Phần 1: Lời mở đầu
Phần 2: Nội dung
Chương 1 :Những khái niệm về vốn
1.Khái niệm về vốn
2.Nhiệm vụ ,chức năng, vai trò của quản lý nguồn vốn
a.Nhiệm vụ
b.Chức năng
c.Vai trò
3.Các hình thức huy động vốn
a.Hình thức huy động vốn chủ sở hữu
b.Huy động vốn nợ
4.Nội dung quản ký nguồn vốn
a.Xác định nhu cầu vốn đầu tư
b.Cơ cấu vốn
Chương 2:Thực trạng sử dụng vốn và huy động vốn cho xây dựng công trình bất động sản ở Việt Nam hiện nay
1.Thực trạng chung
2.Một số thành tựu đạt được
3.Những tồn tại và nguyên nhân
Chương 3:Những quan điểm và giải pháp huy động và sử dụng vốn có hiệu quả
1.Một số giải pháp huy động và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn
a. Đảm bảo môi trường kinh tế vĩ mô
b.Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế.
c. Xây dựng các chính sách huy động các nguồn vốn có hiệu quả.
2. Các nguồn huy động vốn đầu tư
2.1Xết trên góc độ vĩ mô
a.Nguồn vốn đầu tư trong nước
b.Nguồn vốn đầu tư nước ngoài
2.2 Trên góc độ vĩ mô
a.Nguồn vốn bên trong
b.Nguồn vốn bên ngoài
Phần 3
Kết luận
43 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1251 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số vấn đề về vốn và huy động vốn cho xây dựng công trình bất động sản ở Việt Nam hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tư phát triển các dự án bất động sản còn được bàn nhiều như một vấn đề nan giải, cần giải quyết cấp bách. Vậy mà chỉ trong thời gian ngắn, thị trường đó có những chuyển động hết sức sinh động.
Nhìn lại thời điểm đầu năm 2006, thị trường bất động sản ở vào chặng cuối mệt mỏi của nạn “đói vốn” từ sau Nghị định 181 buộc nhà đầu tư phải xây dựng hoàn chỉnh sản phẩm mới được kinh doanh. Khi ấy, các ngân hàng trong nước vẫn thắt hầu bao theo quán tính trước một thị trường đóng băng kéo dài và một phần khác bị ràng buộc bởi các cảnh báo hành chính của Ngân hàng Nhà nước.
Vì thế, mặc dù đang có dự án trong tay, phần lớn chủ doanh nghiệp bất động sản đi lên từ nguồn vốn hạn hẹp tích lũy được ở giai đoạn phân lô bán nền trước đó gần như mất năng lực đáp ứng định hướng phát triển đô thị mới theo hướng hình thành các khu dân cư tập trung, cao tầng với đầy đủ cơ sở hạ tầng của xã hội. Đối với nhiều chủ dự án trong nước, việc tìm kiếm thêm vài chục tỉ đồng lúc đó xem ra cũng rất khó.
Nhưng những diễn tiến mới trong năm 2006, nhất là vào những tháng cuối năm đó làm nờn sự thay đổi ngoài mong đợi cho thị trường bất động sản. Theo các chuyên viên kinh tế và chứng khoán, vốn đó được khai thông từ nhiều nguồn, xuất phát từ sức hấp dẫn của thị trường bất động sản trong tình hình cơ sở hạ tầng phát triển quá chậm so với nhu cầu của nền kinh tế sau một thời gian “nghỉ đông” quá dài.
Đầu tiên ,luồng vốn đầu tư nước ngoài đổ vào thị trương nhằm đón đầu cơ hội phát triển các laọi hình bất động sản thời “hậu WTO”. Nhiều doanh nghiệp FDI triển khai các dự án vốn hàng chục, hàng trăm triệu đô la Mỹ tại các trung tâm đô thị lớn làm cho thị trường bất động sản “nóng” lên. các quỹ đầu tư nước ngoài bắt đầu tìm kiếm cơ hội tham gia vào thị trường, các quỹ đầu tư chuyên ngành cũng bắt đầu xuất hiện. Mặc dù trong thời gian đầu cũng loay hoay tìm hướng tiếp cận thị trường, nhưng với mấy lần tăng vốn, các quỹ này đang phát huy tác dụng .
Tuy nhiên, các chuyên gia cho rằng chính sự phát triển chóng mặt của thị trường chứng khoán trong năm 2006 đã tạo ra luồng vốn đầu tư trong nước cực lớn cho thị trường bất đông sản .Một mặt các công ty có giá cổ phiếu lên cao có xu hướng chuyển dịch một khối lượng vốn vốn huy động được sang thị trường bất động sản,đặc biệt là các ngân hàng.
Nhờ huy động được lượng vốn nhiều ngàn tỉ đồng, các ngân hàng không chỉ chuyển vốn sang đầu tư bất động sản dưới nhiều hình thức mà bắt đầu cạnh tranh cho vay để giải ngân. Nhờ đó, khách hàng là các chủ đầu thức vay ưu đãi, linh hoạt và dài hạn hơn . “Điều này mang ý nghĩa kích cầu quan trọng, tạo thêm sự sôi động cho thị trườngg bất động sản”.
Bên cạnh đó, kênh đầu tư cá nhân vào nhà đất cũng được kích hoạt trở lại từ những người thắng lớn ở thị trường cổ phiếu. “Sự kích hoạt này gúp phần làm nóng thị trường, kéo theo nguồn vốn đầu tư khá lớn ở trong dân”. Các chuyên gia cũng cho rằng nguồn vốn này chỉ có thể huy động hiệu quả khi thị trường khởi sắc, sản phẩm có tính thanh khoản cao. “Tuy khó có thể xác định được số vốn từ kênh này,nhưng với hai lần sốt giá nhà đất hồi tháng 3 và tháng 8 năm 2007 vừa qua, có thể thấy đây là nguồn vốn đầu tư rất tiềm năng”.
Mặt khác, ông Trương Thái Sơn, Phó tổng giỏm đốc Công ty Địa ốc Hoàng Quân, cho rằng gần đây, thị trường bất động sản đang chứng kiến xu hướng tăng cường hợp tác giữa các nhà đầu tư dưới nhiều hình thức như hợp đồng hợp tác kinh doanh, thành lập liên doanh, mua bán cổ phần để trở thành đối tác chiến lược của nhau... Sự hợp tác diễn ra liên tục và đa dạng giữa các doanh nghiệp bất động sản với nhau, giữa doanh nghiệp bất động sản với các đối tác trong chuỗi cung ứng sản phẩm dịch vụ liên quan đến việc phát triển dự án bất động sản, với các định chế tài chính trong và ngoài nước, các doanh nghiệp có tiềm lực tài chính, thậm chí là giữa các doanh nghiệp ngoài ngành nhưng có nhu cầu đầu tư vào bất động sản... Theo ông Sơn, các doanh nghiệp chọn đối tác dựa trên thương hiệu và những điều kiện phù hợp chứ không phân biệt trong hay ngoài nước. “Quá trình này đang tháo gỡ bài toán về vốn tại nhiều doanh nghiệp”, ông nối. Với tình hình nguồn vốn đang diễn tiến tốt đẹp, ông Sơn ví sự đầu tư vào thị trường bất động sản trong tương lai (nếu thị trường được kích hoạt tốt) sẽ nhiều như “sung trên cành” so với các ngành kinh tế khác với bất động sản hấp thu vốn dễ dàng hơn.
Tuy nhiên theo ông, “sung” khụng rụng bừa bãi. “Tôi thấy các nhà đầu tư tài chính thường luôn “chọn mặt gửi vàng”, họ xem xet rất kỹ về tiềm năng phát triển của doanh nghiệp trước khi bỏ vốn đầu tư. Bằng chứng là thời gian vừa qua, những doanh nghiệp bất động sản nhận được sự hỗ trợ vốn từ các công ty tài chính lớn trong và ngoài nước đều có uy tín thương hiệu, có bộ máy năng động, trình độ cao, có chiến lược bán hàng hiệu quả hoặc ít nhất cũng có những nỗ lực tiếp thị, xúc tiến thương mại ,mở rộng quan hệ từ đó mới được nhận diện”.
Đồng tình với nhận định này, ông Trần Minh Hoàng, Chủ tịch HĐQT Công ty cổ phần đầu tư bất động sản Việt Nam, cho rằng nếu như trước đây, lợi thế kinh doanh thuộc về các doanh nghiệp có vốn tự có lớn thì với sự phát triển của thị trường vốn hiện nay, lợi thế sẽ thuộc về các doanh nghiệp có chuyên môn cao, định hướng tốt và quản trị chuyên nghiệp.
Tuy nhiên vốn đầu tư cho xây dựng công trình bất động sản vẫn dừng ở mức "Số văn phòng cao cấp hiện qúa ít so với nhu cầu doanh nghiệp. Viễn cảnh thiếu hụt sẽ kộo dài trong vài năm nữa, giá thuê chắc chắn còn tăng " - một nhà đầu tư nước ngoài nhận xét. Cuộc khủng hoảng kinh tế khu vực năm 1997 đó làm cho thị trường văn phòng cho thuê đình trệ, giá thuê văn phòng loại A vào thời điểm đó cao nhất cũng chỉ ở mức gần 15 USD/m2/tháng. Nhà đầu tư lỗ nặng, những công trình đang xây dựng thì đành hoãn lại hoặc chuyển công năng… Đến cuối năm 2003 thị trường này mới hồi phục và thực sự sôi động trong năm 2004 đến nay.
Theo Công ty tư vấn bất động sản CB Richard Ellis, hiện toàn bộ văn phòng loại A tại Hà Nội và TP.HCM hầu như đó cho thuê hết công suất với gía bình quân là 27 USD/m2/tháng. Các toà nhà loại B và C cũng đó cho thuê trên 95% diện tích. Theo ông Marc Townsend, Tổng giám đốc CB Richard Ellis, thị trường văn phòng cao cấp đang chịu nhiều áp lực cho cả nhà đầu tư và khách hàng. Hiện thị trường này đang bị điều phối bởi các công ty nước ngoài với việc đầu tư cho một dự án toà nhà cao cấp không hề đơn giản, nhất là về mặt tài chính. Diễn biến thị trường thì lại tương đối phức tạp .
Với các cao ốc tại trung tâm TP, nơi được xem là có vị trí giao dịch thuận lợi nhất cũng đang đau đầu vỡ tình trạng thiếu các bãi đậu xe. Thông thường bãi đậu xe tầng hầm của toà nhà không đủ sức chứa hết lượng xe của nhân viên chứ chưa kể đến của khách giao dịch bên ngoài. Đôi lúc chỉ vì “chuyện nhỏ” này mà ảnh hưởng đến hoạt động của công ty.Tại Hà Nội, doanh thu của Tổng công ty đầu tư và phát triển nhà và đô thị (HUD) đã tăng gấp đôi kể từ sau Tết. Theo số liệu thống kê của trung tâm, trước Tết doanh thu hằng tháng chỉ đạt 100 tỷ đồng, nhưng hiện đó lên đến 200 tỷ đồng. Đồng thời, nhà tại 3 khu đô thị của HUD được rao bán là Văn Quán (Hà Đông), Việt Hưng (Long Biên, Hà Nội) và Pháp Vân (Hoàng Mai, Hà Nội) đều được người mua săn lựng ráo riết. Tổng giám đốc VinaCapital phân tích, FDI đổ vào nhiều sẽ cần khu cụng nghiệp để xây nhà máy, nhà ở cho người lao động, khách sạn, căn hộ cao cấp cho các chuyên gia nước ngoài... Những người này sau khi có công ăn việc làm ổn định sẽ lại đổ xô đi tìm nhà ở. Theo đó, thị trường nhà ở dân dụng vẫn phát triển, song tới đây sẽ không tập trung trong thành phố nữa mà phát triển ra khu ngoại thành, gần khu công nghiệp hoặc loại nhà Affordable Apartment (nhà trong trung tâm nhưng giá cả phải chăng, phù hợp với thu nhập). Một chuyên viên tư vấn đầu tư tài chính cho biết, thông thường ở các nước có nền kinh tế phát triển, nhà đầu tư luôn xoay chuyển đồng vốn và đầu tư dàn trải để phân tán rủi ro chứ ít đầu tư theo một hướng nhất định. Ở nước ta, thời gian qua nhiều nhà đầu tư cũng bắt đầu kinh doanh theo hướng này. Trong bối cảnh nhiều nhà đầu tư đó kiếm khá nhiều tiền nhờ đầu tư chứng khoán trong thời gian qua, chắc chắn nhiều người sẽ đổ tiền vào lĩnh vực bất động sản để “đón gió ”, đồng thời cũng nhằm phân tán rủi ro trong đầu tư khi thị trường chứng khoán đó quá nóng. Rõ ràng, trên cả hai thị trường Hà Nội và TP.HCM tiềm năng vẫn còn rất lớn cho các nhà đầu tư bất động sản cao cấp .Việc hướng dẫn đầu tư vào khu vực nào sẽ xếp xuống hàng sau,vấn đề trước mắt là các nhà đầu tư cần tìm vị trí nào đắc địa cho việc triển khai dự án của mình .
2.Một só thành tựu đạt được:
Trong một thống kê gần đây, hiện nay 18% tổng dư nợ của các ngân hàng đang đựơc đầu tư vào bất động sản. vào thời kì thị trường phát triển nóng, tốc độ cho vay đối với dự án bất động sản của một số ngân hàng tăng đên 25%, trong đó các khỏan vay trung và dài hạn chiếm đến 82%. Nhưng từ khi thi trường đóng băng, các ngân hàng bắt đầu hạn chế cho vay,đến cuối năm 2005 tốc độ cho vay đã giảm xuống chỉ còn 9%.
Tại thành phố Hồ Chí Minh, lượng vốn đổ vào thị trường bất động sản đã lên đến 50 ngàn tỷ đồng, dư nợ cho vay vào bất động sản trên 25 ngàn tỷ đồng, chiếm 13,7% tổng dư nợ . Tại hà nội, tình hình cũng không khả quan hơn khi số vốn dư nợ đã lên đến 9 ngàn tỷ đồng, chiếm 10% tổng dư nợ. Tính đến 2001, số vốn đầu tư nước ngoài vào bất động sản đã lên đến 7 tỷ usd, nhưng sự trầm lắng đã khiến nhiều nhà đầu tư đang ở trạng thái chần chừ.
Mức vốn đăng ký bình quân một doanh nghiệp xây dựng này một tăng lên .Thời kỳ 1991 -1999 vốn đăng ký bình quân của một doanh nghiệp xây dựng là 0,57 tỷ đồng ,năm 2000 là 0.96 tỷ đồng nhưng đến năm 2002 là 1,8 tỷ đồng .Doanh nghiệp có số vốn đăng ký thấp nhât là 5 triệu đồng và cao nhất là 200 tỷ đông (hơn 130 triệu USD) và đến nay con só đó đã tăng lên rất nhiều lần .Một điều đáng chú ý là só vốn đầu tư thực tế cao hơn số vốn đăng ký ở cùng thời kỳ và doanh nghiệp tư nhân trong nước là nhà đầu tư chủ yếu và chiếm tỷ trọng lớn . Bước đầu đã tu hhút được vốn từ việc phát hành trái phiếu công ty .Chính phủ đã ban hành các quy định rõ ràng hơn về việc phát hành cổ phiếu và tráI phiếu của doanh nghiệp .Luật chứng khoán được quốc hội thông qua sẽ có hiệu lực từ ngày 1/1/2007 sẽ tạo hung hành lang pháp lý thuận lợi cho việc phát hành cổ phiếu của các doanh nghiệp .
Tín dụng ngân hàng vẫn là hình thức huy động vốn chủ yếu của các doanh nghiệp xây dựng nước ta .Hoạt động chủ yếu của các tổ chức tín dụng vẫn là huy động và cho vay với các hình thức tín dụng truyền thống .Với một điều rất đáng khuyến khích là trong hoạt động của các công ty cho thuê tài chính thường không có sự phân biệt đối xử với các thành phần kinh tế khác nhau,kể cả các công ty nhỏ cũng như những doanh nghiệp lớn.
3 .Những tồn tại và nguyên nhân :
Mặc dù có tiến bộ về tăng trưởng ,chuyển dịch cơ cấu và hiệu qua sản xuất kinh doanh ở một số mặt được nâng lên ,song so với yêu cầu của chiến lược phát triển kinh tế đến năm 2010 và hội nhập kinh tế khu vực ,quốc tế thì doanh nghiệp nước ta bộc lộn nhiều yếu kém bất cập .
Khoảng 90% trong số các doanh nghiệp chưa tới 10 tỷ đồng .Tổng số vốn điều lệ của 2300 doanh nghiệp chỉ có khoảng 250.000 tỷ đồng ,tương đương với khoảng 15,5 tỷ USD –tức chỉ tương đương với số vốn của một tập đoàn đa quốc gia cỡ trung bình trên thế giới –như một chuyên gia .
Thị trường chứng khoán Việt Nam lại chưa phát triển ,chưa trở thành kênh huy động vốn dài hạn cho đầu tư phát triển .Nước ta hiện naycó trên 400 cồn ty cổ phần đủ điều kiện niêm yết trên trung tâm giao dịch cổ phiếu ,song hiện chỉ có hơn 50 công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán ,nhưng tổng số tài khoản đầu tư chứng khoán của toàn thị trường mới chỉ chiếm con số rất khiêm tốn ,không bằng số tiền gửi tại một ngân hàng cổ phần nhỏ .
Dường như các công ty cổ phần không muốn niêm yết trên thị trường chứng khoán .Trong khi đó ở các nước khác ,được niêm yết là một vinh hạnh lớn ,phải phấn đấu một thời gian nhất định ,có khi trong nhiều năm mới đủ điều kiện niêm yết .nguyên nhân chính của hiện tượng này liên quan đến lợi ích của công ty khi niêm yết và không niêm yết .Đó là khi không niêm thì không cần kiểm toán hàng năm ,không tốn phí kiểm toán ,không cần công bố thông tin,dễ trốn thuê hơn …Tuy nhiên những cái gọi là ưu điểm khi không tham gia niêm yết chỉ có thể có trong thời điểm giao thời ,lúc tranh tối tranh sáng .Thực ra những lợi ích này hoàn toàn không bền vững khi mà nhà nước có các biện pháp quản lý chặt chẽ hơn .
Nhà đầu tư thiếu thông tin.Giao dịch chứng khoán qua internet chưa phát triển .Giao dịch chứng khoán qua mạng internet là một hìn thức phổ biến trên thế giới hiện nay.ở nước ta hình thức này đã xuất hiện nhưng còn rất mới mẻ với công chúng và nhà nhà đầu tư.Sau gần 5 năm đI vào hoạt động .TTCK Việt Nam đã thu hút hơn 20 000 tài khoản đăng ký của các nhà đầu tư kà cá nhân và tổ chức tham gia giao dịch chứng khoán .Hầu hết trong số đó là các nhà đầu tư tập chung ở TPHCM và Hà Nội .Thông thường nhà đầu tư muốn mua bán chứng khoán phảI đích thân đến trụ sở ,chi nhánh ,văn phòng đại diện ,đại lý nhận lệnh của công ty chứng khoán mà mình mở tài khoản ,ghi lệnh và chuyển cho nhân viên của công ty chứng khoán tại đó .
Doanh nghiệp chưa có phương tiện hiệu quả truyền tải thông tin đếna các nhà đầu tư .Thực tế đa số các công ty niêm yết chưa sử dụng website làm công cụ của riêng mình để truyền tải thông tin đến các nhà đầu tư.Nguyên nhân của tình trạng này là do:Các quy định pháp lý chưa được cải thiện ,nội dung bắt buộc công bố chưa bao hàm hết các vấn đề mà nhà đầu tư quan tâm .các công ty niêm yết chưa chú trọng tới khâu thông tin và quan hệ với nhà đầu tư .
Vẫn còn tồn tại sự mất bình đẳng giữa các thành phần kinh tế :giữa các DNNN và DN phi nhà nước thì DNNN dễ vay Ngân hàng hơn .Về mặt quan điểm và nhận thức .Đại hội Đảng lần IX đã khẳng định thành phần kinh tế tư nhân được tồn tại và phát triển lâu dài .Trong thực tế ,quan điểm này chưa được thực hiện một cách nghiêm túc .Điều này thể hiện ở chỗ trong công việc hàng ngày người ta vẫn còn phân biệt đối xử với khu vực kinh tế tư nhân.Người ta vần ưu tiên cho khu vực kinh tế nhà nước từ lĩnh vực kinh doanh tài chính cho đến tín dụng,ngân hàng và các lĩnh vực khác.Trong kinh doanh ,còn nhiều kĩnh vực kinh tế tư nhân không được làm như kinh tế nhà nước.Về vón ,việc tiếp cận đến các nguồn vốn của khu vực tư nhân còn nhiều khó khăn ,nhất là vốn vay ưu đãi .
Khả năng tiếp cận vốn của các doanh nghiệp ngoài quốc doanh còn hạn chế ,mà nguyên nhân có từ hai phía :Các doanh nghiệp ngoài quốc doanh thiếu các điều kiện vay vốn ,các tổ chức tín dụng lo sợ vấn đề an toàn vốnvay.Do đó ,việc phân bổ tín dụng vẫn được xem còn nhiều ưu tiên hơn cho các doanh nghiệp nhà nước ,nhất là tập trung vào nhiều vốn cho một số tổng công ty 90,91 .Cơ cấu nguồn vốn cũng như cơ cấu đầu tư chưa phù hợp và đáp ứng yêu cầu đầu tư trung dài hạn cho các công trình hạ tầng cơ sở có tính chất nền tảng cho CNH ,HĐH ,nhất là trong lĩnh vực nông nghiệp ,nông thôn.
Hiện các doanh nghiệp vừa và nhỏ có tiềm lực tài chính nhỏ bé .Bình quân số vốn của doanh nghiệp vừa và nhỏ chỉ là 1800 triệu đồng .Bên cạnh đó ,việc tiếp cận với các nguồn vốn tài chình từ các tổ chức tín dụng của các doanh nghiệp tuy đã được cải thiện nhưng còn nhiều khó khăn .Tỷ lệ các doanh nghiệp vừa và nhỏ vay được vốn ngân hàng chỉ khoảng 57% nhưng lượng vốn vay không nhiều và thời gian cũng như thủ tục vay vốn còn phức tạp .Không chỉ các donh nghiệp vừa và nhỏ ,với các doanh nghiệp lớn cũng khó khăn không kém ,nhất là vay dưới hình thức bảo đảm nợ vay bằng tài sản hình thành từ vốn vay.
Định giá tài sản của doanh nghiệp chưa tốt .Tài sản của doanh nghiệp thường bị định giá thấp hơn giá thực tế.Doanh nghiệp vay được ít hơn và ảnh hưởng đến các quyết định của doanh nghiệp .
Các doanh nghiệp cần vốn nhưng không đủ điều kiện vay vốn khó có thể tiếp cận được với nguồn vốn này.Một số giải pháp đối với doanh nghiệp để có thể vay được vốn ngân hàng nhiều hơn: Doanh nghiệp phải tạo uy tín với Ngân hàng,thanh toán nợ đúng hẹn ,lập các báo cáo tài chính đầy đủ,…Doanh nghiệp cần có những dự án kinh doanh hiệu quả để ngân hàng dễ cho vay hơn ,và có thể được số vốn như mong muốn.
CHƯƠNG 3 : QUAN ĐIỂM VÀ GIẢI PHÁP
1.Giải pháp huy động và sử dung có hiệu quả các nguồn vốn :
a, Đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô:
Sự ổn định của môi trường kinh tế vĩ mô luôn được coi là điều kiện tiên quyết của mọi ý định và hành vi đầu tư .Về nguyên tắc ,để thu hút được các nguồn vốn đầu tư nhằm ngày càng đáp ứng tốt hơn các yêu cầu phát triển của đất nước ,phải đảm bảo nền kinh tế đó là nơI an toàn cho sự vận đọng của nó và sau nữa là nơi có năng lực sinh lợi cao,khả năng phát triển tốt trong tương lai.
Trong đầu tư cho nền kinh tế nói chung và đầu tư cho xây dựng công trình bất động sản nói riêng ,thì sự an toàn của vốn đòi hỏi môi trường kinh tế vĩ mô ổn định,không gặp những rủi ro do các yếu tố chính trị xã hội hay môI trường kinh doanh gây ra .Đối với vốn nước ngoài ,nó còn yêu cầu năng lực trả nợ tối thiểu của nước nhận đầu tư .Một tốc độ tăng trưởng xuất khẩu tối thiểu đủ để chủ nợ thu hồi lại vốn . Đó là yêu cầu tối thiểu mà bất cứ một kế họach đầu tư nào cũng hướng tới .Tuy nhiên sự ổn định kinh tế vĩ mô ở đây phải thoả mãn yêu cầu gắn liền với năng lực tăng trưởng kinh tế ,hay ổn định trong tăng trưởng .tức là nền kinh tế có thể chủ động kiểm soát được quá trình tăng trưởng ,chủ động kiểm soát được úa trình tăng trưởng ,chủ đông thiết lập được trạng thái cân bằng đó cũng đồng thời là việc tạo ra cơ sở cho sự ổn định lâu dài và vững chắc.Một số điều kiện cụ thể:
Ổn định giá trị tiền tệ : Đây là một vấn đề quan trọng ảnh hưởng trực tiếp đến khả năng huy động vốn cho xây dựng nói riêng và cho nền kinh tế nói chung .ổn định giá trị tìên tệ ở đây còn bao hàm cả việc kiềm chế lạm phát và khắc phục hậu quả của tình trạng giảm phát nếu xảy ra với nền kinh tế .Trong cả 2 trường hợp nó đều tác động đến nhu cầu đầu tư và sự tăng trưởng kinh tế.Để đạt yêu cầu ổn định giá trị tiền tệ,cần tạo ra sự vận động đồng bộ các yếu tố của nền kinh tế thị trường bao gồm cả lĩnh vực sản xuất vật chất hệ thống tài chính và ciư chế phân phối ,lưu thông tương ứng.
Bên cạnh đó các họat động của ngân sách nhf nước cũng có ý nghĩa quan trọng.Ngân sách nhà nước mà thâm hụt triền miên cũng sẽ đi kèm với tình trangk lạm phát cao và mất ổn định.Chính vì vậy kiểm soát được mức thâm hụt ngân sách nhà nước cũng được coi là một mục tiêu ổn định tài chính hướng tới tới sự ổn định kinh tế vĩ mô.Một mặt thuế và chi ngân sách nhà nước là những công cụ quan trọng trong việc ổn định giá trị tiền tệ.Tuy nhiên thuế và các công cụ tài chính khác cũng là một trong những chính sách quan trọng trong việc khuyến khích đầu tư và tái đầu tư từ lợi nhuận.Vì vậy khi sử dụng công cụ này trong ổn định giá trị tiền tệ đồng thời phảI đảm bảo nguồn thu cho ngân sách nhà nước để đáp ứng nhu cầu chi tiêu đầu tư của chính phủ .Tiếp tục những cải cách hành chính để có thể giảm tương đối chi thường xuyên trong tổng chi ngân sách .Từng bước tăng quy mô và tỷ trọng cũng như hiệu quả vốn đầu tư từ ngân sách nhà nước .
Lãi suất và tỷ giá hối đoái :Lãi suất và tỷ giá hối đoái không chỉ ảnh hửơng đến hoạt động thu hút các nguồn vốn đầu tư thông qua việc tạo lập ổn định kinh tế vim mô mà còn có tác động đến dòng chảy của các nguồn vốn đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định.Đối với lãI suất ,về mặt lý thuyết lãI suất càng cao thì xu hướng tiết kiệm càng lớn và từ đó tiềm năng của các nguồn vốn đầu tư càng cao.Bên cạnh đó ,nếu mức lãI suất trên thị trường nội địa mà cao tương đối so với mức lãi suất quốc tế thì còn đồng nghĩa với việc hấp dẫn trong thu hút vốn đầu tư nước ngoài.Trong điều kiện toàn cầu hoá và mở cửa của nền kinh tế thế giới ,mức lãi suất tương đối cao tại thị trường trong nước là công cụ hữu hiệu để chính phủ bảo vệ được nguồn vốn của nước mình ,ngăn chặn được nạn đào thoát vốn ra nước ngoài
Tuy nhiên ,bản thân yếu tố lãi suất cũng có yếu tố hai mặt ,đó là :khi tăng lãi suất cũng có nghĩa là chi phí sử dụng vốn trong đầu tư cao hơn .Và tất nhiên điều này sẽ lamg giảm đi phần lợi nhuận thực của nhà đầu tư.Tác động kích thích huy động với lãi suất cao xét trên góc độ này có chiều hướng ngược lại .Vì vậy khi sử dụng công cụ lãi suất phải hết sức cẩn thận để xác định mức lãi suất phù hợp,có tác động tích cực đến hiệu quả huy động vốn.
- Đối với tỷ giá hối đoái ,tực tế cho thấy rằng giá trị của đồng nội tệ càng giảm thì khả năng thu lợi từ nội tệ càng lớn.Điều này sẽ khuyến khích các nhà đầu tư vào hàng xuất khẩu và khi đó sức hấp dẫn vốn nước ngoài cũng sẽ càng lớn .Một nước có khả năng xuất khẩu cao,khả năng trả nợcủa nó cũng được bảo đảm hơn ,mức độ rủi ro trong đầu tư giảm xuống và từ đó sẽ khuyến khích các nhà đầu tư bỏ vốn vaog kinh doanh .Tuy nhiên khi xem xét tỷ giá hối đoái trong chiến lược huy động vốn của của một nền kinh tế mở ,giá trị các đồng tiền trên thế giới không chỉ ảnh hưởng đến khả năng vay và trả nợ thông qua việc làm tích cực hoá cán cân thương ại mà còn ảnh hưởng trực tiếp đến khối lượng nợ phảI trả .Việc vay nợ tính theo một đồng ngoại tệ đang có xu hướng mạnh lên đồng nghĩa với việc phải trả một khôí lượng nợ thực tế lớn hơn giá trị danh nghĩa trên hợp đồng .Vì vậy một tỷ giá phù hợp vời tình hình phát triển của đất nước sản xuất có vai trò to lớn đối với việc thu hút vốn đầu tư đặc biệt là các nguồn vốn đầu tư nước ngoài .Tuy nhiên,bài toán này chỉ có thể giải được đúng đáp số khi đặt nó trong sự cân nhắc về lợi ích tổng thể và dài hạn của nền kinh tế .
Về lâu dài ,cần phải thực hiện tốt chức năng hoạch định chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nhà nước trong mối quan hệ mật thiết với lĩnh vực thu hút các nguồn đầu tư .Cần nâng cao chất lượng quy hoạch tổng thể ,có chính sách huy động đồng bộ các nguồn vốn ,phù hợp với quyu hoạch nghành ,lãnh thổ và lĩnh vực ưu tiên .Nâng cao năng lực và hiệu quả quản lý đầu tư gắn liền với việc hoàn thiện bộ máy tổ chức ,đơn giản hoá các thủ tục hành chính về đầu tư và xây dựng .Các cơ chế về chính sách đầu tư phải thống nhất,đồng bộ và dễ thực hiện .
Nhanh chóng cải thiện và đồng nhất môi trường đầu tư để tạo điều kiện cho việc khai thác các nguồn vốn đầu tư phát triển các thành phần kinh tế .Coi trọng các hoạt động kế toán ,kiểm toán ,tư pháp hỗ trợ và đảm bảo môi trường kinh tế kinh tế vĩ mô ôn định ,minh bạch ,nhất quán và phù hợp với thông lệ quốc tế .
b, Tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng nhanh và bền vững cho nền kinh tế :
Đặt trong bối cảnh tổng quát và dài hạn .năng lực tăng trưởng của nền kinh tế là yếu tố quan trọng xác định triển vọng huy động các nguồn vốn đầu tư một cách có hiệu quả .Vấn đề tăng trưởng ở đây được nhìn nhận như một yếu tố tạo sức hấp dẫn ngày càng lớn đối với vốn đầu tư cả trong nước và nước ngoài .Vấn đề này liên quan đến một nguyên tắc mang tính chủ đạo trong việc thu hút vốn đầu tư :Vốn đầu tư càng hiệu quả thì khả năng thu hút nó càng lớn .Thực chất mối quan hệ này nằm trong mối quan hệ nhân quả của các sự vật .Thứ nhất ,với năng lực tăng trưởng được bảo đảm ,năng lực tích luỹ của nền kinh tế sẽ có khả năng gia tăng.khi đó quy mô các nguồn vốn trong nước có thể huy động sẽ được cảI thiện .Thứ hai .triển vọng tăng trưởng và phát triển càng cao cũng sẽ là tín hiệu tốt thu hút các nguồn vốn đầu tư nước ngoài .
Thực tiễn Việt Nam trong những năm qua,ở chừng mực nhất định đã chứng minh cho mối quan hệ này .Từ khi thực hiện chính sách đổi mới ,mở cửa ,bên cạnh viẹc thoát khỏi khủng hoảng,nền kinh tế Việt Nam còn đạt được thành tích tăng trưởng cao liên tục (bình quânước GDP hàng năm trong giai đoạn 1991-1997 là trên 8% ,có những giai đoạn tăng 2 năm liên tục trên 9% mỗi năm ).Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu đạt khoảng trên 20%/năm .Điều đó làm cho khả năng huy động và khai thác sử dụng các nguồn vốn đầu tư được mở rộng hơn.Tốc độ gia tăng quy mô vốn đầu tư phát triển là rất đáng kể ( giai đoạn 1991- 1995 đạt mức 29,1%/năm ).Tỷ trọng vốn đầu tư phát triển so với GDP cũng có xu hướng gia tăng mạnh mẽ ( năm 1991 là 17,6% thì đến năm 1997 là 30,9%GDP ).Trong đó ,cả nguồn vốn trong nước và nguồn vốn nước ngoài đều có sự chuyển biến về quy mô và tốc độ tăng trưởng .
Để tạo lập và duy trì năng lực tăng trưởng của nền kinh tế nhằm thu hút có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư cho nền kinh tế ,trong thời gian tới cần :
-Tăng cường phát triển sản xuất kinh doanh và thực hành tiết kiệm cả trong sản xuất và trong tiêu dùng của toàn xã hội.Có các biện pháp hữu hiệu để sử dụng có hiệu quả các nguồn vón đầu tư.Đây vừa là mục tiêu ,vừa là điều kiện để phát triển và là cơ sở đảm bảo việc gia tăng khả năng huy động các nguồn vốn.
- Đối với tất cả các nguồn vốn đầu tư ,phảI xác định yếu tố hiệu quả là yêu cầu về mặt chất lượng của việ huy đọng vốn trong lâu dài.Với vai trò trung tâm điều chỉnh và định hướng quả trình đầu tư phát triển của nền kinh tế .hiệu quả của nguồn vốn đầu tư nhà nước phảI đặc biệt chú trọng .Các dự án sử dụng vốn của nhà nư
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- C0205.doc