Lợi thế của Việt Nam so với các nước trong khu vực là sở hữu một nguồn nhân lực dồi dào. Việt Nam là một nước đông dân với khoảng 80 triệu người, trong đó độ tuổi lao động khoảng 44 triệu người, đứng thứ 2 Đông Nam Á sau Inđônêxia và thứ 13 trên tổng số hơn 200 quốc gia trên thế giới. Hàng năm có khoảng 1,5-1,7 triệu thanh niên bước vào độ tuổi lao động tạo thành đội ngũ dự bị hùng hậu bổ sung liên tục vào lực lượng lao động đáp ứng nhu cầu cho sản xuất - kinh doanh.
66 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1670 | Lượt tải: 5
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
inh tế- xã hội
* Sản xuất nông nghiệp: Lập Thạch là một huyện có 80% dân số hoạt động nông nghiệp, cho nên, đã có nhiều các chương trình mục tiêu đặt ra theo hướng mở rộng sản xuất trên các lĩnh vực sản xuất nông, lâm nghiệp, thực hiện nồng ghép các chương trình dự án, trồng rừng phòng hộ, phủ xanh đất chống đồi trọc, chương trình 773 và một số các dự án khác đem lại nhiều kết quả khả quan.
- Về trồng trọt năm 2000 tổng diện tích giao trồng 24.808 ha, tăng 685, 35 ha, bằng 102,7% so với cùng kỳ đạt 101,26% kế hoạch
Trong đó:
- Diện tích lúa 13.704 ha, tăng 800 ha = 106,2% so với cùng kỳ đạt 101,5% kế hoạch.
- Diện tích ngô 3.842ha, tăng 255 ha = 107,1% so với cùng kỳ đạt 101,1% kế hoạch.
- Diện tích khoai 2.162ha, giảm – 193,7 ha = 91,7% so với cùng kỳ kế hoạch.
- Diện tích sắn 1.508 ha, tăng 119 ha = 108,4% so với cùng kỳ = 100,5 kế hoạch.
- Diện tích cây công nghiệp ngắn ngày: 2.471 ha giảm 211ha bằng 92,1% cùng kỳ.
Ngoài ra, huyện còn gieo trồng một số các loại cây như các loại rau xanh, đậu...
Tổng sản lượng của nông nghiệp nhìn chung là tăng nhanh bình quân lương thực theo đầu người khoảng 303 kg/năm
Nhìn chung về trồng trọt huyện đã tận dụng được hết diện tích gieo trồng. Cơ cấu giống có thay đổi theo hướng tận dụng mặt thuận lợi của thời tiết.
Về chăn nuôi: tính đến thời điểm ngày 01/10/2000. Đàn trâu có 13.344 con tăng nên 287 con so với cùng kỳ, tổng đàn bò có 31.624 con tăng 498 con. Tổng đàn lợn có 96.504 con tăng 6234 con. Bên cạnh đó huyện còn chăn nuôi thêm được một số các loại gia cầm như gà, vịt, ngan, ngống... tận dụng triệt để lợi thế của vùng
Kết quả về phát triển lĩnh vực chăn nuôi tuy có tăng nhưng vẫn còn chưa tương xứng với tiềm năng của địa phương. Nguyên nhân chủ yếu do tác động của giá sản phẩm chăn nuôi thấp, nhiều lúc, nhiều nơi còn bị tư thương ép giá, hiệu quả thấp. Tuy nhiên có nhiều hộ chăn nuôi theo mô hình vườn, ao, chuồng (VAC) vẫn có hiệu quả khá.
Có thể nói kết quả chăn nuôi vẫn đóng vị trí quan trọng trong giá trị thu nhập của người nông dân...
Về thuỷ sản: Huyện sử dụng biện pháp giao khoán đến từng hô gia đình, diện tích nuôi trồng thuỷ sản các hệ nông dẫn vẫn duy trì ổn định khoảng 1.054 ha. Sản lượng đánh bắt 430 tấn/năm.
Về lâm nghiệp: Diện tích trồng rừng tập trung khoảng 250 ha. Công tác bảo vệ rừng đã được tăng cường, đã có sự phối hợp giữa các địa phương với lực lượng kiểm lâm. Tuy nhiên tình trạng phá rừng, vận chuyển, buôn bán lâm sản trái phép còn diễn biến phức tạp nhất là ở khu vườn quốc gia Tam Đảo.
Về phong trào cải tạo vườn tạp trồng cây ăn quả:
Tiếp tục được thực hiện dự án trồng cây ăn quả đã tranh thủ nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển 6 tỷ đồng, vốn từ dự án 120 giải quyết việc làm tạo điều kiện cho hộ nông dân có vốn mua cây giống, phân bón, mua sắm thiết bị trước tiên, tổ chức tập huẫn kỹ thuật trồng cây ăn quả, hỗ trợ cây giống cho hộ đói nghèo... kết quả đã tạo ra 180 ha diện tích chăm sóc trên diện tích trống. Kết quả còn rất hạn chế chỉ tiêu trồng mới đạt 60% kế hoạch. Kết quả trên cho thấy một số hộ vay vốn sử dụng chưa đúng mục đích , sự chỉ đạo của cấp uỷ, chính quyền, cơ sở chưa tích cực đối với chương trình này.
* Công tác giao thông thuỷ lợi, xây dựng cơ bảnm, tiểu thủ công nghiệp.
Giao thông: Tổng vốn đầu tư hàng năm cho giao thông khoảng 9 triệu đồng. Vốn đầu tư cho giao thông được cấp do ngân hàng thế giới WB cho 7 tuyến là 4.263 triệu đồng năm 2000. Một số các nguồn vốn khác được huy động từ các ngân sách của huyện và của các xã. Bên cạnh việc xây dựng nâng cấp các tuyến đướng giao thông trong huyện, thì công tác thủy lợi và xây dựng điện cũng được giải quyết một cách đồng thời. Ví dụ năm 2001, vốn đầu tư cho thuỷ lợi ước tính khoảng 6.3000 triệu , cứng khoá kênh mương: 2.950 triệu. Trong đó vốn tỉnh hỗ trợ 2.890 triệu, vốn huyện đầu tư từ 4 nguồn 500 triệu. Vốn xã huy động 1.060 triệu , vốn tĩnh kuỹ đầu tư cho các cong trình thuỷ lợi nâng cấp đê: 1.850 triệu
Xây dựng trường học: Huyện đã xây dựng được một số các trường tầng: PHTH Sáng Sơn, Trần Nguyên Hãn, các trường PTTHCS Vân Trục, Phương Khoan, Yên Dương, NGọc Mỹ. Số các nhà trẻ khoảng 247, trường cấp I có 4 trường. Bên cạnh đó còn xây dựng được một số các công trình xây dựng khác. Nhìn chung công tác quản lý xây dựng cơ bản đã có chuyển biến chấp hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng được một số các công trình xây dựng cơ bản đã có chuyển biến chấp hành quy chế quản lý đầu tư xây dựng theo nghị định 25 CP. Nghị định 1,2 CP, 88CP, 44CP của chính phủ. Tuy nhiên, còn bộc lộ một số tồn đọng về chuyên môn nghiệp vụ của một số công trình do chưa đầu tư không đủ khả năng giám sát kỹ thuật, chất lượng công trình không đảm bảo yêu cầu thiết kế dẫn đến sai sót, hư hỏng công trình làm song chậm được quyết toán,. tình trạng nợ xây dựng ở một số các xã sau khi xây dựng không có vốn thanh toán, tiếp tục được phát sinh.
* Sản xuất tiểu thủ công nghiệp: Tiểu thủ công nghiệp sản xuất với quy mô nhỏ, sản phẩm truyền thống ít được đổi mới. Chưa có nhân tố phát triển lĩnh vực này vẫn duy trì sản xuất, sản phẩm vẫn tiêu thụ được do nhu cầu địa phương như gạch nung, ngói, cát, sỏi, một số các ngành dịch vụ khác như điện , đồ gỗ, xay sát,.. dịch vụ bưu điện. Thông tin bưu điện được thông suốt, chất lượng được nâng lên, đến nay, đã lắp đặt điện thoại đến 100% các xã. Công tác phát hành báo chím thư tín đến kịp thời trong ngày. Doanh thu các ngành dịch vụ, thương nghiệp, ngành vận tải đang có xu hướng ngày càng tăng.
c) Công tác tài chính, hoạt động tiền tệ.
Công tác quản lý điều hành ngân sách có chuyển biến đảm bảo đúng luật ngân sách, thu chi theo kế hoạch, đúng định mức. Mặt yếu công tác tài chính là huy động vốn để xây dựng cơ sở hạ tầng, không đáp ứng được nguồn vốn đối ứng cơ chế đầu tư theo chính sách như: xây lắp điện, kiên cố hoá, kênh mương, trường học...
Nguồn tín dụng cho vay, phát triển sản xuất được huy động nhiều, nguồn tương đối thoả mãn nhu cầu địa bàn, lãi xuất thấp, thời gian dảm bảo cho chu kỳ sản xuất. Song nhiều hộ vẫn dám vay, hc tín dụng không cho vay vì chưa có phương án sản xuất kinh doanh có hiệu quả.
*) Hoạt động văn hoá thông tin
công tác thông tin tuyên truyền có sự phân phối chặt chẽ giữa các ngành, các tổ chức chính xã hội phục vụ tốt các ngày lễ, các ngày kỷ niệm trọng đại trong năm 2000 và bám sát phục vụ tốt ccs nhiệm vụ chính trị của huyện. Hệ thống đài truyền thanh cơ sở trong huyện đã được lắp đặt.
Hoạt động thể dục thể thao ở cơ sở phát triển mạnh, đã tổ chức thi đấu ở huyện và tham gia thi đấu ở các tỉnh giành được một số thành tích nhưnh vẫn còn rất khiêm tốn, do chưa có nhiều về cơ sở vật chất cho luyện tập, chưa có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng lâu dài cho đội ngũ vận động viên.
*) Công tác y tế, dân số và kế hoạch hoá gia đình.
- Các chương trìnhquốc gia về y tế trong huyện cũng đã được thực hiện đầy đủ, các chỉ tiêu đề đạt ở mức cao. Các chương trình như phòng chống bướu cổ bằng sử dụng muối iốt, phòng chống sốt rét, phòng chống lao, thanh toán bệnh phong, đã được triển khai tích cực và đã có hiệu quả.
Công tác khám chữa bệnh trong huyện, chất lượng đã được nâng lên thực hiện khám bệnh cho 370 nghìn lượt người hàng tháng, điều trị nội trú khoảng 5.750 bệnh nhânm công suất sử dụng giường bệnh khoảng 95%.
Công tác dân số kế hoạch hoá gia đình đã có chuyển biến rõ rệt, đã làm thay đổi nhận thức đại bộ phận nhân dân và công tác dân số kế hoạch hoá gia đình, tỷ lệ phát triển dân số trong huyện tiếp tục được giảm xuống, tỷ lệ số người sinh con thứ ba đã giảm đáng kể.
*) Công tác lao động và thực hiện các chính sách xã hội: Công tác giải quyết việc làm để thực hiện chương trình xoá đói giảm nghèo được các cấp uỷ, chính quyền các tổ chức đoàn thể, chính trị, xã hội như: hội thanh niên, phụ nữ, hội nông dân nghèo vay để phát triển sản xuất, trong năm đã tạo việc làm cho rất nhiều lao động và giảm tỷ lệ hộ đói nghèo xuống một cách rõ rệt. Tuy nhiên, một só cơ sở chính quyền chưa chỉ đạo tốt nên việc sử dụng vốn vay, khai thác tiềm năng đất đai hiệu quả thấp, chương trình xoá đói giảm nghèo tiến triển chậm, các chính sách xã hội đựoc thực hiện đầy đủ kịp thời với các đối tượng, phong trào cứu trợ cho đồng bào bị thiên tai, lụt bão do Mặt trận tổ quốc phát động được cán bộ và nhân dân trong huyện hưởng ứng thu được kết quả tốt.
3. An ninh chính trị
nhìn chung tại Lập Thạch thì tình hình an ninh, chính trị ổn định, trật tự xã hội được giữ vững, công tác tiếp dân giải quyết các đơn thư khiếu nại của huyện được các cơ quan giải quyết thường xuyên, kịp thời, đúng pháp luật. Dưới sự chỉ đạo của Đảng và kết hợp chặt chẽ của các cấp uỷ, mọi vấn đề thắc mắc của nhân dân đều được làm rõ nên nhân dân rất tin tưởng.
Trật tự an toàn xã hội đã có nhiều cố gắng cho nên nhìn chung tình hình trật tự xã hội ở huyện Lập Thạch rất ổn định. Bên cạnh đó vẫn còn một số các đối tượng như trộm cắp, huỷ hoại tài sản của công dân, tệ nạn xã hội, tàng trữ sử dụng chất ma tuý.đang được đẩy lùi.
Công tác quân sự địa phương coi trọng thực hiện tốt nghị định 19Cp của chính phủ về việc hoàn thiện phương án xây dựng khu vực phòng thủ, quản lý chặt chẽ lực lượng dự bị động viên, thực hiện chương trình gọi thanh niên nhập ngũ đều đạt được kế hoạch,
Từ những thực tế của điều kiện kinh tế – xã hội, văn hoá, chính trị của huyện Lập Thạch ta có thể thấy rằng đây là một huyện đang trong giai đoạn của sự phát triển kinh tế, có những tiềm năng để phát triển kinh tế chúng ta phải xem xét và phát triển tận dụng một cách triệt để nguồn lực về con người. sau đây là một số các thực trạng về tình hình phát triển nguồn nhân lực của huyện.
II> Thực trạng phát triển nguồn nhân lực của huyện Lập Thạch
Dưới sự lãnh đạo của UBND huyện – phòng lao động _ TBXH đã tham mưu và xây dựng các chương trình mục tiêu về phát triển nguồn nhân lực trong huyện. Theo hướng mở rộng lao động vào sản xuất hàng hoá, dịch vụ trên nhiều lĩnh vực với nhiều thành phần kinh tế, nâng cao nhận thức của người lao động về vấn đề lao động và việc làm. Coi một bộ phận sức lao động trở thành hàng hoá và đươc trao đổi trên thị trường sức lao động mở rộng hướng đào tạo và đào tạo đội ngũ kinh doanh trên nhiều hình thức, tại chỗ, gửi đi các trung tâm, các trường, mở lớp tập huấn ngắn ngày... Đề nghị thành lập trung tâm dạy nghề của huyện. Tranh thủ các nguồn vốn cho vay và vốn đầu tư được huy động ở nhiều nguồn.
Nhận thức được tầm quan trọng của công tác phát triển nguồn nhân lực, ban lãnh đạo huyện đã có nhiều những phương hướng biện pháp thúc đẩy mạnh công tác này, nhằm tiền đề quyết định cho công việc đẩy mạnh phát triển kinh tế bước sang thế kỷ 21.
Nhìn một cách tổng thể, để đánh giá về nguồn nhân lực ở huyện Lập Thạch thì: Lập Thạch có một lực lượng tương đối dồi dào độ tuổi lao động trẻ vì phần đông lao động là thanh niên, lực lượng lao động tăng nhanh qua các năm. Đây vừa là cơ hội cũng vừa là thách thức lớn đối với huyện, lao động đông thuận lợi để phát triển kinh tế do giá trị sản xuất tạo ra lớn, những áp lực về việc làm cũng không nhỏ. Việc không tận dụng hết nguồn nhân lực sắn có đã lãng phí thì những tác động ngược lại của nó cũng rất tác hại. Một đặc điểm nữa của lao động nông thôn huyện Lập Thạch là chất lượng lao động, hầu hết lao động mang tính phổ thông không có trình độ chuyên môn kỹ thuật, không có trình độ văn hoá, đây là một khó khăn rất lớn trong việc phát triển kinh tế. Vì vậy, một vấn đề mang tính giải pháp là phải đào tạo, hướng dẫn và phát triển trình độ của nguồn nhân lực bằng nhiều hình thứcm, nhằm khai thác hết tiềm năng của nguồn nhân lực.
Khi xem xét đến thực trạng về phát triển của nguồn nhân lực chúng ta phải xem xét một cách chi tiết về tình hình biến động dân số của huyện và các biến động về nguồn lao động.
1) Thực trạng về tình hình biến động dân số của huyện
quay trở lại vài năm trước đây ta có thể thấy tình hình biến động dân số của huyện qua bảng sau:
Bảng 1: Biến động của huyện Lập Thạch giai đoạn 1989-1997
Chỉ tiêu
1989
1995
1996
1997
1. Dân số trung bình (1000 người)
188,157
217,3447
220,358
222,904
2. Dân số nam (1000 người)
88,928
102,987
104,570
106,994
3.Dân số nữ (1000 người)
99,229
114,387
115,788
115,910
Số người trong độ tuổi lao động (1000 người)
98,153
104,886
105,990
106,602
Số người dưới độ tuổi lao động (1000 người)
67,263
77,708
79,774
79,784
Số người trên độ tuổi lao động (1000 người)
22,741
34,780
34,594
36,518
Mật độ dân số (1000 người/ 1Km2)
0,454
0,524
0,531
0,537
Số sinh sống (1000 người)
6,217
4,739
4,328
4,050
Số người chết (1000 người)
1168
967
9223
876
Tỷ suất sinh thô (0/00)
28,3
22,05
19,35
18,1
Tỷ suất chết thô (0/00)
7,61
4,42
4,16
3,93
Tỷ suất biến động tự nhiên (0/00)
20,69
17,63
15,81
14,17
Số người nhập cư (1000 người)
0,915
1,267
1,332
1,384
Số người xuất cư (1000 người)
1,427
1,427
1,493
1,525
Tỷ suất nhập cư (0/00)
4,86
5,83
6,04
6,21
Tỷ suất xuất cư (0/00)
7,58
6,77
6,795
6,84
Tỷ suất biến động cơ học (0/00)
-2,72
-0,94
-0,76
-0,63
Tỷ suất biến động dân số (0/00)
17,97
16,69
15,3
13,54
Bảng 1 đã cho chúng ta thấy rõ được dân số và các nhân tố ảnh hưởng đến sự biến động của dân số. Đi sâu vào tìm hiểu thì chúng ta nhân thấy rằng dân số từ năm 1989 đến 357 người /1km2 năm 1997, vì Lập Thạch là một huyện 80% dân số sống bằng nghề nông nghiệp cho nên mật độ dân số ngày càng tăng cũng ảnh hưởng đến rất lớn về mặt đời sống sinh hoạt người dân. Tuy nhiên, dân số trong các giai đoạn từ 1989-1997 vẫn tăng nhưng tỷ suất biến động dân số qua các năm có thể nói là ngày càng giảm: năm 1989 là 17,970/00;năm 1995 là 16,69 0/00; năm 1997 là 13,540/00 những con số về tỷ suất biến động dân số giảm nói lên tình hình phát triển về các mặt của huyện như công tác thông tin tuyên truyền, công tác giáo dục và nhận thức rõ của người dân ngày càng nâng cao một cách rõ rệt, các chương trình về KHHGD thực hiện đã có hiệu quả rõ rệt. Quy mô của dân số hàng năm tăng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự gia tăng tự nhiên và sự tăng phụ thuộc vào nhiều yếu tố như sự tăng tự nhiên và tăng cơ học, nhìn vào những nhân tố ảnh hưởng này ta có thể đánh giá phần nào về tình hình các hoạt động kinh tế của huyện. Từ giai đoạn 1989-1997 tỷ suất nhập cư liên tục tăng lên qua các năm , có thể nói lực lượng này phần đông là những người tập trung về đây theo các chương trình làm việc, thực hiện các dự án di dân xây dựng các vùng kinh tế mới và một số lực lượng khác là bộ đội xuất ngũ, sinh viên ra trường và trở về quê hương làm việc, số ngưòi xuất cư của huuyện hàng năm cũng tăng lên, lý do là họ chuyển đi các nơi khác để tìm việc làm và lập nghiệp. Tuy nhiên hàng năm thỉ tỷ lệ số người xuất cư luôn luôn lớn hơn số người nhập cư từ năm 1989-1997, con số này đánh giá một điều rằng dân số trong huyện có xu hướng ra đi bởi vì họ mong muốn tìm được một cuộc sống tốt hơn ở nơi khác , trước khi họ phải trở về huyện mình có thể nói con số này phần đông là số lượng học sinh, sinh viên, sau khi đã ra trường, một số khác là những người lao động được xuất khẩu lao động sang nước khác như PRUNAY. Singapore, Côoét , bên cạnh đó lực lượng lao động chủ yều là còn rất trẻ nên họ có nhu cầu hơn về mặt di dân.
Số người trong độ tuổi lao động tại huyện là lực lượng chủ yếu và hàng năm gia tăng rất nhanh từ 1998-1999 đã gia tăng khoảng 112%, bên cạnh đó số người dưới độ tuổi lao động và số người trên độ tuổi lao động chiếm tỷ lệ cũng không nhỏ. Tuy nhiên, từ năm 1995-1997 thì sự gia tăng hầu như không đáng kể. Một số vấn đề được đặt ra rất bức xúc là để ổn định được cuộc sống cho một lực lượng không tham gia lao động thì số người trong độ tuổi lao động cần phải có việc làm đầy đủ và có thu nhập ổn định đòi hỏi về công tác giải quyết việc làm phải được thực hiện một cách kịp thời và triệt để.
Tuy nhiên, huyện còn một số lượng người thiếu việc làm khá đông, khoảng 10%, nói là thiếu việc làm hoàn toàn không phải vì hầu hết là lao động nông nghiệp họ vẫn có việc làm nhưng hiệu suất sử dụng thời gian lao động rất thấp. Nếu lực lượng này chuyển sang ngành khác thì năng suất cũng như chất lượng hầu như không giảm sút, người ta gọi lực lượng này là thất nghiệpn trá hình. hàng năm tìm mọi biện pháp để tạo việc làm tại chỗ, chuyển và mở các ngành nghề mới, đi xây dựng vùng kinh tế mới hay xuất khẩu lao động. Mặc dù đã được Đảng bộ và các ban ngành quan tâm, giải quyết vấn đề tạo việc làm nhưng do nhiều lý do như tiềm lực chưa được thực hiện đồng bộ và thị trường tiêu thụ sản phẩm nông nghiệp không ổn định cho nên hàng năm những việc làm mới tạo ra chưa đáo ứng được so với yêu cầu, đời sống người lao động nhiều khó khăn.
Thực tế hiện nay, trình độ học vấn và trình độ chuyên môn của lao động còn nhiều bất cập, điều này là do tàn dư của những năm trước đây, ta có thể thấy trình độ, chất lượng nguồn nhân lực của huyện Lập Thạch còn rất thấp.
Dân số là cơ sở hình thành nguồn nhân lực. Quy mô nguồn nhân lực phụ thuộc vào quy mô của dân số. Quy mô dân số lớn, tốc độ tăng dân số nhanh sẽ báo hiệu quy mô lớn và tốc độ tăng trưởng nhanh của nguồn nhân lực trong tương lai. Sự ảnh hưởng giữa dân số tới nguồn nhân lực phải sauạt thời gian nhất định phụ thuộc vào việc xác định giới hạn của độ tuổi lao động thì (thời gian để đưa trẻ sinh ra ở thời) kỳ này sẽ bước vào độ tuổi lao động). Để xác định nguồn nhân lực của huyện Lập Thạch trong tương lai chúng ta sẽ tìm hiểu cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính.
Bảng 2: Cơ cấu dân số theo tuổi và giới tính.
(trang sau)
Nguồn: UBND Huyện Lập Thạch - Tỉnh Vĩnh Phúc.
Tỷ lệ tham gia của lực lượng lao động được tính bằng so sánh giữa lực lượng lao động thực tế với tỷ lệ lao động tiềm năng. lực lượng lao động thực tế là do bộ phận dân cư trong độ tuổi lao động có khả năng lao động hiện đang làm việc trong các ngành của nền kinh tế quốc dân và những người chưa có việc làm và đang đi tìm việc làm. Lực lượng lao động tiềm năng là khả năng lao động của xã hội tức là những người trong độ tuổi lao động, có khả năng lao động (nguồn vốn nhân lực có sẵn trong dân số hoặc dân số hoạt động).
Những nhân tố tác động đến sự tăng giảm của tỷ lệ tham gia lực lượng lao động có nhiều và tuỳ thuộc vào từng bộ phận của nguồn nhân lực. Song có thể kể ra một số nguyên nhân cơ bản sau đây:
- Tăng giảm của tiền lương thực tế.
- Điều kiện sống thay đổi
- Sự tác động của Nhà nước thông qua hệ thống các chính sách xã hội.
Ngoài những nguyên nhân có tính chất chung, người ta còn nghiên cứu tìm ra các nguyên nhân làm tăng giảm tỷ lệ tham gia của từng nhóm dân cư.
Nhìn vào bảng 2, ta thấy qua 2 năm 1989-1999 thì số lượng nữ giới bao giờ cũng nhiều hơn số lượng về nam giới. Tỷ lệ sinh ban đầu thì tỷ lệ sinh của nam lớn hơn nư nhưng càng về sau thì số lượng nữ giới lại tăng lên nên số lượng nữ giới về già thì sống nhiều hơn nam chúng ta có thể đánh giá qua một số nguyên nhân sau đây:
Tỷ lệ tham gia lực lượng lao động nữ tăng do mức lương thực tế được quy định cho phụ nữ tăng lên, sự thay đổi sở thích và hành vi, sự nhận thức ngày càng cao hơn làm cho phụ nữ có thể bình đẳng tham gia lực lượng lao động nhiều hơn. Nhìn chung cuộc sống ở nông thôn thì người đàn ông phải lo toan mọi việc cho gia đình dẫn đến sức sống bị suy giảm nhanh chóng. Tuy nhiên, nhìn vào biểu 2 ta thấy lực lượng lao động nữ khá cao, nếu phát huy nguồn lực này thì sẽ tận dụng hiệu quả triệt để và tạo nên được tiềm lực mới cho huyện tuy nhiên cần phải đào tạo họ một cách có hệ thống, có trình độ chuyên môn, đặc biệt nữ giới thường rất khéo kéo thích nghi với các công việc mang tính nhẹ nhàng, khéo léo.
Nhìn vào bảng 2 ta thấy số lượng người tham gia vào lực lượng lao động rất đông. Dân số trong độ tuổi từ 15 đến 65 đối với nam là 43.028 chiếm tỷ lệ 23% trong tổng dân số, độ tuổi từ 15-55 đối với nữ là: 46.753 chiếm 23% tổng số dân số của năm 1998. Sang năm 1999 thì dân số nam độ tuổi từ 15 đến 65 là 50.365; chiếm sấp xỉ 23%, đối với nữ từ 15-55 là 56.727 chiếm sấp xỉ 26% trong tổng số dân, ta có thể nhận thấy rằng số người trong độ tuổi lao động của huyện Lập Thạch là rất cao, cần phải có sự cố gắng, nỗ lực của Đảng, chính quyền địa phương, các tổ chức xã hội để giải quyết cho vấn đề phát triển nguồn nhân lực của huyện. Bên cạnh đó huyện đã thiết lập, triển khai một số chương trình tạo môi trường, tạo điều kiện thuận lợi cho người lao động các cấp ngành đã giúp địa phương giới thiệu việc làm tổ chức đào tạo nghề cho người lao động. Tuy nhiên, trong quá trình thực hiện còn bộc lộ những yếu kém ở từng mặt, từng khâu, từng lĩnh vực hoạt động là do những nguyên nhân sau:
- Sản xuất chậm phát triển, việc quy hoạch, kế hoạch, phát triển kinh tế – xã hội còn nhiều mặt hạn chếm manh mún. Nông nghiệp thuần nông mang tính tự túc, tự cấp, sản xuất công nghiệp không có gì, tiểu thủ công nghiệp yếu kém, chậm chuyển đổi cơ cấu kinh tế theo cơ chế thị trường, điều đó đã ảnh hưởng đến quá trình phân công lao động và giải quyết việc làm.
- Phương hướng mục tiêu của các cấp chính quyền từ huyện xuống cơ sở, các ngành, các tổ chức xã hội về giải quyết việc làm chưa quan tâm đúng vị trí. Chưa coi việc tạo ra chỗ làm việc mới là một chỉ tiêu quan trọng.
- Trình độ chuyên môn,. nghiệp vụ của đa số lao động còn thấp kém. Việc đào tạo nghề chưa được quan tâm thích đánh, chưa có trung tâm dạy nghề, làng nghề chậm phát triển.
- Công tác thống kê phân loại lao động hàng năm chưa được cải tiến, chưa đáp ứng cho quá trình nghiên cứu và đề xuất các giải pháp quản lý lao động việc làm. giải quyết việc làm còn thụ động, còn trông chờ vào sự hỗ trợ của Nhà nước là chính, sự phối hợp chỉ đạo một số ngành tham gia dự án giải quyết việc làm chưa thường xuyên, chưa nhịp nhàng, thủ tục còn nhiều phức tạp.
2> Tình hình biến động của nguồn lao động.
Để có thể sống và phát triển, con người phải tiêu dùng một lượng của cải nhất định: lương thực, thực phẩm, vải vóc, nhà ở, phương tiện giao thông liên lạc, thuốc phòng, chữa bệnh... Những tư liệu sinh họat này không phải là “gia tăng” của tự nhiên mà do con người sản xuất ra. Song không phải toàn bộ dân số tham gia sản xuất mà chỉ một bộ phận có đủ sức khoẻ và trí tuệ mà thôi. Khả năng đó chỉ gắn với một độ tuổi nhất định, gọi là “độ tuổi lao động” đối với nam từ 15-64; một số nước khác từ 15-59, thậm chí 10-59. Đối với nữ giới hạn trên của độ tuổi lao động thường thấp hơn.
cùng với xu hướng giảm sinh và tuổi thọ được kéo dài, tỷ lệ dân số trong độ tuổi lao động ngày càng tăng lên. Năm 1999 ở các nước phát triển, tỷ lệ này là 66,5%, các nước đang phát triển khoảng 60%.
Như vậy, cả quy mô cơ cấu dân số theo độ tuổi và giới tính có ảnh hưởng trực tiếp đến số lượng người “trong độ tuổi lao động” Việc so sánh số người “ngoài độ tuổi lao động” và số người “trong độ tuổi lao động” cho ta tỷ số phụ thuộc. Tỷ số này càng cao sẽ quan hệ tiêu dùng và tích luỹ sẽ càng căng thẳng.
Để xác định khả năng lao động của xã hội, ngưòi ta quy định ra loại lao động chính và tỷ lệ 1/3 đối với người dưới tuổi và 1/2 đối với người trên tuổi lao động.
Người ta chia ra:
Lực lượng lao động: Bao gồm những người trong độ tuổi lao động có khả năng lao động đang làm việc trong nền kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp song đang có nhu cầu làm việc.
Nguồn lao động: bao gồm những người thuộc lực lượng lao động và những người tốt nghiệp song không có nhu cầu tìm việc làm (tức là bao gồm những người đang làm việc kinh tế quốc dân và những người thất nghiệp).
Đối với Lập Thạch là một huyện miền núi với lực lượng
Lao động rất dồi dào và hoạt động chủ yếu bằng nghề nông nghiệp. Có thể nói rằng hiện tượng thất nghiệp thực tế thì không có, chỉ có thể xảy ra tình trạng thất nghiệp trá hình và thiếu việc làm. Biến động của nguồn lao động huyện Lập Thạch có thể được biểu hiện qua bảng dưới đây:
Bảng 3: Biến động nguồn lao động của huyện Lập Thạch
Chỉ tiêu
1989
1994
1999
I. Dân số trong độ tuổi lao động (1000 người)
98153
103741
109222
1. Trong độ tuổi có việc làm
85826
88487
91090
2.Thất nghiệp
0
0
0
3. Đi học
4992
7273
9779
4. Nội trợ
5297
5556
5834
5. Không có nhu cầu làm việc
0
0
0
6. Không có khả năng lao động
1649
1823
1931
7. Tình trạng khác
389
611
588
II. Tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động trên tổng số dân(%)
52,16
48,3
48,9
III. tỷ trọng dân số trong độ tuổi 15-24 (%)
28,2
28,6
28,34
Nhìn vào bảng 3 ta thấy tình hình lao động của huyện Lập Thạch một cách tổng quát nhất là số người thất nghiệp và không có nhu cầu làm việc là coi như không có tuy nhiên thu nhập bình quân theo đầu người lại rất thấp bình quân cho năm 1999 là : 1,785 triệu đồng/năm. Điều đó chứng tỏ rằng một lực lượng rất lớn tuy vẫn hoạt động lao động nhưng thực chất đã bị lãng phí. Khi nói đến nguồn nhân lực là chúng ta đang nói đến dân số trong độ tuổi lao động bao gồm những người trong độ tuổi có việc làm, những người thất nghiệp, đi học, nội trợ, không có nhu cầu làm việc, không có khả năng lao động, tình trạng khác.
Xét về lượng tuyệt đối thì ta nhận thấy số lượng dân số trong độ tuổi lao động từ năm 1989 đến 1999 sau 10 năm tăng lên một lượng là 11069. Tuy nhiên tỷ trọng dân số trong độ tuổi lao động trên tổng số dân số lại g
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Một số ý kiến về phát triển nguồn nhân lực trong huyện Lập Thạch.DOC