LỜI MỞ ĐẦU 1
NỘI DUNG:
I. Lý luận chung về tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp 3
1. Sự cần thiết phải tổ chức khoa học công tác quản lý TSCĐ nói chung và TSCĐ vô hình nói riêng 3
2. TSCĐ vô hình trong chế độ kế toán và Chuẩn mực kế toán 3
II. Kế toán TSCĐ vô hình theo chuẩn mực kế toán Việt Nam và kế toán của một số nước trên thế giới 7
1. Kế toán TSCĐ vô hình theo Chuẩn mực kế toán Việt Nam 7
2. Kế toán TSCĐ vô hình trên thế giới 13
III. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong chế độ, thực tế vận dụng chế độ ở Việt Nam 16
1. Công tác kế toán TSCĐ vô hình hiện nay 16
2. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình hiện nay 17
IV. Một số ý kiến nhằm hoàn thiện tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong các doanh nghiệp Việt Nam 20
KẾT LUẬN CHUNG 25
TÀI LIỆU THAM KHẢO 26
27 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1260 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về tổ chức quản lý và kế toán tài sản cố định vô hình trong doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
phải được xác định giá trị ban đầu theo nguyên giá.
Tài khoản sử dụng: Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình
Kết cấu và nội dung phản ánh của Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình:
Bên Nợ: Nguyên giá TSCĐ vô hình tăng
Bên Có: Nguyên giá TSCĐ vô hình giảm
Số dư bên Nợ:
Nguyên giá TSCĐ vô hình hiện có ở doanh nghiệp
Tài khoản 213 - TSCĐ vô hình có 6 tài khoản cấp 2:
Tài khoản 2131 - Quyền sử dụng đất: Phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế đã chi ra có liên quan trực tiếp tới sử dụng, gồm: tiền chi ra để có quyền sử dụng đất, chi phí cho đền bù, giải phóng mặt bằng, san lấp mặt bằng...
Tài khoản 2132 - Quyền phát hành : phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có quyền phát hành.
Tài khoản 2133 - Bản quyền, bằng sáng chế: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực thế chi ra để có bản quyền tác giả, bằng sáng chế.
Tài khoản 2134 - Nhãn hiệu hàng hoá: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các chi phí thực tế liên quan trực tiếp tới việc mua nhãn hiệu hàng hoá.
Tài khoản 2135 - Phần mềm máy tính: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là toàn bộ các chi phí thực tế doanh nghiệp đã chi ra để có phần mềm máy tính.
Tài khoản 2136 - Giấy phép và giấy nhượng quyền: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình là các khoản chi ra để doanh nghiệp có được giấy phép và giấy phép nhượng quyền thực hiện công việc đó.
Tài khoản 2138 - TSCĐ vô hình khác: phản ánh giá trị TSCĐ vô hình khác chưa quy định phản ánh ở các tài khoản trên.
1.1. Xác định nguyên giá TSCĐ vô hình trong từng trường hợp
- Mua TSCĐ vô hình riêng biệt: nguyên giá TSCĐ vô hình mua riêng biệt bao gồm giá mua (trừ các khoản được chiết khấu thương mại hoặc giảm giá), các khoản thuế (không gồm các khoản thuế được hoàn lại) và các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
- Mua TSCĐ vô hình từ việc sáp nhập doanh nghiệp: nguyên giá TSCĐ vô hình hình thành trong quá trình sáp nhập doanh nghiệp có tính chất mua lại là giá trị hợp lý của tài sản đó vào ngày mua (ngày sáp nhập doanh nghiệp). Doanh nghiệp phải xác định nguyên giá TSCĐ vô hình một cách đáng tin cậy để ghi nhận tài sản đó một cách riêng biệt.
- TSCĐ vô hình được Nhà nước cấp hoặc biếu tặng: nguyên giá TSCĐ vô hình được xác định theo giá trị hợp lý ban đầu cộng các chi phí liên quan trực tiếp đến việc đưa tài sản vào sử dụng theo dự tính.
- TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi: Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình khác hoặc không tương tự được xác định theo giá trị hợp lý của TSCĐ vô hình nhận về. Nguyên giá TSCĐ vô hình mua dưới hình thức trao đổi với một TSCĐ vô hình tương tự hoặc do được bán để đổi lấy quyền sở hữu một tài sản tương tự thì được tính bằng giá trị còn lại của TSCĐ vô hình đem trao đổi.
- TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp: Doanh nghiệp phải phân biệt giai đoạn nghiên cứu với giai đoạn triển khai. Toàn bộ chi phí phát sinh trong giai đoạn nghiên cứu không được ghi nhận là TSCĐ vô hình mà ghi nhận là chi phí sản xuất kinh doanh trong kỳ. Tài sản vô hình tạo ra trong giai đoạn triển khai được ghi nhận là TSCĐ vô hình nếu thoả mãn bảy điều kiện sau:
Tính khả thi về mặt kỹ thuật đảm bảo cho việc hoàn thành và đưa TSCĐ vô hình vào sử dụng hay để bán.
Doanh nghiệp dự định hoàn thành tài sản vô hình để sử dụng hay để bán.
Doanh nghiệp có khả năng sử dụng hoặc bán tài sản vô hình đó.
Tài sản vô hình đó tạo ra được lợi ích kinh tế trong tương lai.
Có đầy đủ các nguồn lực kỹ thuật, tài chính... để hoàn tất các giai đoạn triển khai, bán hoặc sử dụng tài sản vô hình đó.
Có khả năng xác định chắc chắn toàn bộ chi phí trong giai đoạn triển khai để tạo ra tài sản vô hình đó.
Ước tính có đủ tiêu chuẩn về thời gian sử dụng và giá trị theo quy định cho TSCĐ vô hình.
Nguyên giá TSCĐ vô hình được tạo ra từ nội bộ doanh nghiệp gồm các chi phí liên quan trực tiếp hoặc được phân bổ theo tiêu thức hợp lý và nhất quán từ các khâu thiết kế, xây dựng, sản xuất thử nghiệm đến chuẩn bị đưa tài sản đó vào sử dụng theo dự tính.
- Chi phí phát sinh sau ghi nhận ban đầu được tính vào nguyên giá TSCĐ vô hình nếu thoả mãn đồng thời 2 điều kiện:
Chi phí này có khả năng làm cho TSCĐ vô hình tạo ra có lợi ích kinh tế trong tương lai nhiều hơn mức hoạt động được đánh giá ban đầu.
Chi phí này được đánh giá một cách chắc chắn và gắn liền với một TSCĐ vô hình cụ thể.
- Sau khi ghi nhận ban đầu, trong quá trình sử dụng, TSCĐ vô hình được xác định theo nguyên giá, khấu hao luỹ kế và giá trị còn lại.
1.2. Khấu hao TSCĐ vô hình
Theo quy định, các doanh nghiệp có quyền tự xác định thời gian khấu hao các loại TSCĐ vô hình của mình tối đa là 20 năm. Khi xác định thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình làm căn cứ tính khấu hao cần xem xét các yếu tố:
+ Khả năng sử dụng dự tính của tài sản.
+ Vòng đời của sản phẩm và các thông tin chung về các ước tính liên quan đến thời gian sử dụng hữu ích của các loại tài sản giống nhau được sử dụng trong điều kiện tương tự.
+ Sự lạc hậu về kỹ thuật, công nghệ
+ Tính ổn định của ngành sử dụng tài sản đó và sự thay đổi về nhu cầu thị trường đối với các sản phẩm hoặc việc cung cấp dịch vụ tài sản đó mang lại.
+ Hoạt động dự tính của đối thủ cạnh tranh hiện tại hoặc tiềm năng.
+ Mức chi phí cần thiết để duy trì, bảo dưỡng.
+ Thời gian kiểm soát tài sản, những hạn chế về mặt pháp lý, về quá trình sử dụng tài sản.
+ Sự phụ thuộc thời gian sử dụng hữu ích của TSCĐ vô hình với các tài sản khác trong doanh nghiệp.
Doanh nghiệp sử dụng phương pháp khấu hao phải phản ánh cách thức thu hồi lợi ích kinh tế từ tài sản đó của doanh nghiệp. Phương pháp khấu hao cho từng TSCĐ vô hình được áp dụng thống nhất qua nhiều thời kỳ và có thể được thay đổi khi có sự thay đổi đáng kể cách thức thu hồi lợi ích kinh tế của doanh nghiệp. Chi phí khấu hao cho từng thời kỳ phải được ghi nhận là chi phí hoạt động sản xuất, kinh doanh trừ khi chi phí đó được tính vào giá trị của tài sản khác.
= -
Giá trị thanh lý được ước tính khi TSCĐ vô hình được hình thành đưa vào sử dụng bằng cách dựa trên giá bán phổ biến ở cuối thời gian sử dụng hữu ích ước tính của một tài sản tương tự và đã hoạt động trong các điều kiện tương tự. Giá trị thanh lý ước tính không tăng lên khi có thay đổi về giá cả hoặc giá trị.
Các doanh nghiệp phải xem xét lại thời gian khấu hao và phương pháp khấu hao TSCĐ vô hình ít nhất vào cuối mỗi năm tài chính. Nếu thời gian sử dụng hữu ích ước tính của tài sản khách biệt nhiều so với các ước tính trước đó thì thời gian khấu hao phải được thay đổi tương ứng. Nếu có sự thay đổi phương pháp khấu hao TSCĐ vô hình thì phải điều chỉnh chi phí khấu hao cho năm hiện hành và các năm tiếp theo.
1.3. Hạch toán kế toán một số hoạt động kinh tế chủ yếu
- Mua TSCĐ vô hình dùng vào hoạt động sản xuất kinh doanh hàng hoá, dịch vụ thuộc đối tượng chịu thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình (giá mua chưa có thuế GTGT)
Nợ TK 1332 - Thuế GTGT được khấu trừ
Có TK 112 - Tiền gửi ngân hàng; hoặc
Có TK 141 - Tạm ứng; hoặc
Có TK 331 - Phải trả cho người bán.
- TSCĐ vô hình được hình thành từ nội bộ doanh nghiệp trong giai đoạn triển khai:
+ Khi phát sinh chi phí trong giai đoạn triển khai thì tập hợp vào chi phí sản xuất kinh doanh hoặc chi phí trả trước dài hạn:
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn; hoặc
Nợ TK 642 - Chi phí quản lý doanh nghiệp
Có TK 111, 112; 152, 331...
+ Khi thấy kết quả triển khai thoả mãn định nghĩa và tiêu chuẩn ghi nhận TSCĐ vô hình thì:
Tập hợp chi phí thực tế phát sinh ở giai đoạn triển khai:
Nợ TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang
Nợ TK 133 - Thuế GTGT được khấu trừ (nếu có)
Có TK 111, 112, 152, 331...
Kết thúc giai đoạn triển khai, xác định nguyên giá TSCĐ vô hình:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 241 - Xây dựng cơ bản dở dang
- Khi doanh nghiệp được biếu tặng TSCĐ vô hình sử dụng ngay cho hoạt động sản xuất kinh doanh
+ Nhận TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu tặng:
Nợ TK 213 - TSCĐ vô hình
Có TK 711 - Thu nhập khác
+ Tính thuế thu nhập doanh nghiệp phải nộp (nếu có) trên giá trị TSCĐ vô hình được tài trợ, biếu tặng.
Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối
Có TK 3334 - Thuế và các khoản phải nộp NSNN.
+ Sau đó ghi tăng vốn kinh doanh của doanh nghiệp
Nợ TK 421 - Lợi nhuận chưa phân phối
Có TK 411 - Nguồn vốn kinh doanh
- Hạch toán giảm TSCĐ vô hình trong trường hợp chi phí nghiên cứu, lợi thế thương mại, chi phí thành lập doanh nghiệp đã được hạch toán vào TSCĐ vô hình trước khi thực hiện Chuẩn mực kế toán:
+ Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này nhỏ:
Nợ TK 627, 641, 642 (Giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích khấu hao)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá)
+ Nếu giá trị còn lại của những TSCĐ vô hình này lớn:
Nợ TK 242 - Chi phí trả trước dài hạn (Giá trị còn lại)
Nợ TK 214 - Hao mòn TSCĐ (Số đã trích dẫn khấu hao)
Có TK 213 - TSCĐ vô hình (Nguyên giá)
- Nếu do thay đổi phương pháp khấu hao và thời gian khấu hao TSCĐ mà mức khấu hao TSCĐ vô hình:
+ Tăng lên so với số đã trích trong năm:
Nợ TK 627, 641, 642 (Số chênh lệch khấu hao tăng)
Có TK 2143 - Hao mòn TSCĐ vô hình
+ Giảm so với số đã trích trong năm:
Nợ TK 2143 - Hao mòn TSCĐ vô hình
Có TK 627, 641, 642 (Số chênh lệch khấu hao giảm).
2. Kế toán TSCĐ vô hình trên thế giới
2.1. Ghi chép TSCĐ vô hình
Những quy định về ghi chép TSCĐ vô hình của Việt Nam đã phải thay đổi để hội nhập với các nước trên thế giới mà biểu hiện cụ thể là Chuẩn mực 04 ra đời chính là sự kết hợp Chuẩn mực kế toán quốc tế với kế toán một số nước vào thực tiễn Việt Nam.
Đối với những TSCĐ vô hình phát triển nội bộ thì giá trị của TSCĐ được phản ánh là chi phí bỏ ra để tạo ra TSCĐ vô hình đó, còn đối với TSCĐ vô hình mua ngoài thì giá trị tài sản là chi phí đã bỏ ra để có những tài sản này. Tuy nhiên trên thực tế có những trường hợp chi phí bỏ ra cho TSCĐ vô hình chỉ được thừa nhận như một khoản chi phí trong thời kỳ phát sinh mà không được tài snả háo vì một số lý do sau:
Để đơn giản cho việc xác định thuế thu nhập doanh nghiệp: ở một số nước, một số khoản chi phí cho TSCĐ vô hình được phép khấu trừ khi xác định lợi tức chịu thuế trong thời kỳ phát sinh chi phí. Chẳng hạn, chi phí cho nghiên cứ khoa học mà có thể dẫn đến những sản phẩm, hoặc phương pháp sản xuất mới có thể đăng ký bản quyền thường được phép khấu trừ khi xác định lợi tức chịu thuế trong năm có phát sinh chi phí.
Xác suất để có những lợi ích kinh tế trong tương lai từ những chi phí đã chi ra nhỏ hơn mức cần thiết để có thể coi đó là một tài sản.
Những chi phí chi ra cho tài sản vô hình không dáng kể nên có thể không được tài sản hoá mà phân bổ ngay trong kỳ phát sinh chi phí.
Đối với TSCĐ vô hình xác định được thì việc xác định giá trị của tài sản phát triển nội bộ và mua ngoài không có gì khác nhau. Nhưng với TSCĐ vô hình không xác định được thì vấn đề lại khác hẳn, chẳng hạn công ty A mua lại toàn bộ công ty B theo giá thị trường là 50 triệu USD trong đó giá thị trường của toàn bộ TSCĐ hữu hình và các khoản nợ là 45 triệu USD, phần chênh lệch 5 triệu USD được coi là giá trị của uy tín kinh doanh. Còn nếu tài sản này được phát triển nội bộ thì không được ghi nhận là TSCĐ vô hình dù chúng vẫn tồn tại trong doanh nghiệp. Chẳng hạn uy tín của công ty được hình thành trong suốt quá trình hoạt động, được kết tinh từ nhiều yếu tố khách quan và chủ quan trong nhiều thời kỳ khác nhau thì mặc dù chúng có khả năng mang lại lợi ích kinh tế trong tương lai nhưng về chi phí hình thành nên tài sản này không thể đo lường một cách tin tưởng nên chúng không thể phản ánh như một tài sản ở đơn vị. Nhiều nhà nghiên cứu đã đề xuất nhiều giải pháp khác nhau để giải quyết mâu thuẫn trên nhưng đến nay chưa có phương pháp nào giải quyết vấn đề một cách thuyết phục.
2.2. Khấu hao TSCĐ vô hình
Theo thông lệ khi một tài sản đã được thừa nhận thì đồng thời phải hình thành một phương pháp khấu hao phù hợp nhằm phản ánh giá trị hao mòn của tài sản đó trong quá trình sử dụng. Chế độ kế toán khấu hao TSCĐ vô hình ở các nước trên thế giới thường rất khác nhau.
Đối với TSCĐ vô hình xác định được thì phương pháp kế toán chung ở các nước trên thế giới là áp dụng một chế độ khấu hao có hệ thống. Nhưng về thời gian khấu hao thì tuỳ thuộc vào chế độ kế tóan ở mỗi nước. Thông thường chế độ kế toán ở các nước chỉ quy định khống chế về mặt thời gian tối đa, còn thời gian áp dụng cho việc tính khấu hao cụ thể của mỗi TSCĐ vô hình ở mỗi doanh nghiệp thì được xác định tuỳ theo tính chất và quan niệm của mỗi doanh nghiệp trên cơ sở những nguyên tắc được chấp nhận.
Đối với TSCĐ vô hình không xác định được thì chế độ khấu hao còn có sự không thống nhất cả về mặt quan điểm và phương pháp giữa các nước, các khu vực. Tại Anh và Đức, các công ty được phép ghi bút toán triệt tiêu giá trị của uy tín kinh doanh bằng việc ghi giảm các khoản dự trữ của công ty ngay trong năm có phát sinh. Như vậy là các công ty của Anh và Đức không phải thực hiện việc khấu hao loại TSCĐ vô hình này. Trong khi đó ở Canada thì quy tắc kế toán lại buộc các công ty phải phản ánh giá trị của uy tín kinh doanh trên hệ thống sổ sách như một tài sản và cho phép được khấu hao giá trị trong thời hạn tối đa là 40 năm (ở Australia thì thời hạn khấu hao tối đa chỉ là 20 năm). Nguyên nhân của sự không thống nhất này có lẽ bắt nguồn từ bản chất "không xác định được" của loại TSCĐ vô hình này cũng như những yếu tố chủ quan có tính quy ước trong việc xác định giá trị của uy tín kinh doanh.
Đối với Mỹ, khấu hao TSCĐ vô hình chỉ được tính theo phương pháp bình quân cho đến khi có phương pháp nào được chứng minh là thích hợp hơn. Theo thông lệ, khấu hao TSCĐ vô hình được ghi "Có" trực tiếp vào tài khoản tài sản đó, tài sản vô hình được báo cáo trên bảng tài khoản tài sản theo phần giá trị chưa được khấu hao. Lấy ví dụ như một TSCĐ vô hình là bằng sáng chế, khi mua độc quyền sáng chế thì tất cả các chi phí để mua quyền này được ghi "Nợ" vào tài khoản "Bằng sáng chế", tương tự, các khoản chi phí về kiện cáo bảo vệ độc quyền sáng chế cũng được ghi "Nợ" vào tài khoản "Bằng sáng chế". Bằng sáng chế cho người chủ nhân tấm bằng độc quyền sáng chế trong vòng 17 năm, tuy vậy giá trị tấm bằng phải được khấu hao dần trong một thời kỳ ngắn hơn 17 năm. Chẳng hạn nếu độc quyền sáng chế có giá trị 25.000 USD và có thời gian hữu dụng ước tính là 10 năm thì bút toán điều chỉnh sau được thực hiện vào cuối năm để khấu hao dần 1/10 giá trị của bằng.
T12 31 Khấu hao bằng sáng chế 2.500,00
Bằng sáng chế 2.500,00
(Để xoá sổ 1/10 giá trị bằng)
Bút toán ghi "Nợ" 2.500 USD là nguyên nhân của chi phí độc quyền sáng chế xuất hiện trên báo cáo thu nhập như một khoản của chi phí sản phẩm độc quyền được sản xuất ra, số ghi "Nợ" trực tiếp làm giảm số dư của tài khoản "Bằng sáng chế".
Một số tài sản vô hình có thời hạn hiệu lực giới hạn do pháp luật, hợp đồng hay bản chất của tài sản quyết định, các tài sản vô hình khác có thời gian sử dụng vô hạn nhưng các nguyên tắc kế toán đã được thừa nhận đòi hỏi thời gian khấu hao TSCĐ vô hình không bao giờ vượt qúa 40 năm, sự giới hạn này áp dụng cho cả trường hợp thời gian của tài sản (như sự tín nhiệm, nhãn hiêu) có thể kéo dài vô tận.
Tóm lại, với một nền kinh tế thị trường còn ở giai đoạn thấp như chúng ta thì vấn đề nghiên cứu bản chất cũng như chế độ kế toán TSCĐ vô hình còn chưa được chú ý tương xứng với tầm quan trọng của nó. Song với xu thế tất yếu của kinh tế thị trường, việc nghiên cứu và tham khảo phương pháp kế toán tài sản vô hình trên thế giới có ý nghĩa quan trọng trong việc định hình nhận thức về một phạm trù mới mẻ này.
III. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong chế độ, thực tế vận dụng chế độ ở Việt Nam
Chế độ kế toán doanh nghiệp Việt Nam ban hành theo Quyết định 1141 - TC - CĐKT ngày 01/11/1995 của Bộ Tài chính đã đánh dấu một bước ngoặt lịch sử trong sự phát triển của kế toán Việt Nam. Lần đầu tiên trong lịch sử kế toán, chế độ kế toán được ban hành đầy đủ cùng lúc gồm cả chế độ chứng từ, hệ thống tài khoản, chế độ sổ kế toán và hệ thống báo cáo tài chính. Riêng đối với TSCĐ vô hình thì đây cũng là lần đầu tiên TSCĐ vô hình được đề cập đến như là một yếu tố khá quan trọng trong một doanh nghiệp. Tuy nhiên việc vận dụng chế độ kế toán nói chung và kế toán TSCĐ vô hình nói riêng trong thực tiễn ở Việt Nam vẫn còn một số tồn tại thể hiện trong công tác kế toán và trong việc tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình.
1. Công tác kế toán TSCĐ vô hình hiện nay
Bằng cách thông tin đặc biệt của mình kế toán phục vụ cho các nhu cầu khác nhau của xã hội. Căn cứ vào các thông tin kế toán các nhà quản lý đặt ra kế hoạch, lập dự án; các nhà đầu tư quyết định liệu có nên đầu tư hay không, giúp cho Nhà nước hoạch định chính sách, soạn thảo luật lệ... Kế toán TSCĐ là một trong những phần hành kế toán quan trọng trong doanh nghiệp, song kế toán TSCĐ vô hình lại chỉ đóng vai trò thứ yếu trong phần hành này, không tương xứng với vai trò của TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp. Cho đến nay, các doanh nghiệp mới chỉ tập trung vào công tác kế toán TSCĐ hữu hình mà quên đi một loại tài sản có thể tạo ra sự tăng trưởng đột biến, điều mà TSCĐ hữu hình không thể nào làm được, đó chính là TSCĐ vô hình.
2. Thực trạng tổ chức quản lý và kế toán TSCĐ vô hình hiện nay
Chuẩn mực số 04 của Việt Nam ra đời đánh dấu một bước tiến trong sự nhìn nhận về TSCĐ vô hình theo hướng phù hợp với xu thế toàn cầu hoá, hội nhập trên toàn thế giới. Song như đã trình bày ở các phần trước, chính vì sự mới mẻ của TSCĐ vô hình đã khiến cho việc quản lý và kế toán TSCĐ vô hình còn nhiều vấn đề tồn tại cần giải quyết sớm.
Vấn đề thứ nhất: Bản quyền là biện pháp bảo đảm đầu tư quan trọng kể cả đầu tư trong nước và nước ngoài. Một trong các yếu tố mà doanh nghiệp tính toán là khả năng kiểm soát thị trường phân phối và tiêu thụ sản phẩm, muốn vậy doanh nghiệp không thể không quan tâm đến bản quyền, bằng sáng chế. Không giống như các TSCĐ hữu hình khác như nhà xưởng, máy móc, bản quyền là một TSCĐ vô hình gắn liền với uy tín của doanh nghiệp thông qua việc bảo hộ các đối tượng có chức năng nhận dạng như nhãn hiệu hàng hoá, tên thương mại. Người tiêu dùng nhận biết hàng hoá của doanh nghiệp chủ yếu căn cứ vào các dấu hiệu phân biệt như kiểu dáng sản phẩm, nhãn hiệu tên gọi gắn trên sản phẩm hàng hoá. Thế nhưng trong nhận thức của nhiều doanh nghiệp vẫn còn tồn tại quan niệm sở hữu Nhà nước, sử dụng khai thác tập thể, miễn phí vì thế chưa có ý thức bảo vệ và khai thác hiệu quả các sản phẩm sáng tạo của mình như một tài sản thuộc sở hữu của doanh nghiệp. Hiện nay các doanh nghiệp vẫn chưa nhận thấy một cách đầy đủ tầm quan trọng của bản quyền chính vì vậy vẫn còn thờ ơ trong việc đăng ký ngay bản quyền để được luật pháp xác nhận và cấp chứng chỉ bản quyền. Các doanh nghiệp Việt Nam do tiếp xúc với cơ chế thị trường chưa được bao lâu lại thêm việc xem xét TSCĐ vô hình chưa được thấu đáo nên chưa thấy rõ bản quyền là rào cản hữu hiệu khi xuất hiện cạnh tranh không lành mạnh, các hoạt động nhập khẩu, làm hàng giả. Vậy mà trước sự tấn công đó doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa biết cách quản lý và khai thác loại TSCĐ vô hình này.
Vấn đề thứ hai: Về nhãn hiệu, thương hiệu hàng hoá; vụ việc về cá tra, cá basa xuất khẩu sang thị trường Mỹ chính là bài học lớn để các doanh nghiệp thấy rõ tầm quan trọng của nhãn hiệu, thương hiệu. Khi một doanh nghiệp mua một nhãn hiệu nào đó gắn vào sản phẩm của mình thì giá trị nhãn hiệu thương mại đó được vốn hoá thành TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp. Song vấn đề đặt ra ở đây là các doanh nghiệp Việt Nam khi mua hoặc bán nhãn hiệu hàng hoá thì xác định giá trị nhãn hiệu đó ra sao, bị thua thiệt thế nào trong "cuộc mua bán đó" và khi nhãn hiệu đã được tài sản hoá thì doanh nghiệp quản lý TSCĐ vô hình này như thế nào.
Một nhãn hiệu mạnh có thể đảm bảo mức độ an toàn lâu dài, tỷ suất lợi nhuận cao và sẽ làm tăng giá trị cho tài sản hiện có của doanh nghiệp. Một nhãn hiệu mạnh có thể đạt được những giá trị như sự khác biệt trong cạnh tranh, những mức "giá hớt váng" mà bất kỳ doanh nghiệp nào cũng mong muốn và giảm chi phí sản xuất, đảm bảo cho cầu ổn định và tăng trưởng... ở Việt Nam, hãng Kao đã mua lại công ty P/S với giá cao hơn nhiều so với giá trị thực của một công ty P/S gần như phá sản. Họ vực dậy công ty với nhãn hiệu P/S đã có chỗ đứng vững chắc trong tâm trí người Việt và thuyết phục được khách hàng Việt Nam với hình ảnh của một sản phẩm truyền thống Việt Nam. Như vậy nhãn hiệu mạnh có giá trị lợi ích lớn mà không phải yếu tố nào, sản phẩm nào cũng có thể có được. Nhưng trong điều kiện nền kinh tế đang trong thời kỳ phát triển và đổi mới không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng nhận ra tầm quan trọng của nhãn hiệu do việc đánh giá giá trị nhãn hiệu cực kỳ phức tạp với bản chất vô hình và tính "tương lai" của nó.
Vậy khi một nhãn hiệu hàng hoá mua về được vốn hoá thành TSCĐ vô hình thì thực tế ở Việt Nam các doanh nghiệp đã quản lý và kế toán chúng ra sao? Với những doanh nghiệp khi nhãn hiệu hàng hoá là một loại TSCĐ vô hình của mình thì đã không xây dựng nên để duy trì và phát triển nhãn hiệu, không khơi dậy được cảm xúc của khách hàng, chưa trở thành sản phẩm quen thuộc trong tâm tưởng và trí nhớ của họ, chưa trở thành cái tên đầu tiên mà khách hàng chọn lựa khi mua sắm.
Vấn đề thứ ba: Theo Chuẩn mực số 04, một trong những điều kiện để ghi nhận là TSCĐ vô hình phải là doanh nghiệp xác định được mức độ chắc chắn khả năng thu được lợi ích kinh tế trong tương lai do tài sản đó mang lại. Nhưng trên thực tế không phải doanh nghiệp nào cũng có thể xác định được lợi ích kinh tế trong tương lai do còn hạn chế về trình độ, do thời gian sử dụng hữu ích của tài sản đó tính bằng năm trở lên trong khi các điều kiẹn kinh tế thay đổi do các nguyên nhân khách quan và chủ quan vẫn còn nhiều. Hiện nay vẫn chưa có phương pháp chuẩn nào để xác định lợi ích kinh tế trong tương lai của tài sản nên không có sự thống nhất giữa các doanh nghiệp trong việc xác định lợi ích kinh tế trong tương lai và tạo nên một khoảng cách không nhỏ giữa lợi ích ước tính với lợi ích thực của tài sản, chính điều này tác động không tốt lên kế hoạch quản lý và kế toán TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp.
Một số vấn đề nữa là: Trước kia các doanh nghiệp có quyền tự xác định thời gian khấu hao TSCĐ vô hình của mình trong khoảng thời gian từ 5 đến 40 năm thì nay trong chuẩn mực số 04, TSCĐ vô hình có thời gian tính khấu hao tối đa, là 20 năm. Tuy nhiên xác định thời gian khấu hao cụ thể của từng loại TSCĐ vô hình trong một khoảng tương đối rộng như vậy là một vấn đề khó khăn. Thực tế cho thấy các doanh nghiệp tự xác định thời gian khấu hao TSCĐ vô hình của mình chịu ảnh hưởng nhiều bởi quan niệm chủ quan của doanh nghiệp nên xác định thời gian khấu hao không hợp lý. Chẳng hạn nhãn hiệu hàng hoá được Nhà nước bảo hộ trong 10 năm và được gia hạn tiếp, như vậy nhãn hiệu hàng hoá có thể được khấu hao trong thời gian tối đa là 20 năm. Tuy nhiên thời gian hữu ích thực tế của một nhãn hiệu là không chắc chắn do đó nó nên được khấu hao trong thời gian ngắn hơn. Song mỗi doanh nghiệp lại có cách nhìn riêng của bản thân mình làm cho việc xác định thời gian khấu hao không thống nhất và tạo ra thực tế là giá trị trên sổ sách của tài sản quá lớn hoặc quá nhỏ hơn so với giá trị thực tế của tài sản đó.
Cùng với sự phát triển kinh tế, việc chuyển nhượng, nhượng bán TSCĐ vô hình cũng xuất hiện nhiều và ngày càng có khả năng sẽ phổ biến hơn. Chuẩn mực số 04 cho rằng: "Lãi hay lỗ phát sinh do nhượng bán TSCĐ vô hình được xác định bằng chênh lệch giữa thu nhập với chi phí nhượng bán cộng giá trị còn lại của TSCĐ vô hình. Số lãi, lỗ này được ghi nhận là một khoản thu nhập hoặc chi phí của doanh nghiệp". Hạch toán khoản chênh lệch trên vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là đúng theo nguyên tắc hoàn vốn của tài sản. Hiểu một cách đơn giản, nhượng bản tài sản là không khấu hao dần giá trị vào giá thành qua các năm mà tính giá trị còn lại vào chi phí ngay một lúc, thể hiện thời gian thu hồi vốn được rút ngắn. Nhưng thực tế phát sinh ở một số doanh nghiệp cho thấy việc hạch toán trên còn nhiều khúc mắc. Đối với một số doanh nghiệp, việc phản ánh nguyên giá, giá trị còn lại vẫn chưa phản ánh đúng giá trị. Việc khấu hao cơ bản của TSCĐ vô hình trong doanh nghiệp không phải lúc noà cũng phù hợp với việc quản lý và sử dụng tài sản nên có khi tài sản vẫn còn giá trị sử dụng thì giá trị trên sổ còn ít, thậm chí bằng không hoặc ngược lại.
Ngoài ra yếu tố giá cả thị trường cũng ảnh hưởng đến số chênh lệch thu - chi này nên có những doanh nghiệp có kết quả lãi lỗ chung không phản ánh được thực trạng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Trong những trường hợp cụ thể, ví dụ doanh nghiệp muốn chuyển đổi phần mềm máy vi tính sang loại khác tiện lợi hơn nhưng khi nhượng bán chỉ có phần giá trị còn lại là nguồn mua sắm mới còn phần chênh lệch phải đưa vào lợi nhuận chung để phân phối. Nếu đưa chênh lệch trên vào kết quả kinh doanh của doanh nghiệp là loại trừ yếu tố giá cả thị trường trong việc nhượng bán TSCĐ vô hình nhưng khi mua sắm mới TSCĐ vô hình vẫn chịu yếu tố giá cả thị trường nê
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- K1251.doc