Lời nói đầu.
CHƯƠNG I: KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN VÀ VAI TRÒ CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA KHU VỰC KINH TẾ TƯ NHÂN.
I. Khu vực kinh tế tư nhân trong nền kinh tế thị trường.
1. Khái quát chung về khu vực KTTN.
2. Vai trò của khu vực KTTN trong nền kinh tế thị trường.
3. Đặc điểm của khu vực KTTN.
3.1 Ưu thế của doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN.
3.2 Một số hạn chế của các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN.
II. Vai trò của chính sách thuế đối với sự phát triển của khu vực kinh tế tư nhân.
1.Nội dung của chính sách Thuế.
2. Vai trò của chính sách Thuế trong sự phát triển của khu vực KTTN.
CHƯƠNG II: HIỆN TRẠNG CỦA CHÍNH SÁCH THUẾ ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN KTTN Ở VIỆT NAM .
I. Tình hình phát triển của khu vực KTTN.
1. Tình hình phát triển của khu vực KTTN.
1.1 Số lượng và quy mô doanh nghiệp.
1.2 Cơ cấu của các DNTN.
1.3 Số lượng lao động.
1.4 Đất đai và công nghệ.
1.5 Đóng góp cho nền kinh tế.
2. Những khó khăn chủ yếu của khu vực KTTN ở nước ta .
2.1 Khó khăn về vốn.
2.2 Khó khăn về công nghệ, kỹ thuật.
2.3 Trình độ quản lý doanh nghiệp và tay nghề người lao động.
2.4 Thiếu mặt bằng sản xuất kinh doanh ổn định, lâu dài.
2.5 Thiếu thông tin và phương tiện xử lý thông tin.
2.6 Những khó khăn khác.
II. Tác động của các chính sách tài chính đối với khu vực KTTN
1. Chính sách tín dụng ngân hàng.
2. Chính sách thuế.
3. Chính sách hỗ trợ phát triển của Nhà nước.
4. Kết quả đạt được của các chính sách tài chính đối với sự phát triển của khu vực KTTN.
III. Những bất cập của các chính sách tài chính làm hạn chế sự phát triển của khu vực KTTN.
1. Những rào cản từ phía chính sách tín dụng.
2. Sự phân biệt đối xử trong chính sách thuế.
3. Nguồn vốn Hỗ trợ phát triển cung cấp cho khu vực KTTN hạn chế.
4. Nguyên nhân.
Chương III.
MỘT SỐ KIẾN NGHỊ NHẰM HOÀN THIỆN CÁC CHÍNH SÁCH TÀI CHÍNH ĐỂ HỖ TRỢ PHÁT TRIỂN KHU VỰC KTTN Ở VIỆT NAM.
I. Quan điểm chung về sử dụng các chính sách tài chính hỗ trợ phát triển khu vực KTTN.
1. Định hướng phát triển khu vực KTTN.
2. Quan điểm về sử dụng các chính sách tài chính để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN.
II. Một số kiến nghị nhằm hoàn thiện các chính sách tài chính để hỗ trợ phát triển khu vực KTTN.
1. Chính sách tín dụng thuận lợi hơn cho người đi vay và người cho vay.
2. Sửa đổi một số chính sách thuế đối với khu vực KTTN.
3. Mở rộng tín dụng ĐTPT của Nhà nước đối với khu vực KTTN .
4. Kết hợp đồng bộ chính sách tài chính với các chính sách vĩ mô khác.
Kết luận.
Tài liệu tham khảo
Phụ lục 1: Một số điểm khác nhau căn bản giữa DNNN và DNTN
Phụ lục 2: Một số khác biệt về chính sách giữa DNNN và DNTN
Phụ lục 3: Danh mục các từ viết tắt
Phụ lục 4: Danh mục bảng biểu
1
3
3
3
4
9
9
11
13
13
13
13
14
15
18
18
23
26
26
26
26
28
30
31
32
33
34
34
35
36
36
37
38
38
41
46
50
54
54
58
62
65
68
68
68
70
71
72
74
78
81
84
51 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1323 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến nhằm hoàn thiện chính sách Thuế để hỗ trợ phát triển khu vực Kinh tế tư nhân ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
việc làm, cải thiện đời sống nhân dân. Mặt khác trong quá trình phát triển, các DNTN vẫn gặp nhiều khó khăn vướng mắc cần sớm được giải quyết. Khó khăn của các DNTN do nhiều yếu tố cả khách quan và chủ quan gây ra. Trong nền kinh tế thị trường có sự định hướng của Nhà nước, chính sách của Nhà nước có vai trò cực kỳ quan trọng, có thể tạo điều kiện thuận lợi nhưng cũng có thể tạo thêm khó khăn cho các DNTN, đặc biệt là các chính sách tài chính, trong đó có chính sách Thuế. Sau đây chúng ta sẽ xem xét tác động của chính sách Thuế hiện hành ở nước ta đến sự phát triển của khu vực kinh tế này.
II. Thực trạng tác động của chính sách thuế đến sự phát triển của khu vực KTTN:
1- Vài nét về chính sách Thuế chủ yếu được sử dụng trong thời gian qua
Sau khi hoà bình lập lại ở miền Bắc (1954) và giải phóng miền Nam thống nhất đất nước(1975), Nhà nước ta thực hiện công cuộc cải tạo XHCN, xây dựng nền kinh tế kế hoạch hoá tập trung với hai hình thức sở hữu là sở hữu toàn dân (kinh tế quốc doanh) và sở hữu tập thể (kinh tế hợp tác). Trong bối cảnh đó thuế được sử dụng như một công cụ quản lý vừa nhằm mục tiêu tập trung nguồn thu cho ngân sách, vừa góp phần thực hiện công cuộc cải tạo XHCN. Hệ thống thuế mang nặng tính bao cấp đối với thành phần kinh tế quốc doanh và tập thể, cải tạo đi đến xoá bỏ các thành phần kinh tế khác.
Khu vực kinh tế ngoài quốc doanh được áp dụng các loại thuế sau:
- Thuế môn bài
- Thuế doanh thu
- Thuế hàng hoá
- Thuế lợi tức doanh nghiệp
- Thuế buôn chuyến
- Thuế sát sinh
Ngoài ra còn phải nộp lệ phí trước bạ, lệ phí chứng thư.
* Cải cách thuế bước 1:
Từ đại hội Đảng Cộng sản toàn quốc lần thứ VI, khi đường lối xây dựng và phát triển nền kinh tế nhiều thành phần được khẳng định thì quy luật khách quan của nền kinh tế nhiều thành phần đòi hỏi phải có những đổi mới toàn diện trong hệ thống chính sách và bộ máy quản lý thu thuế.
Cùng với việc đổi mới các chính sách tài chính, nước ta đã thực hiện cải cách thuế lần thứ nhất (cải cách thuế bước 1) trong 5 năm 1991-1995
Trong cải cách thuế lần thứ nhất, hệ thống thuế Việt Nam lần đầu tiên được áp dụng thống nhất cho mọi loại hình doanh nghiệp, mọi thành phần kinh tế, bao gồm các Luật, Pháp lệnh thuế sau:
- Luật thuế doanh thu
- Luật thuế tiêu thụ đặc biệt
- Luật thuế xuất khẩu, nhập khẩu
- Luật thuế lợi tức
- Luật thuế sử dụng đất nông nghiệp
- Luật thuế chuyển quyền sử dụng đất
- Pháp lệnh thuế tài nguyên
- Pháp lệnh thuế nhà đất
- Pháp lệnh thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
Ngoài ra còn một số loại thuế mang tính chất lệ phí như: thuế môn bài, thuế sát sinh trước đây áp dụng với khu vực công thương nghiệp ngoài quốc doanh nay áp dụng đối với mọi đối tượng không phân biệt. Một số loại phí, lệ phí như lệ phí trước bạ, chứng thư, lệ phí giao thông... và một số loại phí khác cũng được ban hành mới, sửa đổi, bổ sung.
Sau 5 năm thực hiện cải cách thuế lần thứ nhất, chúng ta đã đạt được những thành tựu rất đáng khích lệ về nhiều mặt. Song cải cách thuế lần thứ nhất vẫn còn nhiều nhược điểm ảnh hưởng tới sự phát triển của khu vực KTTN
Một là, chính sách thuế còn phức tạp trong việc xác định đối tượng chịu thuế, đối tượng không chịu thuế, đối tượng nộp thuế và đối tượng không phải nộp thuế, nhiều trườg hợp miễn giảm thuế. Đó là do hệ thống thuế được xây dựng vừa chứa đựng mục tiêu thu ngân sách, vừa có mục tiêu góp phần tham gia thực hiện các chính sách xã hội. Vì vậy các DNTN thường bị thua thiệt hơn so với các DNNN.
Hai là, thuế doanh thu, thuế lợi tức còn chứa đựng sự phân biệt khá lớn về các ngành nghề và hoạt động kinh doanh: thương mại dịch vụ phải chịu thuế suất cao hơn hoạt động sản xuất. Khu vực KTTN quá nhỏ bé, mới được thừa nhận nên giai đoạn này chủ yếu kinh doanh tổng hợp hoặc đầu tư vào lĩnh vực thương mại, dịch vụ. Do vậy thuế suất cao đối với các hoạt động này thực sự là một trở lực lớn đối với khu vực KTTN.
Ba là, việc xác định chi phí hợp lý, hợp lệ để tính lợi tức chịu thuế, tính thuế lợi tức bổ sung vẫn còn sự phân biệt đáng kể. Đối với DNNN, mỗi khi có sự tăng giá vật tư, thiết bị, hàng hoá, thay đổi tỷ giá thì toàn bộ vật tư có gốc ngoại tệ, hàng hoá tồn kho đều được đánh giá lại để bảo toàn vốn. Rõ ràng là khi không được áp dụng quy định này, trong trường hợp tăng giá hoặc tăng tỷ giá ngoại tệ, các doanh nghiệp ngoài quốc doanh tuy không có lãi hoặc lãi ít phải lấy vốn để nộp thuế. Tiền lương của các DNNN được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ theo đơn giá được duyệt trong khi hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh phải thực hiện theo mức tiền lương bình quân từng ngành nghề do UBND cấp tỉnh quy định (thường rất thấp) mà thực tế số phải trả cho người lao động cao hơn nhiều.
Trong trường hợp có lợi tức cao phải nộp thuế lợi tức bổ sung thì DNNN cũng có lợi thế hơn về mức lợi tức được trừ khi tính lợi tức bổ sung và được áp dụng mức thuế suất bổ sung thấp hơn khu vực tư nhân.
Do đó hệ thống thuế vẫn đòi hỏi được cải cách để tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, tạo một môi trường kinh doanh bình đẳng hơn cho các khu vực kinh tế, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao sức cạnh tranh của nền kinh tế.
* Cải cách thuế bước hai:
Cải cách thuế bước 2 được bắt đầu từ năm 1997, với nội dung gồm:
- Ban hành thuế Giá trị gia tăng (GTGT) thay thế thuế doanh thu
- Sửa đổi, bổ sung Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu
- Mở rộng diện đánh thuế TTĐB
- Ban hành Luật thuế Thu nhập doanh nghiệp (TNDN) và thuế thu nhập cá nhân thay cho thuế lợi tức và Pháp lệnh về thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao
- Ban hành Luật thuế tài nguyên thay cho Pháp lệnh hiện hành
- Sắp xếp lại các loại thuế liên quan đến việc sử dụng đất
- Ban hành Pháp lệnh phí, lệ phí
Chính sách Thuế hiện hành là kết quả của quá trình cải cách thuế bước hai.
2- Những tác động thuận lợi của chính sách Thuế đến sự phát triển của khu vực KTTN
Vậy chính sách Thuế đang được sử dụng có có những ưu điểm gì trong việc hỗ trợ khu vực KTTN phát triển. Chúng ta có thể xem xét những tác động thuận lợi của chính sách Thuế tới sự phát triển của khu vực KTTN trên hai khía cạnh: Một là, những thuận lợi từ phía các chính sách đến các doanh nghiệp trong nền kinh tế nói chung; hai là, sự bình đẳng giữa các khu vực trong nền kinh tế.
Từ sau cải cách thuế bước 1, sự phân biệt đối xử về chính sách thuế nhằm kìm hãm, triệt tiêu sự phát triển của khu vực KTTN đã bị xoá bỏ. Cải cách thuế bước 2 tiếp tục có sự đổi mới đáng kể. Trong thời gian này, các DNNN tiếp tục được sắp xếp lại, các doanh nghiệp mới được thành lập để đón nhận các chính sách kinh tế mới đa số là các doanh nghiệp thuộc khu vực KTTN. Biểu hiện rõ nhất của sự đổi mới này phải nói tới sự có mặt và nhanh chóng đi vào thực tế của hai Luật thuế mới là thuế TNDN và thuế GTGT.
Luật thuế TNDN
- Đối tượng nộp thuế không phân biệt thành phần kinh tế
Thuế TNDN áp dụng chung cho tất cả các cơ sở kinh doanh theo quy định của pháp luật, không phân biệt thành phần kinh tế.
-áp dụng một mức thuế suất thống nhất cho các hoạt động kinh doanh:
Luật thuế TNDN với một mức thuế suất thống nhất không phân biệt theo hoạt động kinh doanh là một bước tiến đáng kể vì một tỷ lệ lớn các DNTN hoạt động trong lĩnh vực thương mại, dịch vụ- lĩnh vực mà trước đây phải chịu mức thuế suất cao hơn.
- Căn cứ tính thuế rõ ràng hơn, giảm đi sự phân biệt với các DNNN
Sửa đổi chế độ thu sử dụng vốn Ngân sách đối với các DNNN, tạo nên sự bình đẳng hơn về chi phí tính thuế. Trước đây khoản nộp này được coi như lãi tiền vay tính trên số vốn được giao và được tính vào chi phí hợp lý, hợp lệ của DNNN. Khi các DNNN phải lấy khoản lợi nhuận sau thuế để trang trải cho khoản nộp này có nghĩa là khu vực KTTN có được sự bình đẳng với khu vực KTNN về chi phí tài chính của các chủ sở hữu bỏ ra để thành lập doanh nghiệp.
- Các quy định về chuyển lỗ thông thoáng hơn với các doanh nghiệp nói chung và các doanh nghiệp mới thành lập nói riêng; quy định về chi phí cho tiếp thị, cho tiêu thụ hàng hoá; tỷ lệ khống chế tối đa về chi phí giao dịch, chi phí khánh tiết,... tạo nên sự rõ ràng hơn trong chính sách cũng có thể coi như là các biện pháp gián tiếp để xoá đi khả năng phân biệt đối xử trong quá trình triển khai thực hiện các Luật của cơ quan thuế.
- Về thuế thu nhập bổ sung
Trước đây, theo quy định của Luật thuế Lợi tức, có phân biệt về khoản thu nhập sau thuế được tính trừ khi xác định thuế suất bổ sung và thuế bổ sung thì nay đều được áp dụng thuế suất thống nhất- chỉ tính thuế bổ sung 25% trên phần lợi nhuận sau thuế thu nhập cao hơn 20% vốn chủ sở hữu.
- Mở rộng đối tượng miễn giảm thuế
Luật thuế TNDN không chỉ là sự sửa đổi, bổ sung dổi mới của thuế lợi tức trước đây, mà còn quy định chế độ khuyến khích đầu tư, điều chỉnh lại cơ cấu đầu tư thông qua quy định về miễn giảm thuế: miễn giảm thuế hai năm đầu cho cho các cơ sở sản xuất mới được thành lập, giảm 50% trong hai năm tiếp theo và đối với những cơ sở mới thành lập ở những vùng khó khăn thì có thể được xét miễn giảm thêm hai năm nữa. Đồng thời, thuế TNDN còn mở rộng diện ưu đãi cho những dự án đầu tư vào những lĩnh vực, ngành nghề, vùng kinh tế khuyến khích phát triển. Như vậy Luật thuế TNDN dã tạo điều kiện cho sự ra đời ngày càng nhiều các DNTN, đa dạng hoá khu vực phân bổ và đa dạng hoá ngành nghề hoạt động của khu vực KTTN.
Thuế GTGT
- Các mức thuế suất đơn giản hơn
Từ 11 mức thuế suất của thuế doanh thu, thuế GTGT hiện nay chỉ có 3 mức thuế suất: 5%, 10%, 20% đòi hỏi các doanh nghiệp phải tổ chức lại sản xuất kinh doanh, thực hiện hạch toán kinh doanh, tính toán giá thành, giá bán phù hợp với thị trường và nộp được thuế, nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Giảm hiện tượng đánh trùng thuế
Việc thực hiện Luật thuế GTGT thay thế cho thuế doanh thu trước đây đã thúc đẩy sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp, lưu thông hàng hoá phát triển vì thuế GTGT chỉ đánh trên giá trị tăng thêm của hàng hoá, dịch vụ thông qua khâu sản xuất, lưu thông và tiêu dùng chứ không đánh trùng, chồng chéo như thuế doanh thu.
Với thuế doanh thu trước đây, cứ qua mỗi khâu mua bán hàng hoá là một lần phải chịu thuế, và đây là tồn tại cơ bản nhất của chế độ này. Trong khi đó, khả năng khép kín trong hoạt động sản xuất kinh doanh của DNTN là rất thấp. Chỉ trừ các doanh nghiệp chế biến nông sản là có thể tận dụng được nguyên liệu sẵn có ở địa phương, còn các doanh nghiệp chế tạo cơ khí, sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ hầu hết các vật tư thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh đều phải mua ngoài.
Mặt khác, do hạn chế về khả năng tiếp cận thị trường nên các DNTN thường phải qua nhiều khâu trung gian thương mại để đáp ứng vật tư thiết bị phục vụ sản xuất kinh doanh, nên với thuế doanh thu trước đây, các DNTN phải chịu thiệt thòi rất lớn. Việc ban hành và đưa vào áp dụng thuế GTGT đã cơ bản khắc phục được tồn tại này, góp phần tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp.
- Không thu thuế GTGT đối với máy móc thiết bị, phương tiện vận tải, vật tư xây dựng nhập khẩu mà trong nước chưa sản xuất được để tạo tài sản cố đinh cho doanh nghiệp, thực hiện khấu trừ và hoàn thuế GTGT đối với tài sản cố định để khuyến khích đầu tư mới và trang bị thêm máy móc thiết bị, mở rộng sản xuất.
- Chế độ hoàn thuế khuyến khích xuất khẩu
Việc hoàn thuế GTGT đầu vào cho hàng hoá xuất khẩu thực chất là việc Nhà nước trợ giá cho hàng hoá xuất khẩu, giúp các doanh nghiệp xuất khẩu tập trung nguồn hàng để xuất khẩu, giảm giá vốn hàng xuất khẩu và tăng khả năng cạnh tranh của hàng Việt Nam xuất khẩu với hàng hoá trên thị trường quốc tế. Đặc biệt là các doanh nghiệp ở khu vực nông thôn sản xuất các mặt hàng truyền thống: thủ công mỹ nghệ, mây tre đan, gốm sứ,... thì chính chính sách trợ giá cho hàng xuất khẩu của Nhà nước thông qua thuế GTGT đã tạo điều kiện cho các doanh nghiệp này có thể tăng khả năng xuất khẩu các hàng hoá của mình ra nước ngoài.
- Về chế độ hoá đơn, chứng từ
Để được khấu trừ thuế GTGT đầu vào được tính đúng số thuế GTGT đầu ra đòi hỏi các doanh nghiệp thực hiện mua bán hàng hoá dịch vụ phải có hoá đơn chứng từ đầy đủ và hợp lệ, từ đó chấn chỉnh công tác kế toán ở khu vực KTTN.
* Luật thuế xuất khẩu, thuế nhập khẩu mới được sửa đổi, bổ sung cũng có nhiều tác động tích cực. Việc điều chỉnh thường xuyên thuế suất thuế nhập khẩu theo hướng quy định mức thuế suất cao hơn đối với những sản phẩm trong nước đã sản xuất được, đã có tác dụng bảo hộ, khuyến khích sản xuất trong nước phát triển. Nhất là đối với các mặt hàng do khu vực KTTN trong nước sản xuất ra như: quần áo, giầy dép, đồ nhựa,...
* Đối với thuế chuyển quyền sử dụng đất, Nhà nước đã giảm thuế chuyển quyền sử dụng đất từ 10% xuống còn 2% đối với đất sử dụng cho sản xuất nông lâm, ngư nghiệp, đất làm muối và giảm từ 20% xuống còn 4% đối với đất ở, đất xây dựng công trình, đất khác. Các cơ sở kinh doanh chuyển quyền sử dụng đất thuê không phải nộp thuế chuyển quyền sử dụng đất.
Đồng thời các mức thuế và hạng đất tính thuế được ổn định trong 10 năm, nhằm khuyến khích sử dụng đất có hiệu quả, tạo điều kiện cho các DNTN phát triển sản xuất, cung cấp hàng hoá cho thị trường.
Nhờ những tác động thuận lợi của chính sách Thuế và các chính sách ưu đãi khác của Nhà nước mà khu vực KTTN đã có những bước phát triển đáng kể. Kết quả của những tác động thuận lợi đó đến sự phát triển của khu vực KTTN đã được thể hiện trong thực tế:
4. Kết quả đạt được của các chính sách tài chính đối với sự phát triển của khu vực KTTN
Nhờ những tác động thuận lợi của chính sách Thuế và các chính sách ưu đãi khác của Nhà nước mà khu vực KTTN đã có những bước phát triển đáng kể. Kết quả của những tác động thuận lợi đó đến sự phát triển của khu vực KTTN đã được thể hiện trong thực tế:
Thứ nhất, chính sách Thuế tiếp tục khuyến khích sự ra đời của các DNTN , khuyến khích đầu tư mở rộng sản xuất
Thứ hai, sự phát triển của khu vực KTTN còn thể hiện qua kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh và đóng góp của khu vực vào nền kinh tế
Xét về giá trị sản xuất công nghiệp
Giá trị sản xuất của khu vực KTTN tăng khá và với tốc độ ngày càng nhanh.
Bảng 1: Giá trị sản xuất công nghiệp ngoài quốc doanh
Năm
1995
1998
1999
2000
2001
Khối lượng (tỷ đ)
25.451
33.402
37.027
44.144,1
53.105,1
Tốc độ tăng so với năm trước (%)
111,5
107,5
110,9
113,2
120,3
Nguồn: Niên giám thống kê 2001- Nhà xuất bản Thống kê
Chỉ riêng trong 2 tháng đầu năm 2003, giá trị sản xuất công nghiệp của khu vực kinh tế ngoài quốc doanh đã tăng 22,5% so với cùng kỳ năm 2002. Trong khi đó tốc độ tăng trưởng công nghiệp của cả nền kinh tế là 19%, khá nhất so với khu vực DNNN (19,4%) và khu vực có vốn đầu tư nước ngoài (16,3%)- (Theo tạp chí Ngân hàng số 4/2002).
Với tốc độ tăng trưởng như vậy, giá trị đóng góp của khu vực KTTN vào GDP có một vai trò rất quan trọng đối với nền kinh tế.
Hiệu quả kinh doanh của khu vực KTTN tốt hơn so với khu vực DNNN
Nếu như năm 2001, chỉ có 40% doanh nghiệp làm ăn có lãi, 40% hoà vốn, còn lại là lỗ thì sang năm 2002 có từ 76-77% doanh nghiệp lãi, 7% khi lãi khi lỗ và chỉ có 16,5% là bị lỗ. Nếu so với thực trạng các DNNN, có 40% làm ăn thua lỗ, tỷ lệ nợ/vốn chủ sở hữu bình quân lên tới 100% thì mới thấy được sự nỗ lực của các DNTN.
Góp phần tăng nhanh kim ngạch xuất khẩu
Khu vực KTTN cùng với khu vực KTNN đã đẩy mạnh xuất khẩu, lấy lại vị trí tương đối so với khu vực có vốn đầu tư nước ngoài:
Bảng 2: Trị giá xuất khẩu hàng hoá của khu vực đầu tư trong nước
Đơn vị: Triệu USD
Năm
1995
1998
1999
2000
2001
Giá trị kim ngạch xuất khẩu
5448,9
9360,3
11541,4
14482,7
15027,0
Nguồn: Niên giám thống kê 2001
Thứ ba, các ưu đãi trong chính sách Thuế đã giúp các doanh nghiệp tư nhân tăng khả năng hoạt động kinh doanh, tăng khả năng hoạt động trên thị trường trong nước và quốc tế
Những mặt hàng có sức cạnh tranh cao, được thị trường chấp nhận là của kinh tế tư nhân như: chế biến thuỷ sản, giầy dép, vật liệu trang trí nội thất, thực phẩm chế biến, thủ công mỹ nghệ.
Một cuộc khảo sát gần 500 doanh nghiệp ngoài quốc doanh hoạt động chủ yếu trong các ngành công nghiệp sử dụng nhiều lao động như may mặc, giày dép, chế biến hải sản,... do MPDE (chương trình phát triển dự án Mê Kông) tiến hành cho thấy các doanh nghiệp này xuất khẩu đến 3/4 sản lượng của mình.
Bảng 3: Tỷ trọng xuất khẩu của các DNTN
Lĩnh vực sản xuất
Số lượng doanh nghiệp
Tỷ lệ xuất khẩu so với sản lượng (%)
Dệt may
159
80,5
Sản phẩm da
34
85,0
Cao su, nhựa
22
75,0
Thực phẩm, đồ uống
71
63,2
Chế biến gỗ
65
75,1
Các SP phi kim loại khác
39
73,2
Các sản phẩm kim loại
9
20,0
Các sản phẩm hoá chất
9
74,4
Các sản phẩm khác
49
Tổng số
457
Nguồn: Báo cáo của MPDE, 2002
Thứ tư, các DNTN đã mở rộng hoạt động của mình ở nhiều ngành nghề, lĩnh vực và nhiều vùng lãnh thổ từ Bắc đến Nam, từ nông thôn đến thành thị, từ đồng bằng đến miền núi.
- Về ngành nghề:
Từ việc tập trung chủ yếu vào lĩnh vực thương mại dịch vụ, các DNTN đã chuyển dần sang sản xuất và tham gia ngày càng nhiều vào các lĩnh vực trước đây chỉ có DNNN hoạt động như: Chế biến nông lâm, thuỷ hải sản, sản xuất phân bón, tái chế rác thải, sản xuất máy công cụ, máy móc phục vụ nông nghiệp.
- Về địa bàn hoạt động:
Chính sách ưu đãi thuế, ưu đãi đầu tư đã khuyến khích KTTN đầu tư vào những vùng kinh tế chậm phát triển, chuyển dịch cơ cấu sản xuất, thay đổi bộ mặt nông thôn. Trước đây, Bình Dương, Đồng Nai là nơi thu hút nhiều các nhà đầu tư thì bây giờ các nhà đầu tư tư nhân lại mở rộng đầu tư ở Lào Cai, Huế, Vĩnh Phúc, Hưng Yên, Hải Dương, Đắc Lắc. Phát triển kinh tế đã đóng góp không nhỏ trong việc thúc đẩy văn hoá xã hội và đời sống nhân dân ở những vùng này phát triển.
Tuy nhiên, bên cạnh những tác động tích cực, chính sách Thuế hiện hành vẫn còn những bất cập, tạo thành những rào cản cho KTTN trong quá trình phát triển.
2. Hạn chế của chính sách Thuế đối với sự phát triển của kinh tế tư nhân:
Về mặt lý thuyết, các chính sách thuế hiện tại đã không còn sự phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế. Nhưng trong thực tế sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp tư nhân vẫn còn nhiều vấn đề cần phải bàn đến.
Nói về hệ thống thuế nói chung thì có thể thấy các đạo luật về thuế vẫn còn nhiều bất cập, còn thường xuyên phải sửa đổi bổ xung và các doanh nghiệp cũng phải thay đổi để thích nghi, điều đó tạo nên sự không ổn định trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Các sắc thuế còn quá phức tạp, chưa bao quát được hết các nguồn thu, phạm vi điều tiết của thuế còn hẹp, còn nhiều đối tượng nhiều hoạt động sản xuất kinh doanh chưa chịu điều tiết và quản lý của thuế, đương nhiên đường lối hoạt động này trở thành rào cản làm hạn chế tác dụng và loại trừ tác động của công cụ thuế. Thêm vào đó trong hệ thống chính sách thuế hiện hành chưa có sự thống nhất giữa các sắc thuế, các sắc thuế còn có sự trùng chéo lẫn nhau.
Các quy định về thuế và việc thực hiện thu nộp thuế còn bất hợp lý, nặng nề về quy chế thu mà chưa quan tâm đúng mức cơ chế động viên nuôi dưỡng nguồn thu.
Các vướng mắc cụ thể của từng sắc thuế có thể được đề cập đến như sau:
Thuế thu nhập doanh nghiệp
Còn nhiều vấn đề xung quanh chi phí hợp lý
So với luật thuế lợi tức trước đây thì các khoản chi phí hợp lý theo luật thuế thu nhập doanh nghiệp đã được quy định cụ thể hơn, mở rộng hơn và tương đối phù hợp với thực tế hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy nhiên về các khoản chi phí hợp lý vẫn còn những điểm chưa hợp lý là:
+ Về chi phí khấu hao tài sản cố định:
Chưa xác định rõ việc xác định khấu hao đối với tài sản gián tiếp phục vụ cho hoạt động sản xuất kinh doanh như các công trình nhà trẻ, nhà mẫu giáo, nhà ăn giữa ca, câu lạc bộ thể dục thể thao, nhà tập thể nằm trong khuôn viên của doanh nghiệp.
Chưa quy định rõ việc xác định tài sản của cá nhân thành lập doanh nghiệp tư nhân, tài sản góp vốn thành lập công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty cổ phần, công ty hợp doanh.
Chưa quy định rõ cách tính khấu hao đối với nhà ở của chủ doanh nghiệp tư nhân vừa dùng để ở vừa dùng để kinh doanh. Các doanh nghiệp tư nhân và công ty trách nhiệm hữu hạn cho rằng khi thành lập doanh nghiệp thì nhà cửa, cơ sở thuộc sở hữu cá nhân của họ đã được sử dụng vào mục đích sản xuất. Nhưng cơ quan thuế ít chấp nhận chi phí khấu hao tài sản này, chưa có chế tài về vấn đề này nên cơ quan thuế chưa thể thực hiện tính khấu hao.
+Về lương trả cho người lao động:
Đại diện một doanh nghiệp ở Hà Nội đặt vấn đề rằng việc trả lương, thưởng, phụ cấp và các khoản chi khác mang tính chất lương thưởng trả cho người lao động là quyền của doanh nghiệp căn cứ vào hiệu quả công việc và mức độ cống hiến của người lao động, miễn là đúng luật. Tuy nhiên, nhiều DNTN chưa thực hiện hợp đồng lao động, trong đó quy định về mức trả, cách thức trả lương và các khoản thu nhập có tính chất lương. Trong trường hợp đó, cơ quan Thuế chỉ chấp nhận loại trừ ở mức Nhà nước quy định là 210.000đ/tháng- tất nhiên với mức lương như vậy thì không một người lao động nào chấp nhận làm.
+ Hàng mua của nông dân trực tiếp làm ra như các sản phẩm làm từ mây tre, cói dừa... hàng thủ công mỹ nghệ và một số khoản chi sửa chữa nhỏ, bốc xếp, dịch tài liệu kỹ thuật của người không kinh doanh, không có hoá đơn nên không được tính vào chi phí sản xuất kinh doanh là chưa phù hợp - nhất là đối với các cơ sở sản xuất hàng thủ công mỹ nghệ.
Quy trình thu nộp thuế chưa hợp lý
Để tránh tình trạng thu thuế ồ ạt vào cuối năm gây mất cân đối ngân sách nên nhà nước quy định doanh nghiệp tạm nộp tiền thuế thu nhập doanh nghiệp hàng quý. Tuy nhiên, việc tính ra mức thuế tạm nộp của cơ quan thuế còn mang tính áp đặt. Có doanh nghiệp mức tạm nộp thuế TNDN gấp gần 2 lần so với tự kê khai và con số thực nộp năm 2002, gây sự bất bình cho các doanh nghiệp vì bị chiếm dụng vốn trong khi nhu cầu vốn là nhu cầu rất cấp thiết.
Thuế GTGT
Quy định về đối tượng chịu thuế, không chịu thuế GTGT chưa hợp lý
Theo quy định tại khoản 3, điều 4 Luật thuế GTGT hiện hành thì hàng hóa, dich vụ ở khâu chịu thuế TTĐB (sản xuất và nhập khẩu); dịch vụ cung ứng cho đối tượng tiêu dùng ngoài Việt Nam thì thuộc đối tượng không chịu thuế GTGT. Do các hàng hoá dịch vụ trên không chịu thuế GTGT nên không được khấu trừ và hoàn thuế GTGT đầu vào, làm mất tính liên hoàn trong việc tính và khấu trừ thuế GTGT giữa các khâu sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng đến hiệu quả sản xuất kinh doanh, không khuyến khích các doanh nghiệp xuất khẩu dịch vụ như gia công hàng hoá cho nước ngoài.
Thuế suất còn phức tạp
Việc quy định 3 mức thuế suất là 0%, 5%, 10%, gây nên sự rắc rối khi xác định mức thuế suất hợp lý cho từng mặt hàng vì có loại mặt hàng tuỳ từng khía cạnh nhìn nhận mà có thể chịu thuế suất khác nhau. Khi đó cơ quan thuế thì muốn áp dụng mức thuế suất cao còn các doanh nghiệp chắc chắn sẽ muốn áp dụng mức thuế suất thấp hơn.
áp dụng phương pháp tính thuế trực tiếp gây thiệt thòi cho các doanh nghiệp nhỏ:
Theo ý kiến của các doanh nghiệp áp dụng hai phương pháp tính thuế: trực tiếp và khấu trừ dẫn đến hai “sân chơi”, không đảm bảo sự công bằng. Những DNTN chưa thực hiện đầy đủ chế độ hoá đơn chứng từ do quy mô nhỏ, trình độ quản lý kinh doanh và hạch toán thấp phải nộp thuế theo phương pháp trực tiếp.
Ưu điểm nổi bật của thuế GTGT là khắc phục được việc thu thuế trùng lắp. Thế nhưng thực tế việc không cho khấu trừ thuế đầu vào đối với trường hợp chỉ có hoá đơn bình thường mà thực chất là hàng đã được nộp thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp là còn duy trì chế độ nộp thuế trùng lắp, cao hơn thuế doanh thu vì thuế suất cao hơn.
Tính thuế GTGT theo phương pháp trực tiếp chỉ mang tính lý thuyết để chỉ rõ đây là thuế đánh trên phần giá trị tăng thêm, ở các nước chỉ áp dụng thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ.
Việc tính thuế theo tỷ lệ % ấn định trên doanh thu hoặc ấn định mức thuế khoán ổn định từ 6 tháng đến một năm dễ gây ra tình trạng không công bằng do phải có sự thoả hiệp giữa cán bộ thuế và chủ doanh nghiệp.
Khấu trừ thuế
Nghị quyết số 09/2002/NQ/QH11 của Quốc hội trong kỳ họp thứ hai từ 1/1/2003 đã bãi bỏ quy định thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ % quy định tại điểm 1d, Điều 10. Đối với đa số các DNTN thu mua nông lâm sản làm ăn đàng hoàng thì đây là một thiệt thòi lớn, giảm động lực kinh doanh của các doanh nghiệp.
Thủ tục hoàn thuế phức tạp, làm đọng vốn của doanh nghiệp
Thủ tục hoàn thuế còn rất phức tạp. Hồ sơ hoàn thuế tưởng chừng như rất đơn giản nhưng đơn vị phải chạy đi chạy lại rất nhiều lần mới có thể hoàn tất được hồ sơ. Đối với các DNTN, đã nộp thuế vào kho bạc thì rất khó hoặc mất một thời gian khá lâu mới có thể rút ra được. Hiện nay, tại cục Thuế Hà Nội, một hồ sơ hoàn thuế phải có đủ 8 chữ ký thì mới thực hiện. Những vướng mắc trong thủ tục hoàn thuế không những làm chậm vòng chu chuyển vốn của doanh nghiệp, làm vốn kinh doanh của doanh nghiệp bị ứ đọng mà còn làm giảm lòng tin của các doanh nghiệp nơi các cơ quan Nhà nước.
Về nộp thuế
Việc quy định doanh nghiệp phải nộp Thuế GTGT ngay từ khi nhập khẩu nguyên liệu đã làm nhiều doanh nghiệp phải vay ngân hàng để nộp thuế, làm đội giá thành sản phẩm.
Như vậy, chính sách Thuế hiện hành còn tồn tại khá nhiều bất cập. Do những bất cập này mà các chính sách tài chính chưa giúp khu vực
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37110.doc