHXH 8
3. Phân loại quỹ BHXH 9
4. Quản lý quỹ BHXH 10
CHƯƠNG II: THỰC TRẠNG QUỸ BHXH Ở VIỆT NAM 11
I. Quá trình hình thành và phát triển 11
II. Đánh giá thực trạng thu chi BHXH Việt Nam 13
1. Đánh giá thực trạng thu BHXH 13
2. Đánh giá thực trạng chi BHXH 15
3. Đánh giá hiệu quả công tác thu - chi BHXH 19
III. Đánh giá công tác quản lý quỹ BHXH 22
1. Tình hình duy trì và tăng trưởng quỹ BHXH 22
2. Đánh giá hiệu quả quản lý quỹ BHXH Việt Nam 24
IV. Đánh giá hiệu qủa hoạt động của quỹ BHXH Việt Nam 26
1. Các thành tựu đạt được 26
2. Những tồn tại cần khắc phục 27
CHƯƠNG III: MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN QUỸ BHXH 28
I. Những thuận lợi và tồn tại của việc quản lý quỹ BHXH ở Việt Nam 28
1. Thuận lợi 28
2. Những tồn tại 29
II. Các giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả quản lý quỹ BHXH Việt Nam 29
1. Mở rộng đối tượng tham gia BHXH 29
2. Bảo đảm sự hỗ trợ của Nhà nước đối với quỹ BHXH 31
3. Vấn đề đầu tư quỹ BHXH 31
4. Tổ chức thực hiện quản lý quỹ BHXH 33
5. Tăng cường việc kiểm tra, thanh tra, xử phạt những vi phạm về đóng BHXH của các cơ quan doanh nghiệp 34
6. Nâng cao chất lượng nguồn nhân lực trong cơ quan BHXH 35
7. Xây dựng hệ thống thống kê cho BHXH 36
KẾT LUẬN 37
TÀI LIỆU THAM KHẢO 38
40 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1221 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về quản lý quỹ bảo hiểm xã hội Việt nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
gười lao động trong hầu hết các thành phần kinh tế và giảm một phần gánh nặng từ Ngân sách Nhà nước.
2. Đánh giá thực trạng chi bảo hiểm xã hội
Quá trình chi trả bảo hiểm xã hội cho người lao động là một vấn đề quan trọng, vì hoạt động này tác động trực tiếp đến quyền lợi của người tham gia bảo hiểm xã hội, sau khi đã hoàn thành nghĩa vụ nộp bảo hiểm xã hội theo quy định để hưởng bảo hiểm xã hội. Vì vậy, việc chi trả bảo hiểm xã hội phải tuân thủ theo nguyên tắc: Chi trả đủ, kịp thời, chính xác tới từng đối tượng tham gia bảo hiểm xã hội và an toàn tiền mặt. Nội dung chi trả bảo hiểm xã hội như sau:
- Trợ cấp ốm đau, chết.
- Trợ cấp thai sản,
- Trợ cấp tai nạn lao động, bệnh nghề nghiệp,
- Hưu trí,
- Tử tuất,
- Lệ phí chi
- Nộp Bảo hiểm Y tế theo quy định tại Điều lệ bảo hiểm xã hội.
- Chi quản lý bộ máy.
Hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam chính thức thực hiện chi trả 5 chế độ bảo hiểm xã hội cho các đối tượng hưởng chính sách từ quỹ bảo hiểm xã hội và nguồn ngân sách Nhà nước bảo trợ. Ngày 01/10/1995, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã xây dựng, hình thành và từng bước hoàn thiện cơ chế xét hưởng các chế độ bảo hiểm xã hội. Theo nguyên tắc tập trung chỉ giao cho bảo hiểm xã hội các tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương trực tiếp xem xét các chế độ các chế độ hưởng bảo hiểm xã hội, theo đúng các quy định của pháp luật. Việc chi trả bảo hiểm xã hội ở các tỉnh, các địa phương nhìn chung trong những năm qua đặc biệt từ năm 1995 trở lại đây, luôn đảm bảo đủ, kịp thời đến tay đối tượng. Trong chi trả chế độ trợ cấp ốm đau, thai sản đã ứng trước từ quỹ bảo hiểm xã hội trên 22 tỷ đồng để làm quỹ luân chuyển thanh toán các chế độ trên và thực hiện nguyên tắc chi trả theo chứng từ gốc hợp lệ, nên đã giảm đến mức thấp nhất các thất thoát do chi sai nguyên tắc chế độ. Ngoài ra một số cơ quan bảo hiểm xã hội địa phương đã triển khai mô hình thí điểm chi trả trực tiếp cho các đối tượng hưu trí, tuất, mất sức lao động. Thông qua mô hình này đã quản lý chặt chẽ số tăng, giảm đối tượng và phát hiện ra nhiều hiện tượng tiêu cực như khai man hồ sơ hoặc hưởng quá thời gian quy định, đã xử lý và thu hồi giảm chi cho ngân sách Nhà nước hàng tỷ đồng. Riêng các khoản chi trợ cấp ốm đau, thai sản, tai nạn lao động và bệnh nghề nghiệp theo Điều 36 Điều lệ bảo hiểm xã hội được chi 5% quỹ tiền lương, nhưng do thực hiện cơ chế quản lý bảo hiểm xã hội chặt chẽ theo các quy định về chứng từ do Bộ Tài chính ban hành nên trong năm 1996 chỉ chi khoảng 1,3% so với quỹ lương tương ứng với 130 tỷ đồng. Như vậy đã giảm chi được khoản 3,7% quỹ tiền lương, tương ứng với khoảng 380 tỷ đồng. Do không chi hết cho các chế độ trên nên đã bổ sung vào quỹ hưu trí và tử tuất. Ta có bảng tình hình chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ BHXH sau:
Bảng2: Các đối tượng hưởng chế độ BHXH hàng tháng.
Đơn vị: Người.
Năm
Hưu
MSLĐ
TNLĐ-BNN
Tử tuất
Hưu QĐ
Hưu VC
31/12/1996
+NSNN +QuỹBHXH
164.489
2492
1.006.340
10789
395.026
10.357
958
172.609
6.361
31/12/1997
+NSNN +QuỹBHXH
162.572
5817
996.235
24212
380.132
11.332
2210
164.419
11.290
31/12/1998
+NSNN +QuỹBHXH
160.485
9.205
40.258
38949
367.017
11.960
4.020
162.672
16.517
31/12/1999
+NSNN +QuỹBHXH
158.231
13.493
966.291
64.070
352.407
12.292
5.640
160.037
21.543
31/12/2000
+NSNN +QuỹBHXH
157.114
18.500
959.503
92.876
347.102
12.458
4.167
158.720
27.119
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Từ bảng 2 ta thấy cả những người về hưu trong quân đội cũng như những người về hưu viên chức thuộc diện chi trả của quỹ BHXH đều tăng lên qua các năm. Năm 1996 số người về hưu trong quân đội chỉ có 2492 người về hưu thì đến năm 1997 đã có 5817 người về hưu tăng gấp hơn 2 lần so với số người về hưu năm 1996. Đến năm 2000 số này đã tăng lên 18500 người, tăng hơn 7 lần so với năm 1996. Bên cạnh đó số người về hưu viên chức cũng tăng lên gấp hơn 8 lần từ năm 1996 đến năm 2000. Trong khi đó các đối tượng này thuộc diện chi trả từ Ngân sách Nhà nước thì lại giảm đi. Hơn nữa, các đối tượng hưởng chế độ khác như chế độ mất sức lao động, tử tuất thuộc diện chi trả của ngân sách Nhà nước cũng giảm đi và có xu hướng tiến tới bằng 0 do các đối tượng về hưu thì dần chuyển sang chế độ tử tuất, còn lại là thuộc chế độ chi trả của BHXH khi nghỉ sau ngày 01/01/1995. Do vậy, trong tương lai không xa quỹ BHXH sẽ phải chi trả hoàn toàn, và Ngân sách Nhà nước chỉ can thiệp vào khi có sự cố xảy ra nhằm ổn định đời sống cho người lao động trong các thành phần kinh tế khi họ tham gia BHXH. Từ sự thay đổi này dẫn đến sự thay đổi trong cơ chế thu chi giữa Ngân sách Nhà nước và quỹ BHXH được thể hiện qua bảng số liệu sau:
Bảng3: Số chi trả BHXH từ 3 tháng cuối năm 1995-2000
Đơn vị tính: Triệu đồng
Năm
Hưu trí
MSLĐ
TNLĐ-BNN
Tử tuất
MTP
ốm đau
Thai
sản
Tổng
cộng
1995
+NSNN
+QuỹBHXH
885.461
874.145
11.316
164.072
164.072
2.592
2.595
337
38.804
37.292
1512
935
935
7.958
7.958
20.647
20.647
1.120.469
1.079.039
41.770
1996
+NSNN
+QuỹBHXH
3.639.926
3.442.207
197.718
655.573
655.573
13.765
10.192
3.573
147.362
133.284
14.079
23.256
23.251
5
61.811
61.811
103.844
103.844
4.645.810
4.264.507
381.030
1997
+NSNN
+QuỹBHXH
4.417.564
4.071.355
364.209
763.393
763.393
18.977
12.812
6.165
141.006
125.882
15.124
25.177
20.507
4.670
90.682
90.682
124.980
124.980
5.599.779
4.993.949
605.830
1998
+NSNN
+QuỹBHXH
4.509.749
4.060.887
448.861
740.013
740.013
22.977
13.034
9.843
150.044
128.795
21.250
27.043
21.240
5.623
110.866
110.866
146.232
146.232
4.967.371
4.224.696
742.675
1999
+NSNN
+QuỹBHXH
4.614.114
3.982.515
631.599
710.859
710.859
24.296
12.985
11.311
150.722
126.098
24.623
27.062
21.280
5.782
95.798
95.798
158.004
158.004
5.780.854
4.853.737
927.117
2000
+NSNN
+ QuỹBHXH
5.895.168
4.983.593
911.575
850.549
850.549
28.077
15.308
12.769
196.861
164.248
32.613
43.650
34.150
9.500
98.775
98.775
240.005
240.005
7.343.680
6.047.848
1.295.832
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng 3 ta thấy số tiền quỹ bảo hiểm xã hội chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội tăng lên hàng năm. Năm 1996 số tiền chi cho chế độ hưu trí là 197.718 triệu đồng, lớn nhất trong tổng chi BHXH, sau đó là chi cho chế độ trợ cấp ốm đau, số chi là 103.844 triệu đồng. Việc chi trả cho chế trợ cấp ốm đau chủ yếu chỉ có lao động thuộc doanh nghiệp là thực hiện, còn khối hành chính sự nghiệp và lực lượng vũ trang hầu như là không thanh toán mà BHXH phải chi trả 75%. Mà số chi của khối hành chính sự nghiệp và lực lượng chiếm tới 50 % tổng chi, do vậy nếu tính đầy đủ thì số chi cho chế độ này sẽ xấp xỉ 2 lần con số hiện tại. Vì số chi cho 2 chế độ trên là tương đối lớn nên tổng chi cho các chế độ từ quỹ BHXH là 381.030 triệu đồng. Tổng chi BHXH từ quỹ BHXH tăng lên rất nhanh ở các năm tiếp theo. Năm 1997 số chi cho chế độ hưu trí tăng lên gấp 2 lần năm 1996 và số chi cho các chế độ khác cũng tăng mà tổng chi năm 1997 là 605.830 triệu đồng tăng gần 2 lần so với năm 1996. Và tổng chi BHXH từ qũy BHXH tiếp tục tăng lên đều đều năm sau so với năm trước tăng khoảng 1,2 lần, riêng năm 2000 tăng 1,4 lần so với năm 1999. Sự tăng lên đột biến này là do mức lương tối thiểu làm căn cứ đóng BHXH tăng lên từ 180.000 đồng năm 1999 lên 210.000 đồng năm 2000. Cho tới năm 2000 số chi BHXH từ quỹ BHXH đã tăng lên là 1.295.832 triệu đồng tăng hơn 4 lần so với năm 1996. Sự tăng lên nhanh chóng này là do từ sau ngày 01/01/1995 số đối tượng hưởng chế độ từ quỹ BHXH bắt đầu tăng lên, đặc biệt là số đối tượng hưởng chế độ hưu trí. Trong khi số chi từ quỹ BHXH tăng lên thì số chi từ Ngân sách Nhà nước chi cho các chế độ lại có xu hướng ổn định thậm trí còn giảm đi. Nhìn vào bảng ta thấy số chi từ ngân sách Nhà nước từ năm 1996 đến năm 1999 chỉ ở khoảng hơn 4.000 tỷ đồng. Riêng có năm 1997 và 2000 là chi tăng lên so với năm trước đó, sự tăng lên này là do mức tiền lương tối thiểu làm căn cứ đóng BHXH tăng chứ không phải do đối tượng hưởng chế độ tăng. Hai đối tượng lớn hưởng chế độ trợ cấp từ ngân sách Nhà nước là đối tượng hưởng chế độ hưu trí và mất sức lao động thì bắt đầu giảm đi qua các năm do vậy mà số chi từ ngân sách Nhà nước giảm đi. Trong bảng số liệu ta thấy số chi cho 2 chế độ này tăng lên ở 2 năm 1997 và 2000. Về chế độ hưu trí năm 1997 số chi từ NSNN là 4.071,355 tỷ đồng tăng lên khoảng 1,2 lần so với năm 1996 (năm 1996 là 3.442,207 tỷ đồng), năm 2000 là 4.983,593 tỷ đồng tăng 1,25 so với năm 1999. Còn chế độ tử tuất cũng giảm đi , năm 1998 và năm 1999 đều giảm đi so với năm 1997. Số chi này chỉ tăng lên ở 2 năm có mức tiền lương tối thiểu tăng là năm 1997 và năm 2000. Do vậy, trong tương lai khi số người hưởng chế độ hưu trí giảm đi do số lượng đối tượng hưởng không tăng và một số thì chết chuyển sang chế độ tử tuất. Đến một lúc nào đó thì Nhà nước sẽ không phải chi trả cho chế độ này nữa và đối tượng hưởng chế độ mất sức lao động thì cũng đến khoảng năm 2010 là hết. Nên trong một số năm tới số chi từ ngân sách Nhà nước cho các chế độ sẽ không còn nữa, chỉ còn có số chi của quỹ BHXH. Do vậy, trong tương lai cho tới một thời điểm nào đó thì Ngân sách Nhà nước chi trả cho các đối tượng sẽ bằng 0 và ngược lại số chi từ qũy BHXH sẽ rất lớn. Bởi vậy mà BHXH cần sớm có phương án để duy trì và tăng trưởng quỹ đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của số lượng người lao động tham gia BHXH.
3. Đánh giá hiệu quả công tác thu - chi bảo hiểm xã hội
Trong hơn 6 năm hoạt động BHXH Việt Nam đã đạt được những thành tựu rất đáng tự hào. Đặc biệt là công tác thu chi BHXH, nghiệp vụ được coi là xương sống của ngành BHXH. BHXH Việt Nam đã thực hiện tốt công việc thu BHXH một cách xuất sắc. Tỷ lệ thu BHXH rất cao luôn lớn hơn 94% tổng số phải thu (số liệu bảng1), nên tỷ lệ tồn đọng là rất thấp. Công tác chi trả được kịp thời, đầy đủ, đúng đối tượng và an toàn tiền mặt, đáp ứng được yêu cầu của đối tượng tham gia BHXH. Ngoài ra, BHXH còn thực hiện chi trả cho các đối tượng hưởng chế độ từ ngân sách Nhà nước cấp. Số đối tượng và số tiền chi trả như sau:
- Năm 1995 (4 tháng cuối năm) chi trả 1.112,030 tỷ đồng cho 1.762,167 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1994 là 1,6%.
- Năm 1996 chi trả 4.387,903 tỷ đồng cho 1.750.418 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1995 là1,7%.
- Năm 1997 chi trả 5.163,903 tỷ đồng cho 1.716,257 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1996 là 2%.
- Năm 1998 chi trả 5.128,245 tỷ đồng cho 1.683,500 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1997 là 2%.
- Năm 1999 chi trả 5.015,620 tỷ đồng cho 1.650,709 người, tỷ lệ giảm đối tượng so với năm 1998 là 2%.
Với đối tượng giảm bình quân mỗi năm khoảng 2% thì đến năm 2040 hoặc 2045 BHXH sẽ không phải chi trả cho các đối tượng trên nữa,
Sau đây ta sẽ xem xét tình hình thu chi cho các đối tượng hưởng trợ cấp từ quỹ BHXH.
Bảng4: Tình hình thu chi BHXH do BHXH Việt Nam quản lý từ năm 1995 đến năm 2000
Chỉ tiêu
Đơn vị tính
Năm
1995
Năm 1996
Năm 1997
Năm 1998
Năm
1999
Năm
2000
1. Số người tham gia BHXH
1000 người
2276
2821
3162
3355
3579
3842
2.Số tiền BHXH thu được
Tỷ đồng
778
2569
3445
3875
4186
5215
3.Số tiền chi BHXH
Tỷ đồng
4636
4788
5756
5880
5955
7576
4.Ngân sách Nhà nước cấp
Tỷ đồng
4594
4405
5163
5128
5015
6248
5.Quỹ BHXH
Tỷ đồng
42
383
593
752
940
1328
6.Tỉ lệ chi so với thu của quỹ
%
5
15
17
19
22
25
7.Tỉ lệ quỹ BHXH chi so với NSNN cấp
%
1
9
11
15
19
21
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Qua bảng số liệu trên ta thấy: Đối với chi bảo hiểm xã hội trong 6 năm qua đạt loại khá, chủ yếu chi từ ngân sách Nhà nước như năm 1995 tổng số chi là 4636 tỷ đồng trong đó ngân sách Nhà nước cấp 4594 tỷ đồng còn quỹ bảo hiểm xã hội chỉ chi 42 tỷ đồng chiếm 5% so với số thu bảo hiểm xã hội trong năm. Năm 1996 số chi bảo hiểm xã hội đạt mức 4788 tỷ đồng, quỹ bảo hiểm xã hội chi 383 tỷ đồng chiếm 15 % so với tổng thu trong năm, số còn lại 44085 tỷ đồng do Nhà nước chi trả. Năm 1997 tổng số tiền chi bảo hiểm xã hội là 5756 tỷ đồng, trong đó quỹ bảo hiểm xã hội chi trả 593 tỷ đồng chiếm 17% tổng số thu bảo hiểm xã hội trong năm, còn 5163 tỷ đồng do ngân sách Nhà nước chi trả. Năm 1998, tổng số tiền chi bảo hiểm xã hội là 5880 tỷ đồng trong đó quỹ bảo hiểm xã hội chi 725 tỷ đồng chiếm 19% so với thu bảo hiểm xã hội trong năm. Năm 1999, tổng số chi BHXH là 5955 tỷ đồng, trong đó quỹ BHXH chỉ có 940 tỷ đạt 22% so với tổng số thu trong năm, Ngân sách Nhà nước vẫn phải cấp 5015 tỷ. Năm 2000 tổng số chi BHXH đã lên tới 7576 tỷ đồng, trong đó Ngân sách Nhà nước cấp 6248 tỷ đồng, quỹ BHXH chi là 1328 tỷ đồng chiếm 25%. Đây là tỷ lệ quỹ bảo hiểm xã hội chi trả cao nhất từ năm 1995 đến năm 2000. Như vậy, Ngân sách Nhà nước cấp cho các chế độ bảo hiểm xã hội có tăng lên từ năm 1995 đến 1998, nhưng nguyên nhân của sự tăng lên đó lại là do có sự tăng lên của mức tiền lương tối thiểu chứ khoong phải do đối tượng hưởng BHXH tăng lên. Trong khi đó, tỷ lệ quỹ bảo hiểm xã hội chi so với ngân sách Nhà nước cấp lại không ngừng tăng lên. Năm 1995 tỷ lệ này là 1%. Năm1996 tỷ lệ này tăng lên 9%, đến năm 2000 thì quỹ bảo hiểm xã hội chi so với ngân sách Nhà nước cấp đã tăng lên 21%. Điều này chứng tỏ rằng tỷ lệ chi bảo hiểm xã hội đang nghiêng dần về phía quỹ. Nguyên do là những đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội từ ngân sách Nhà nước (những những người hưởng chế độ bảo hiểm xã hội trước 01/01/1995) đang giảm dần, còn những đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội từ quỹ bảo hiểm xã hội đang tăng dần lên. Theo xu hướng này đến một lúc nào đó quỹ bảo hiểm xã hội sẽ phải chi trả toàn bộ cho các đối tượng hưởng chế độ bảo hiểm xã hội mà chỉ được sự hỗ trợ của ngân sách Nhà nước.
Để đạt được những thành tựu trên trong những năm vừa qua là do một số nguyên nhân sau:
- Sự cố gắng của cán bộ viên chức trong toàn ngành mà trước hết là các cán bộ trực tiếp làm công tác thu, chi bảo hiểm xã hội, sự chỉ đạo tích cực của các cấp uỷ Đảng, và chính quyền các cấp, sự kết hợp hỗ trợ của các cơ quan chức năng như: Cục thuế, Sở Tài chính, các cơ quan kiểm soát và thanh tra Nhà nước... trong việc vận động, kiểm tra, rà soát, nắm đầu mối thu nộp và chi trả bảo hiểm xã hội. Đôn đốc các đơn vị thuộc diện bắt buộc tham gia bảo hiểm xã hội theo quy định nhằm bảo vệ quyền lợi cho người lao động.
- Thực hiện nguyên tắc gắn thu nộp với thực hiện chính sách bảo hiểm xã hội đối với người lao động. Nguyên tắc này đảm bảo sự công bằng " Có đóng góp thì mới hưởng, ai không đóng góp thì không hưởng", đó chính là biện pháp hữu hiệu nhất để đôn đốc chủ sử dụng lao động thực hiện tốt nghĩa vụ thu nộp bảo hiểm xã hội.
- Công tác cấp phát sổ bảo hiểm xã hội nghiêm túc, đảm bảo chặt chẽ, đã tạo được niềm tin cho người lao động và bước đầu nâng cao trách nhiệm thực hiện nghĩa vụ đóng góp bảo hiểm xã hội của người lao động, hạn chế việc khai giảm lao động và quỹ tiền lương của đơn vị sử dụng lao động, tạo điều kiện cho cơ quan bảo hiểm xã hội truy thu một số lượng lớn tiền đóng bảo hiểm xã hội còn nợ đọng từ những năm trước.
- Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tổ chức, phổ biến hướng dẫn các chính sách bảo hiểm xã hội và phương thức nộp bảo hiểm xã hội cho chủ sử dụng lao động và người lao động, đặc biệt là đã tổ chức các buổi tập huấn nghiệp vụ thu, chi bảo hiểm xã hội nhằm nâng cao chất lượng hoạt động trong toàn hệ thống Bảo hiểm xã hội Việt Nam.
Từ thực tế việc thu chi quỹ BHXH trên, đặt ra vấn đề là phải cân đối thu chi quỹ BHXH để bảo tồn và tăng trưởng quỹ BHXH trong tương lai
III. Đánh giá công tác quản lý quỹ bảo hiểm xã hội
Trong thời gian qua Đảng và Nhà nước cùng các ngành các cấp quan tâm đã nghiên cứu lĩnh vực hoạt động bảo hiểm xã hội và kết quả là cho ra đời Nghị định 19/CP của Chính phủ ngày 16/02/1995. Nội dung của Nghị định này là thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam trên cơ sở thống nhất các tổ chức bảo hiểm xã hội hiện nay từ Trung ương và điạ phương thuộc hệ thống Lao động Thương binh Xã hội và Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam để giúp Thủ Tướng Chính phủ chỉ đạo công tác quản lý bảo hiểm xã hội và thực hiện các chế độ chính sách bảo hiểm xã hội theo pháp luật của Nhà nước.
Theo như quy định Bảo hiểm xã hội Việt Nam có tư cách pháp nhân hạch toán độc lập và được Nhà nước bảo hộ, có con dấu riêng, có tài khoản, có trụ sở đặt tại thành phố Hà nội. Quỹ bảo hiểm xã hội được quản lý thống nhất theo chế độ tài chính của Nhà nước. Cùng với việc đổi mới chính sách công tác quản lý quỹ cũng thay đổi cho phù hợp.
1. Tình hình duy trì và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội
Bảo hiểm xã hội đã và đang được phát triển ở hầu khắp các nước trên thế giới, không chỉ bởi mục đích an sinh xã hội mà còn có vai trò quan trọng trong việc góp phần phát triển, ổn định nền tài chính - tiền tệ quốc gia. Sau 6 năm hoạt động, Bảo hiểm xã hội Việt Nam đã tham gia đầu tư vào thị trường tài chính của Nhà nước trên 8000 tỷ đồng. Chuyển sang nền kinh tế thị trường, thị trường vốn ngày càng được mở rộng, phát triển mạnh mẽ cả về quy mô hình thức và chất lượng, đòi hỏi Bảo hiểm xã hội Việt Nam phải có những cố gắng vượt bậc để tham gia hoạt động đầu tư quỹ một cách có hiệu quả cao nhất nhằm bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội ở Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
Hoạt động của bảo hiểm xã hội xét về khía cạnh nguồn lực tài chính thì được coi là một quỹ tiền tệ lớn của nền kinh tế, thường xuyên có khối lượng tiền vốn lớn tạm thời nhàn rỗi trong khoảng thời gian dài; lượng tiền này phải được đưa vào để đầu tư để bảo tồn và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội. Một trong những nhiệm vụ của Bảo hiểm xã hội Việt Nam được quy định trong Nghị định số 19/CP ngày 16/02/1995 của Chính phủ về việc thành lập Bảo hiểm xã hội Việt Nam là: " Xây dựng và tổ chức thực hiện các dự án và biện pháp để bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội theo quy định của Chính phủ ". Việc huy động mọi nguồn nội lực trong đó có tiền vốn cho phát triển kinh tế xã hội của đất nước đã và đang đặt ra yêu cầu bức xúc cho ngành bảo hiểm xã hội phải thực hiện đầu tư quỹ bảo hiểm xã hội sao cho có hiệu quả cao nhất, góp phần thúc đẩy phát triển kinh tế xã hội và đạt được các mục tiêu cải cách kinh tế, đặc biệt là đối với lĩnh vực tài chính tiền tệ Việt Nam.
Trong Quyết định số 20/QĐ - TTg ngày 26/01/1998 Thủ Tướng Chính phủ đã cho phép bảo hiểm xã hội Việt Nam thực hiện các biện pháp bảo tồn giá trị và tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội theo nguyên tắc bảo đảm an toàn, hạn chế rủi ro đến mức thấp nhất, có hiệu quả kinh tế xã hội, với các nội dung kinh tế bao gồm:
- Mua trái phiếu, tín phiếu của kho bạc Nhà nước và các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Cho vay đối với ngân sách Nhà nước, quỹ hỗ trợ đầu tư quốc gia, các ngân hàng thương mại của Nhà nước.
- Đầu tư vốn vào một số dự án và doanh nghiệp lớn của Nhà nước có nhu cầu về vốn được Thủ Tướng Chính phủ cho phép và bảo trợ.
Sau 6 năm hoạt động, tiền nhàn rỗi của quỹ bảo hiểm xã hội đã được đưa vào đầu tư như sau:
Bảng5: Tỷ lệ đầu tư tăng trưởng quỹ bảo hiểm xã hội.
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
Thu quỹ BHXH
Chi quỹ BHXH
Tỷ lệ
chi dùng
Tỷ lệ đầu tư tăng trưởng
1995
788
42
5,3%
94,7%
1996
2569
383
14,9%
84,1%
1997
3445
593
17,2%
82,8%
1998
3875
752
19,4%
80,6%
1999
4186
940
22,5%
77,5%
2000
5215
1328
25,5%
74,5%
(Nguồn: Bảo hiểm xã hội Việt Nam)
Bảng trên cho thấy tỷ trọng nguồn vốn nhàn rỗi có thể giảm dần nhưng do số thu tăng lên nhanh chóng nên số luỹ kế để thực hiện đầu tư đến hết năm 2000 đã lên tới 16.040 tỷ đồng. Điều đó cũng phản ánh quỹ bảo hiểm xã hội là một tiềm năng tài chính không nhỏ; tiềm năng này nếu không sử dụng triệt để hoặc sử dụng không hiệu quả là một sự lãng phí, là chưa phát huy hết nguồn nội lực về tiền vốn, đặt biệt trong điều kiện đất nước ta còn thiếu vốn trầm trọng. Xét về mặt kinh tế thì việc đem phần quỹ nhàn rỗi để đầu tư là hoàn toàn hợp lý. Nhiều nước, vốn đầu tư là nhu cầu rất cần thiết đối với nền kinh tế. Nếu việc đầu tư có hiệu quả thì cả nền kinh tế và quỹ bảo hiểm xã hội đều được lợi.
Trong 4 nguyên tắc về đầu tư là an toàn, có hiệu quả, tính dễ lưu chuyển và có lợi cho xã hội, thì nguyên tắc an toàn luôn được đặt lên hàng đầu. Điều này vô cùng quan trọng vì hậu quả của việc mất quỹ bảo hiểm xã hội là vô cùng nghiêm trọng. Ngược lại, nếu quá thận trọng mà không cho phép đầu tư hoặc không dám đầu tư thì cũng là một sai lầm. Cái lợi thế của quỹ bảo hiểm xã hội là nguồn vốn cần được khai thác triệt để.
2. Đánh giá hiệu quả quản lý quỹ BHXH Việt Nam
Trong 6 năm qua, kể từ khi quỹ BHXH Việt Nam được quản lý hạch toán độc lập với Ngân sách Nhà nước thì kết quả đạt được của quỹ rất đáng mừng. Quỹ BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước và có một lượng tiền lớn nhàn rỗi để đầu tư vào nền kinh tế quốc dân.
- Tổng số thu BHXH tính đến cuối năm 2000 đạt 5.215.233 triệu đồng. Quỹ và cơ chế hoạt động của BHXH Việt Nam đã được hình thành, phù hợp với chính sách BHXH trong cơ chế thị trường, tạo điều kiện cho quỹ tự cân đối tài chính trong quá trình hoạt động. Quỹ BHXH với số thu ngày càng tăng, giảm sự cấp phát từ ngân sách Nhà nước nhằm thực hiện chính sách BHXH đúng mục đích và hiệu quả, tạo điều kiện cho cơ quan BHXH chủ động chi trả và đầu tư tăng trưởng quỹ.
- Ngành BHXH đã tổ chức chi trả lương hưu, các chế độ trợ cấp BHXH đầy đủ, kịp thời và an toàn với trên 23.643 tỷ đồng cho hàng triệu đối tượng. Công tác chi trả BHXH đảm bảo đúng chính sách, chế độ của Nhà nước, ít phiền hà, bảo đảm cho những người được nhận lương hưu và trợ cấp BHXH sớm, chấm dứt tình trạng nợ lương hưu dài ngày như một số năm trước đây. Đó là việc làm có tác dụng thiết thực, góp phần ổn định đời sống của những người thụ hưởng chính sách BHXH.
-Việc tổ chức quản lý quỹ cũng được thống nhất theo một hệ thống, đảm bảo tính chủ động trong việc thu BHXH và việc chi trả cho các chế độ. Có đổi mới và sáng tạo trong việc sử dụng công nghệ thông tin vào việc quản lý quỹ. Mặc dù thường xuyên phải tiếp xúc với một lượng tiền mặt lớn (bình quân gần 500 tỷ đồng/tháng), nhưng chưa có trường hợp nào làm mất hoặc chiếm dụng tiền của người hưởng BHXH. Đây là thành tích rất đáng trân trọng, cần được tiếp tục phát huy trong thời gian tới.
Bên cạnh những kết quả đạt được nói trên, hoạt động của BHXH Việt Nam trong 6 năm qua cũng còn một số mặt hạn chế, đó là:
- Chưa có biện pháp hữu hiệu để quản lý toàn bộ số lao động phải tham gia BHXH và nguồn thu theo qui định của pháp luật.Thời gian qua, tuy số đóng BHXH có tăng hàng năm, nhưng so với tổng số lao động phải tham giaBHXH theo qui định mới chỉ đạt 86%, riêng số lao động làm việc trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh tham gia BHXH mới đạt 40%. Kết quả thu hàng năm mới đạt khoảng 90% so với tổng số phải thu. Điều đó chứng tỏ mạng lưới BHXH chưa vươn tới được toàn bộ số lao động trong xã hội.
Tình trạng nợ đọng tiền BHXH còn lớn, tính đến nay bình quân gần 500 tỷ đồng, chiếm 11-12% diện thu đã quản lý được. Nếu để kéo dài tình trạng này sẽ làm nảy sinh nhiều vấn đề phức tạp và khó khăn; trước hết là thiếu nguồn chi trả cho người hưởng BHXH, ảnh hưởng trực tiếp đến quyền lợi của người lao động.
IV.Đánh giá hiệu quả hoạt động của quỹ BHXH Việt nam
1.Các thành tựu đạt được
BHXH Việt Nam được hình thành và phát triển từ năm 1962, tuy nhiên ban đầu mới chỉ thu hút được một bộ phận nhỏ người lao động bao gồm những người làm việc trong khu vực Nhà nước và lực lượng vũ trang. Với việc ban hành Nghị định 12/CP và tiếp đó là Nghị định 19/CP của Chính phủ năm 1995, hệ thống BHXH Việt Nam đã có nhiều bước chuyển biến rõ rệt. Đặc biệt là hiệu quả quản lý quỹ BHXH theo cơ chế hạch toán độc lập, có sự chỉ đạo của Nhà nước. Do vậy, trong 6 năm thực hiện cơ chế mới về BHXH theo tinh thần của Bộ luật Lao động quỹ BHXH đã đạt được những thành tích sau đây:
- Số đối tượng áp dụng BHXH được mở rộng đến những người làm công ăn lương trong các thành phần kinh tế theo nguyên tắc có đóng góp có hưởng thụ. Nhờ mở rộng được đối tượng tham gia BHXH và tăng mức phí BHXH (20% so với quỹ lương) nên các nguồn huy động quỹ BHXH không ngừng tăng lên và có thể đáp ứng nhu cầu chi phí BHXH.
- Thành lập được quỹ BHXH độc lập với ngân sách Nhà nước và hình thành từ 3 nguồn (đóng góp của người của người lao động, người sử dụng lao động, hỗ trợ của Nhà nước) đã tạo điều kiện xây dựng cơ chế tài chính mới đúng đắn, tăng nguồn tài chính, tạo điều kiện hình thành, duy trì và tăng trưởng quỹ. Đồng thời góp phần tiết kiệm các khoản chi cho ngân sách Nhà nước, khắc phục các hạn chế về tài chính chi cho BHXH trước đây và tác động tích cực vào các chính sách kinh tế xã hội khác.
- Công tác thu chi BHXH luôn đạt kết quả cao. Thu BHXH năm sau luôn cao hơn năm trước, đảm bảo được thu đúng, thu đủ và an toàn tiền mặt. Mặc dù khối lượng tiền mặt lớn nhưng chưa bao giờ xảy ra tình trạng thất thoát. Số tiền thu được đem đầu tư tạo được một khoản thu tương đối lớn cho BHXH và là nguồn đầu tư giúp các ngành kinh tế khác có vốn để phát triển, điều đó cũng có tác động ngược trở lại là giúp các doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả thì công tác thu BHXH càng trở lên dễ dàng và có kết quả cao. Việc chi trả
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- D0114.doc