MỤC LỤC
I .LỜI NÓI ĐẦU.
II.THỰC TRẠNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.
1. Khái niệm tham nhũng
2. Nguồn gốc của tham nhũng
2.1. Về mặt chính trị.
2.2. Về mặt kinh tế.
2.3. Về mặt nhà nước.
2.4. Về mặt pháp luật.
2.5. Về mặt văn hóa xã hội.
2.6. Về mặt nhân văn.
3. Nguyên nhân của tham nhũng
4. Tác hại của tham nhũng
5. Thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay
III. HÀNH VI THAM NHŨNG.
1. Khái niệm hành vi tham nhũng
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng
3. Động cơ tham nhũng
4. Mục đích tham nhũng
5. Một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam.
5.1. Thông qua việ ký kết các hợp đồng.
5.2. Thông qua liên doanh liên kết.
5.3. Lợi dụng việc trích thưởng và việc buông lỏng kiểm tra, kiểm soát để tham nhũng vơ vét.
5.4. Lợi dụng chức quyền để tham nhũng đất đai, đua người chốn đi nước ngoài, buôn bán trẻ em và phụ nữ, dùng các cơ quan này để đối phó cơ quan kia. Điều nay đang là nhức nhối của xã hội.
IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.
1. Phát triển các hệ thống hành chính công minh bạch và hữu hiệu
2. Tăng cường hoạt động chống hối lộ và nâng cao tính thanh liêm trong hoạt động kinh doanh
3. Hỗ trợ sự tham gia tích cực của công chúng
4. Hoàn thiện cơ chế quản lý kinh tế, xây dựng môi trường kinh doanh cạnh tranh bình đẳng, công bằng, minh bạch.
5. Một số giải pháp khác.
V. KẾT LUẬN.
VI. TÀI LIỆU THAM KHẢO.
26 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 7472 | Lượt tải: 1
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về tham nhũng và chống tham nhũng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tham nhũng tại những nước có sự nhìn nhận sai lạc về cá nhân và tập thể lại càng trầm trọng và khó đẩy lùi hơn nhiều nước khác.
3. Nguyên nhân của tham nhũng.
Nguyên nhân gây ra tham nhũng có nhiều, nhưng nguyên nhân đầu tiên có tính sâu xa, bản chất là do chế độ người bóc lột người sinh ra. Chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói: Tham ô, lãng phí, quan liêu là những xấu xa của xã hội cũ. Nó do lòng tự tư tự lợi, ích kỷ hại nhân mà ra, nó do chế độ người bóc lột người mà ra. Một đặc điểm nổi bật của sự vận động xã hội, khác với mọi sự vận động vật chất khác trong giới tự nhiên ở chỗ con người hành động đều tính đến lợi ích hoặc mục đích. Mọi hành vi tham nhũng đều là nhằm thực hiện một mục đích tư lợi ích kỷ nào đó. Bởi vậy chế độ tư hữu chính là cơ sở tư tưởng của các hành vi tham nhũng. Không có tư tưởng tư lợi ích kỷ sẽ không có tham nhũng thiệt người lợi mình.
Nguyên nhân thứ hai gây ra tham nhũng là do luật pháp về sở hữu không rõ ràng,chủ thể sỏ hữu không được định rõ làm cho người có quyền lợi dẽ biến của công thành của tư, còn quần chúng vì không rõ tài sản đó là của mình nên để mặc kẻ xấu tung hoành.Chính sự yếu kém của luật pháp trong quản lý đã làm cho các vấn đề kinh tế trở thành khuất tất, không rõ ràng, tạo kẽ hở cho kẻ xấu tham nhũng. Một anh trưởng phòng tài vụ với vài chục tỷ đồng trong tay nếu đem gửi ngân hàng để lấy lãi ( mà hệ thống sổ sách tài vụ không chuẩn xác) dễ dàng kiếm được vài trăm triệu đồng trong một năm mà không hề bị phạm tội gì. Một cảnh sát kinh tế tóm được một vụ buôn bán ma tuý, nhưng đồng ý nhận vài trăm đô la để tha bọn tội phạm, dễ trở thành giàu có v.v… Chính hệ thống luật pháp không chuẩn xác của nhiều nước, do sử phạt về tội tham nhũng quá nhẹ, kẻ giàu sẵn sàng phạm tội để đi tù vài năm rồi ra tù, để rồi cả đời hưởng thụ số tài sản bất minh đã kiếm được.
Nguyên nhân thứ ba gây ra tham nhũng là sự hư hỏng và kéo bè kéo cánh của các giới lắm giữ guồng máy quyền lực, họ bao che nhau, họ ủng hộ và chạy tội cho nhau, đây là một thực tế đang sảy ra ở rất nhiều nước.
Nguyên nhân thứ tư gây ra tệ nạn tham nhũng là bản chất của nền kinh tế thị trường, của việc tự do hoá cạnh tranh đã tạo ra.
Nguyên nhân thứ năm là sự tê liệt ý chí của công dân, do mất lòng tin vào bộ máy Nhà nướ, do không có điều kiện, không có thông tin và không có đủ trình độ nhận thức, không được bảo vệ để chỉ và phân biệt ra các kẻ tham nhũng mà trừng phạt chúng.
4. Tác hại của tham nhũng.
Tham nhũng sinh ra hàng loạt tác hại cho xã hội.
Nó gây tổn hại to lớn về mặt kinh tế cho sự phát triển xã hội, kéo lùi sự phát triển tuỳ theo quy mô và mức độ gây hại của nó.
Nó làm giảm sút lòng tin của công dân đối với bộ máy và công chức, viên chức của bộ máy Nhà nước, triệt tiêu động lực cơ bản nhất của sự phát triển.
Tham nhũng sẽ làm “tầm thường hoá hệ thống pháp luật của Nhà nước, kỷ cương xã hội sẽ không thể giữ vững và làm cơ hội để cho kẻ thù phá hoại xâm lược. Nếu các nhà hành pháp mà tự mình phá hoại luật pháp thì làm sao có thể duy trì được phép nước. Những kẻ tham nhũng chính là những tên đầu chò trong việc làm tê liệt hệ thống hành pháp, làm cho Nhà nước trở thành đối lập và là gánh nặng cho công dân”.
Tham nhũng tất yếu dẫn đến phá hoại đội ngũ cán bộ Nhà nước bởi ví những kẻ tham nhũng sẽ lừa dối hủ hoá cấp trên, làm cho bộ máy Nhà nước trở thành quan liêu, chúng sẽ tăng cường đưa kẻ xấu vaof guồng máy và triệt hại đội ngũ viên chức tốt. Những kẻ tham nhũng chính là những tên phá hoại từ bên trong của hệ thống hành pháp quốc gia.
Chính với các tác hại to lớn kể trên cũng như nhìu tác hại do bệnh tham nhũng tạo ra, nhiều nước dã coi tham nhũng ( và cùng với nó là quan liêu) là quốc nạn của đất nước. Văn kiện Đại hội VIII của Đảng ta cũng lại một lần nữa khẳng định: nạn tham nhũng đang là một nguy cơ trực tiếp quan hệ đến sự sống còn của hệ thống chính trị, Đảng, Nhà nước và nhân dân ta đã có những biện pháp khắc phục song hiệu quả còn thấp. Phải tiến hành đấu tranh kiên quyết thường xuyên và có hiệu quả chống tham nhũng trong bộ máy Nhà nước, trong tất cả các ngành các cấp từ Trung ương đến cơ sở. Kết hợp với những biện pháp cấp bách với những giải pháp có tầm chiến lược nhằm hoàn thiện cơ chế chính sách, kiện toàn tổ chức, chấn chỉnh công tác quản lý, khắc phục sơ hở, vừa sử lý nghiêm kịp thời mọ vi phạm, tội phạm, huy động và phối hợp chặt chẽ mọi lực lượng đấu tranh nhằm ngăn chặn, đẩy lùi và loại trừ tham nhũng. Thủ trưởng cơ quan đợn vị, cán bộ chủ chốt các cấp phải gương mẫu đi đầu trong đấu tranh chống tham nhũng, trước hết là đối với bản thân. Đấu tranh chống tham nhũng phải gắn liền với đấu tranh chống buôn lậu, lãng phí, quan liêu, tập trung vào các hành vi tham ô, chiếm đoạt, làm thất thoát tài sản Nhà nước, đòi hối lộ, đưa và nhận hối lộ.
5.Thực trạng tham nhũng ở nước ta hiện nay.
Hiện tượng tham nhũng không những đặc biệt nan tràn trong số các quan chức làm việc tại cơ quan chuyên trách về kinh tế đối nội và đối ngoại mà nó còn sảy ra phổ biến ở các lĩnh vực luật pháp, văn hoá, giáo dục và quân sự. Nó đã và đang gây ra hậu quả hết sức nghiêm trọng làm sói mòn lòng tin của nhân dân, của xã hội vào Đảng và Nhà nước. Sự tha hoá của một số cán bộ Đảng viên cộng thêm thế lực thù địch lợi dụng diễn biến phức tạp của tình hình thế giới và trong nưởca sức tuyên truyền kích động, thực hiện diễn biến hoà bình đang trở thành một nguy cơ to lớn uy hiếp đến sự tồn vong của chế độ xã hội chủ nghĩa ở nước ta.
Các khoảng cách giàu nghèo tới mức phi lý, từ đó kích thích sự ham muốn ích kỷ của kẻ cầm quyền thoái hoá lao vào vòng tội lỗi. Chính nền kinh tế thị trường đã đẻ ra hố sâu ngăn cách giữa các con người, quan hệ giữa người với người mờ nhạt dần về trách nhiệm và đạo lý mà tăng dần về mối quan hẹ quyền lực, quan hệ vật chất đã tạo ra môi trường tốt cho tệ nạn tham nhũng phát triển.
Số đối tượng phạm tội tham nhũng như sau: ngưòi phạm tội tham ô nhận hối lộ, là đội ngũ giám đốc từ tổng giám đốc, giám đốc cơ sở, giám đốc công ty chiếm tỷ lệ khá lớn từ 15%-20%. Đội ngũ kế toán, thủ kho, cán bộ chuyên môn khác chiếm 20% và có khoảng 15% kẻ phạm tội là chủ tịch, phó chủ tịch uỷ ban nhân dân các cấp, một số là cán bộ cấp vụ, cấp thứ trưởng và tương đương. Bên cạnh kẻ phạm tội la công nhân viên chức Nhà nước, còn có 30% là tư thương và các phần tử ngoài xã hội. Điểm đặc biệt là có 75% số người phạm tội tham nhũng nêu trên đều có cuộc sống không những không khó khăn, thậm chí còn rất khá giả so với nhiều người khác, đồng thời có trình độ văn hoá cao.
Trong hầu hết các vụ án tham nhũng, nhận hối lộ gần đây thường có quy mô hoạt động rộng lớn, tạo thành đường dây tội phạm có vòng tròn khép kín. Nó không chỉ dừng ở phạm vi một đơn vị, một công ty, một huyện, một tỉnh mà xảy ra theo hiện tượng liên tỉnh với sự liên kết chặt chẽ cùng thực hiện phạm tội. Các hành vi thông đồng này diễn ra một cách trắng trợn, công khai chứ không bí mật, lén lút như trước đây. Do đó các vụ án do loại này gây ra thường có thiệt hại lớn, thủ đoạn phạm tội tinh vi, phức tạp nên khi bị phát hiện và sử lý số người phạm tội lớn và thường cùng lúc bị truy tố nhiều tội danh khác nhau như tham ô, cố ý làm trái, buôn lậu, cho vay sai nguyên tắc v.v…
Một vấn đề cần phải quan tâm là Nhà nước chỉ mới phát hiện và đưa ra xét xử những cán bộ trực tiếp quản lý sản xuất kinh doanh, cán bộ quản lý ở tầm vi mô, còn những cán bộ quản lý ở tầm vĩ mô thì rất ít bbị phát hiện và xử lý. Hiện tượng ô dù bao che hành vi phạm tội của cán bộ trung ương còn tồn tại, chưa có sự cương quyết sử lý những khuyết điểm sai lầm, gây ra hậu quả vô cùng nghiêm trọng cho Nhà nước của các cán bộ có thẩm quyền quyết định khi ký duyệt việc bổ nhiệm, việc thành lập công ty, duyệt các dự án đầu tư xây dựng… trước pháp luật, nếu có thì chỉư phạt hành chính qua loa cho xong chuyện.
Bởi vậy Nhà nước cần phải tăng cường va xử lý nhũng cán bọ quản lý Nhà nước ở tầm vĩ môcó hành vi phạm tội dù họ ở cấp nào, thêm nữa phải phát động phong trào của quần chúng, của toàn xã hội vào trận địa chống tham nhũng mới có khả năng ngăn chặn và hạn chế chúng ở mức tối đa.
Điểm một số vụ tham nhũng nổi cộm trong một vài năm gần đây:
Thứ nhất là: Tháng 12/2005, vụ án PMU18 bùng lên gây phẫn uất trong dư luận. Không ai có thể tưởng tượng ông Tổng Giám đốc xuất thân từ một gia đình dòng dõi (bố là tướng quân đội về hưu...) như Bùi Tiến Dũng lại có thể vác một lúc vài triệu USD đi đánh bạc dưới hình thức cá độ bóng đá. Tuy nhiên Bùi Tiến Dũng chưa phải là kẻ hoang phí đầu tiên và cuối cùng. Hàng loạt anh em của Dũng tại PMU18, hay tại các đơn vị khác như: Vũ Mạnh Tiên, Lương Mạnh Hoa, Nguyễn Việt Bắc... lần lượt lộ sáng. Ban PMU18 được giao quản lý số vốn tới 33.000 tỷ đồng, còn Bùi Tiến Dũng thì được giao quyền sinh, quyền sát đối với các nhà thầu muốn lăm le vào cuộc. Công ty Nam Bắc của Vũ Việt Dũng, Công ty Hoa Việt của Nguyễn Mậu Thôn... lần lượt bị phanh phui, cáo buộc là sân sau của Bùi Tiến Dũng. Một con đường 18 bị "rút ruột" chưa đủ, Quốc lộ 2 cắt băng khánh thành tháng 6/2005, chỉ chưa đầy 6 tháng sau quan sát bằng mắt thường dọc tuyến từ Đoan Hùng lên Hà Giang, đã thấy xuống cấp nghiêm trọng. Một căn nhà trên đường Phạm Huy Thông, giá hiện tại cũng vài chục tỷ đồng. Một biệt thự nữa trên phố lớn của Hà Nội đang cho thuê. Một căn nhà ở đường Trường Chinh... tổng khối tài sản ấy, giá thị trường hiện tại cũng vài chục tỷ. Một mảng tối "chạy án" được mở ra. Tháng 4/2006, nguyên Thứ trưởng Bộ Giao thông vận tải Nguyễn Việt Tiến bị bắt. Trước đó, là hàng loạt thông tin liên quan đến vị Thứ trưởng được đánh giá là rất có năng lực này. Sau đó nữa, là cuộc “đấm bốc” giữa Thứ trưởng và Bộ trưởng trên báo chí. Mọi chuyện được phanh phui hết: Quan hệ cá nhân, công việc, nhờ vả lẫn nhau... Bộ Giao thông vận tải rung rinh trước sức ép dữ dội của công luận. Tân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng chỉ thời gian ngắn sau khi nhậm chức, lập tức điều chuyển ngay Phó Chủ nhiệm Văn phòng chính phủ Nguyễn Văn Lâm về vai trò chuyên viên. Thủ trưởng Cơ quan điều tra, Thiếu tướng Cao Ngọc Oánh, vì có liên quan đến một bị can trong vụ án, cũng đành chấp thuận sự phân công công tác mới của tổ chức... Báo giới, công luận nhìn nhận những phán quyết mạnh mẽ của Thủ tướng trong thời gian ngắn là khẳng định quyết tâm của Chính phủ trong việc chống tham nhũng. Nhưng vụ án PMU18 là một khối lượng đồ sộ. Hàng chục dự án do siêu ban này quản lý, với hàng ngàn công trình, một C14 không thể kham nổi. Thiếu tướng Phạm Xuân Quắc trong 1 cuộc họp báo tại Tổng cục cảnh sát đã phải lên tiếng: "C14 chỉ điều tra riêng về dự án đường 18. Những dự án còn lại sẽ chuyển hồ sơ về Tổng cục phân công đơn vị khác làm", cho thấy, việc chứng minh tội phạm tham nhũng, không bao giờ dễ dàng, và nhanh chóng, như công luận chờ đợi
Thứ hai là: Bản án sơ thẩm tuyên 3 bị cáo nguyên là cán bộ lãnh đạo thị xã Đồ Sơn vì tiêu cực đất đai tại địa phương này hình thức: Cảnh cáo, các bị cáo phải nộp 50.000 đồng tiền án phí, đã gây sốc đối với công luận. Hàng chục mảnh đất trị giá tiền tỷ được chia chác, mang đi "đối ngoại". Địa phương trù dập người khiếu nại tố cáo... Sự phẫn uất của những người dân Hải Phòng đang chờ đợi một phiên toà tuyên "đúng người, đúng tội, không bỏ lọt tội phạm" suốt mấy năm trời cũng là điều dễ hiểu. Lại đích thân Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng phải yêu cầu Bộ Công an, kiến nghị Viện kiểm sát Nhân dân tối cao, Tòa án Nhân dân tối cao ra kháng nghị, huỷ án sơ thẩm để yêu câù cơ quan điều tra làm lại vụ án, cho thấy một lần nữa quyết tâm của Chính phủ. Lại đến lượt báo giới phanh phui ra: Lãnh đạo Hải Phòng đã có sự can thiệp sâu vào quá trình điều tra vụ án. Mục đích của sự can thiệp này, sẽ được làm rõ trong thời gian tới. Nhưng điều đó cho thấy, chống tham nhũng luôn không dễ dàng. Nếu không sự đồng thuận quyết tâm từ trung ương đến địa phương thì không thể thành công. Trong vụ án này, sẽ thiếu nếu không nhắc tới vai trò của một cá nhân: Ông Đinh Đình Phú. Kinh nghiệm của một đại tá công an về hưu đã giúp người hùng của Đồ Sơn sưu tầm, tìm kiếm đủ tài liệu để cung cấp cho báo giới vào cuộc phanh phui sự việc. Chứng cứ rõ ràng, tài liệu chắc chắn, sự thật bị bóc trần trên mặt báo như vậy, ra tới toà chỉ là một bản án "cảnh cáo"... Công luận không phẫn nộ mới là điều khó hiểu. Cũng vì lẽ đó, những vụ án khác chỉ có thể nêu nghi ngờ, đặt dấu hỏi... vì tài liệu của báo chí không thể đủ chứng minh, cũng là điều dễ hiểu. Vì vậy, cần thiết sự mạnh tay của cơ quan điều tra khi vào cuộc, sau khi báo chí phanh phui sự việc ra ánh sáng. Gần đây nhất, Thủ tướng liên tục chỉ đạo Bộ Công an cần nhanh chóng điều ra, đưa các vụ án lớn ra xét xử: Vụ Nguyễn Lâm Thái nâng khống thiết bị bưu điện, vụ Rusalka của siêu lừa Nguyễn Đức Chi, vụ PMU18... cho thấy, quyết tâm chống tham nhũng của Chính phủ đang rất quyết liệt.
Thứ ba là: Gần đây nhất, lại là vụ xà xẻo tiền cứu trợ đồng bào bị lũ quét ở Hương Sơn - Hà Tĩnh. Rất có thể, số tiền thiệt hại trong vụ việc này không lớn như nhiều vụ án kinh tế khác, nhưng tính chất của hành vi phạm tội thì lại đặc biệt nghiêm trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin của nhân dân. Vụ việc, kể từ khi được phanh phui, đích thân Phó Thủ tướng Trương Vĩnh Trọng đã 2 lần chỉ đạo Hà Tĩnh phải làm rõ, có báo cáo. Bộ Công an cũng vào cuộc để điều tra. Rốt cuộc, lần thứ nhất (ngày 25/8) Phó Thủ tướng chỉ đạo "phải làm rõ, báo cáo trước ngày 15/9", Hà Tĩnh xin khất hẹn. Ngày 21/9, lần thứ 2, Phó Thủ tướng tiếp tục chỉ đạo "làm rõ, báo cáo trước ngày 20/10". Tiền cứu trợ nhân đạo, dù từ bất cứ nguồn nào (ngân sách, quyên góp...) cũng luôn là một lĩnh vực nhạy cảm, ảnh hưởng trực tiếp đến lòng tin, tinh thần "tương thân tương ái", "lá lành đùm lá rách" của cả dân tộc. bộ luật hình sự có hẳn một điều luật (Điều 169) ghi rõ tội danh, quy định khu hình phạt đối với mọi hành vi xà xẻo, ăn chặn tiền cứu trợ nhân đạo. Trong bất cứ trường hợp nào, tiền và hàng hoá dùng cho mục đích nhân đạo phải được đảm bảo sử dụng đúng mục đích, đúng đối tượng. Trong vụ án này, sự quyết liệt chỉ đạo từ Trung ương đã thể hiện rất rõ. Còn ở địa phương, ít nhất đến nay đã có tới 7 đoàn thanh tra về sự việc này. Kết quả 1: Đoàn sau kết luận khác đoàn trước. Kết quả 2: Vụ việc bị phát hiện từ năm 2004, nhưng không hiểu vì lý do gì, đã không được xử lý nghiêm minh. Chỉ duy nhất một cán bộ bị điều chuyển từ vị trí Bí thư huyện uỷ Hương Sơn lên làm Phó Ban quản lý kinh tế cửa khẩu Cầu Treo. Kết quả 3: Chỉ đến khi báo chí vào cuộc quyết liệt, vụ việc mới bị phanh phui lên công luận. Kết quả 4: Hai lần Phó Thủ tướng chỉ đạo, có thời hạn báo cáo, tỉnh Hà Tĩnh vẫn liên tục khất lần.
III. HÀNH VI THAM NHŨNG.
1. Khái niệm hành vi tham nhũng.
Hành vi tham nhũng là hành vi thoả mãn đầy đủ các dấu hiệu pháp lý của một cấu thành tội tham nhũng đã được pháp luật quy định, đó là các hành vi có ý thức, có chủ định.
Điều 3: Pháp lệnh chống tham nhũng ngày 26/2/1998 ghi: các hành vi tham nhũng quy định trong Pháp lệnh bao gồm:
Tham ô tài sản xã hội chủ nghĩa.
Nhận hối lộ.
Dùng tài sản xã hội chủ nghĩa làm của hối lộ; lợi dụng chức vụ, quyền hạn để đưa hối lộ, môi giới hối lộ.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn để lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, lạm dụng tín nhiệm chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn sử dụng trái phép tài sản xã hội chủ nghĩa.
Lạm dụng chức vụ, quyền hạn chiếm đoạt tài sản của cá nhân.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi.
Lạm dụng quyền trong khi thi hành nhiệm vụ, công vụ để vụ lợi.
Lợi dụng chức vụ, quyền hạn gây ảnh hưởng đối với người khác để vụ lợi.
Lập quỹ trái phép để vụ lợi.
Giả mạo trong công tác để vụ lợi.
2. Đặc điểm của hành vi tham nhũng.
Hành vi tham nhũng nói chung là hành vi của một cá nhânhoặc một nhóm người trong đó có kẻ cầm đâu, nó thường tạo thành từ các nhóm người có quan hệ thân quen, họ hàng và gần đây trên thế giới lại hình thành các hành vi tham nhũng có tính tổ chức của nhiều người dựa trên lợi ích ích kỷ của họ. Loại hành vi này đang có xu hướng tăng lên rất mạnh mang lại hậu quả rất nghiêm trọng, loại này đang có hai đặc trưng nổi bật: một là được sự hoàn thành với sự tham gia của quyền lực của một tổ chức nhất định để đạt được mục đích thu được lợi ích hoặc lợi nhuận siêu ngạch; hai là xuất hiện dưới phương thức tổ chức có đặc trưng khác với hoạt động cá nhân. Loại này được gọi là tham nhũng siêu ngạch với hình thức biểu hiện chủ yếu như biển lậu thuế có tổ chức, buôn lậu có tổ chức, làm giả có tổ chức, vơ vét có tổ chức, xâm chiếm có tổ chức biểu hiện chủ yếu ở xâm chiếm vốn Nhà nước.
Về hình thức tham nhũng vẫn chủ yếu thông qua các hành vi tham ô, hối lộ, lộng quyền, sách nhiễu, dùng quyền lực để tư lợi dùng tiền tài làm càn vi phạm pháp luật, dùng tiền tài thao túng quyền lực, chiếm đoạt quyền lực v.v…
Về thủ đoạn, các hành vi tham nhũng được hình thành bằng nhiều cách: cấu kết bên trong, móc ngoặc ngoài nước cùng với sự hỗ trợ của các phương tiện kỹ thuật phức tạp đã làm cho hoạt động tham nhũng ngày một trở nên khó bị phát hiện.
Về lĩnh vực: Đối tượng mà các hoạt động tham nhũng săn đuổi nói chung tập chung vào các nơi có tiền bạc, nguồn lực, giấy phép, quyền hạn, hợp đồng, tài chính chức vụ, cơ hội… cho nên các lĩnh vực có tỉ lệ thành án cao trên thế giới ngày nay vẫn là các ngành ngân hàng, tài chính, thương mại, xuất nhạp khẩu, dự trữ quốc gia, giao thông vận tải, bưu điện, xây dựng, các đề án nước ngoài, các nơi cấp phép hoạt động hoặc thông qua thủ tục hành chính, các cửa khẩu v.v…
3. Động cơ tham nhũng.
Động cơ của hành vi tham nhũng từ các yếu tố cơ bản như lòng tham, ham muốn vật chất, lòng ham quyền lực và địa vị cao,muốn làm giàu một cách nhanh chóng, muốn có cuộc sống và lối sống hơn người về lợi ích, hoặc còn do yếu tố như thiếu bản lĩnh, thiếu ý chí, dễ sa ngã dẫn đến sự không chấp nhận sự mất cân đối giữa nhu cầu tiêu dùng với khả năng thu nhập và địa vị công việc của mình.
Những yếu tố trên đã trở thành những giá trị thường trực, hấp dẫn chủ thể và khi gặp hoàn cảnh có điều kiện thuận lợi sẽ trở thành động cơ thúc đẩy hành vi tham nhũng. Do vậy một điểm cần chú ý là hành vi tham nhũng bao giờ cũng do động cơ phạm tội thúc đẩy vì đây là hành vi phạm tội cố ý có tính toán kỹ lưỡng.
4.Mục đích của tham nhũng.
Mục đích của hành vi tham nhũng là cái đích mà người phạm tội đặt ra trong trí óc của mình và mong muốn đạt đến bằng hành vi phạm tội. Và khi có điều kiện khách quan cho phép thực hiện thì nó dễ trở thành hiện thực.
Điều kiện khách quan để thực hiện được xem là lý do dẫn đến việc thực hiện tội phạm vì sự xuất hiện động cơ và mục đích tội là giai đoạn đầu tiên để hình thành hành vi phạm tội.Song hành vi đó có diễn ra hay không còn phụ thuộc vào hoàn cảnh bên ngoài.Do đó trong quá trình xây dựng chủ nghĩa xã hội ở nước ta, ở chế độ công hữu về tư liệu sản xuất là chủ yếu mà Nhà nước lại không có một cơ chế quản lý đúng đắn thì sẽ dễ trở thành một mảnh đất màu mỡ cho tham nhũng nảy nở.
5. Một số phương thức thực hiện hành vi tham nhũng ở Việt Nam.
Các hình thức tham nhũng ở nước ta hiện nay về cơ bản vẫn là tham ô, hối lộ, dựa vào quyền lực để sách nhiễu, dùng quyền lực để mưu lợi riêng, dùng tiền để làm chuyện phi pháp và các thủ đoạn mà kẻ phạm tội triệt để lợi dụng là những sơ hở trong pháp luật, chính sách, trong các biện pháp quản lý và tổ chức điều hành.
Thủ đoạn phạm tội rất đa dạng và phức tạp nhưng thường tập trung ở các dạng sau:
5.1. Thông qua việ ký kết các hợp đồng
Nhiều doanh nghiệp lợi dụng quyền tự chủ trong sản xuất kinh doanh để tiến hành ký kết và thực hiện hợp đồng kinh tế với thủ đoạn lấy tiền hàng từ hợp đồng này để thanh toán cho hơp đồng khác. Không dùng tiền hàng đó vào sản xuất kinh doanh đã nảy sinh hiện tượng thanh toán sòng phẳng, dây dưa trong quyết toán và trong khi đó tiền, hàng đã được rút ra từ hợp đồng để sử dụng cho mục đích tiêu dùng cá nhân hoặc vào túi một số cá nhân có chức, có quyền tha gia ký kết hợp đồng…Nhiều vụ án kinh tế đã xét xử cho thấy các bên tham gia đã thoả thuận với nhau nâng giá thanh toán cao hơn giá thực tế, nâng tỷ lệ hao hụt cao hơn so với thục tế để lấy chênh lệch chia nhau. Vấn đề thiếu nững quy định chạt chẽ, cụ thể trong việc ký kết thục hiện, thanh quyết toán hợp đồng kinh tế đã là kẽ hở dẫn đến tham nhũng.
Hành vi thông đồng với nhau giữa giám đốc, kế toán và thủ quỹ để lập chứng từ khống, sửa chữa các hợp đồng kinh tế để chiếm đoạt tiền hàng của Nhà nước đã thể hiện sự liên kết chặt chẽ giữa người trong cơ quan với người ngoài xã hội, giữa cán bộ cấp trên với cán bộ cấp dưới, giữa cơ quan đơn vị này với cơ quan đợn vị khác tạo thành một vòng tròn khép kín.
5.2. Thông qua liên doanh liên kết.
Hầu hết trong các vụ án tham ô, cố ý làm trái đều có thủ đoạn phạm tội này. Hiện tượng phổ biến là một số đơn vị sản xuất kinh doanh đã bán tư cách pháp nhân cho một số tư nhân, cái gọi là hiện tượng tư thương núp bóng hay hiện tượng thông đồng, móc ngoặc dẫn đến việc buôn bán lòng vòng giữa cơ quan này với cơ quan khác nhờ hoạt động liên doanh liên kết, tạo điêu kiện cho tư thương có thể thực hiện các hợp đồng kinh tế bất hợp pháp lấy tiền và hàng của Nhà nước vào mục đích cá nhân. Lợi dụng liên doanh liên kết đã hình thành nhiều đơn vi kinh tế, từ giám đốc, phó giám đốc, kế toán, thủ quỹ, thủ kho đều là những người thân trong gia đình bất chấp pháp luật để tìm mọi cách kiếm lời và họ đã biến tư cách pháp nhân thành phương tiện thực hiện hàng loạt những hành vi phạm pháp như lừa đảo chiếm đoạt tài sản xã hội chủ nghĩa, tham ô, trốn thuế…
5.3. Lợi dụng việc trích thưởng và việc buông lỏng kiểm tra, kiểm soát để tham nhũng vơ vét.
Lợi dụng việc trích thưởng là một thủ đoạn khá phổ biến trong các vụ tham ô đến mức việc thưởng cho nhau được xem như chuyện bình thường trong quan hệ xã hội như thưởng hoa hồng, thưởng vì được công nhận hoàn thành kế hoạch, nghiệm thu công trình, thưởng vì ký kết hợp đồng. Điều này lý giải vì sao đấu tranh với tệ hối lộ là một việc gặp nhiều trở ngại.
5.4. Lợi dụng chức quyền để tham nhũng đất đai, đua người chốn đi nước ngoài, buôn bán trẻ em và phụ nữ, dùng các cơ quan này để đối phó cơ quan kia. Điều nay đang là nhức nhối của xã hội.
Ngoài các thủ đoạn kể trên, kẻ phạm tội còn lợi dụng triệt để việc buông lỏng về thanh tra, kiểm tra, kiểm soát để phạm các tội tham ô, hối lộ. Các cơ quan quản lý Nhà nước và các Nhà quản lý không thực hiện nghiêm túc chức năng kiểm tra, kiểm soát, buông lỏng việc kiểm tra, kiểm soát và áp dụng phương pháp quản lý lạc hậu đã giúp kể phạm tội có thể thực hiện hành vi như chi tiêu bừa bãi sai nguyên tắc, trích thưởng lan tràn tiền của Nhà nước, sử dụng vốn vào hoạt động không đúng mục đích.
IV. CÁC GIẢI PHÁP CHỐNG THAM NHŨNG Ở VIỆT NAM.
Bàn về một số giải pháp phòng, chống tham nhũng. Bản chất của tham nhũng là sự kết hợp giữa hai yếu tố: Quyền lực Nhà nước và tư lợi. Tác hại của hành vi tham nhũng rất to lớn, xâm hại trực tiếp đến tài sản của Nhà nước, các tổ chức, cá nhân trong xã hội, kìm hãm sự phát triển kinh tế xã hội của đất nước, ảnh hưởng tới đạo đức cách mạng, văn hóa công vụ của đội ngũ cán bộ, công chức, làm giảm lòng tin của quần chúng nhân dân đối với Đảng, Nhà nước. Công tác phòng, chống tham nhũng ở nước ta phải là cả một quá trình đấu tranh lâu dài, cam go, phức tạp, với những nhiệm vụ khác nhau tùy thuộc vào từng thời kỳ phát triển kinh tế, chính trị, xã hội của đất nước. Công tác đấu tranh phòng, chống tham nhũng không được nôn nóng, vội vàng. Đảng và Nhà nước phải xây dựng chiến lược chống tham nhũng trong từng thời kỳ, và xuyên suốt quá trình đấu tranh là từng bước thực hiện và đạt được những mục tiêu cụ thể. Dự thảo Luật phòng, chống tham nhũng hiện nay mang tính chất là những viên gạch đầu tiên cho “thành trì” chống tham nhũng vững chãi sau này. Trong giai đoạn hiện nay, chúng ta nên chú trọng một số biện pháp phòng, chống tham nhũng sau:
1. Phát triển các hệ thống hành chính công minh bạch và hữu hiệu.
Tính thanh liêm trong hệ thống hành chính công: Thiết lập các hệ thống tuyển dụng công chức đảm bảo được tính công khai, công bằng và hiệu quả, khuyến khích tuyển dụng các cá nhân có trình độ và tính thanh liêm cao nhất thông qua:
Phát triển hệ thống trả lương tương xứng với chi phí sinh hoạt theo mức độ phát triển của nền kinh tế nước đó.
-Phát triển hệ thống tuyển dụng và đề bạt một cách minh bạch nhằm tránh tình trạng lạm dụng quyền được bổ nhiệm, tình trạng vị thân và thiên vị, giúp nhanh chóng tạo ra được hệ thống hành chính công độc lập, và tăng cường sự cân bằng giữa việc bổ nhiệm chức danh nghề nghiệp và chức danh chính trị.
Phát triển hệ thống giám sát thích hợp đối với những quyết định có tính tùy tiện và những cá nhân có quyền đưa ra những quyết định tùy tiện.
Phát triển hệ thống nhân sự có sự luân chuyển nhiệm vụ thường xuyên theo hạn định nhằm giảm bớt các vỏ bọc dễ gây ra tham nhũng.
Thiết lập các quy tắc hành chính và đạo đức có thể triệt tiêu được xung đột lợi ích, đảm bảo sử dụng hợp lý các nguồn lực của nhà nước và phát triển tính chuyên nghiệp và thanh liêm tới mức cao nhất thông qua:
Việc cấm hoặc hạn chế ảnh hưởng của xung đột lợi ích.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 26578.doc