Đề tài Một số ý kiến về phương hướng phát triển công tác kiểm toán ở nước ta

PHẦN 1: NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ KIỂM TOÁN 1

1- KHÁI NIỆM VÀ VAI TRÒ CỦA KIỂM TOÁN 2

1.1. Khái niệm về kiểm toán 2

1.2. Bản chất cuả Kiểm toán 2

1.3. Vai trò của kiển toán. 3

2. PHÂN LOẠI KIỂM TOÁN: 4

2.1. Phân loại kiểm toán theo chức năng: 4

2.2. Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán: 5

3. PHƯƠNG PHÁP KIỂM TOÁN: 7

3.1. Phương pháp phân tích đáng giá tổng quát: 7

3.2. Phương pháp kiểm tra chi tiết các tài khoản và số dư các nghiệp vụ: 7

3.3. Phương pháp Kiểm toán tuân thủ: 7

3.4. Phương pháp theo dấu hiệu chỉ dẫn: 8

PHẦN II: MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC

KIỂM TOÁN Ở NƯỚC TA 9

1. THỰC TRẠNG KIỂM TOÁN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 9

1.1. Đặc điểm của hoạt động Kiểm toán ở nước ta 9

1.2. Những mặt đạt được của Kiểm toán Việt Nam 12

1.3. Những tồn tại trong hoạt động Kiểm toán 16

1.4.Nguyên nhân của những tồn tại trên 17

2. MỘT SỐ Ý KIẾN NHẰM HOÀN THIỆN CÔNG TÁC KIỂM TOÁN Ở NƯỚC TA HIỆN NAY 17

2.1. Đối với Kiểm toán nhà nước 17

2.2. Đối với Kiểm toán độc lập 20

2.3. Đối với Kiểm toán nội bộ 22

KẾT LUẬN 23

 

doc23 trang | Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1076 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số ý kiến về phương hướng phát triển công tác kiểm toán ở nước ta, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iểm toán đánh giá tính hiệu quả và hiệu lực trong hoạt động của một đơn vị. Tính hiệu lực là khả năng hoàn thành các nhiệm vụ và mục tiêu đã đề ra của đơn vị. Tính hiệu quả là việc đạt được kết quả cao nhất với chi phí thấp nhất nói về khía cạnh tài chính. Kiển toán hoạt động giúp cho người quản lý có được quyết định, điều chỉnh kịp thời về các hoạt động cho đúng. 2.1.2. Kiểm toán tuân thủ: Kiểm toán tuân thủ là việc kiểm toán để xem xét đơn vị được kiểm toán có tuân thủ theo các quy tắc, chế độ, cơ chế quản lý mà các cơ quan có thẩm quyền hoặc cơ quan quản lý cấp trên đã đề ra hay không. Vì vậy, kiểm toán tuân thủ còn có thể gọi là kiểm toán qui tắc. Tính độc lập và thẩm quyền của kiểm toán viên được thể hiện trong thẩm quyền của kiểm toán này. 2.1.3. Kiểm toán báo cáo tài chính: Kiểm toán báo cáo tài chính là nghiệp vụ kiểm tra và xác định tính trung thực và hợp lý của các báo cáo tài chính cũng như việc xem xét các báo cáo tài chính của đơn vị có phù hợp với các nguyên tắc chuẩn mực kế toán và các yêu cầu của pháp luật hay không. Người làm kiểm toán chủ yếu làm Kiểm toán báo cáo tài chính. Các báo cáo tài chính thường được kiểm toán nhiều nhất là bảng cân đối kế toán, báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh, báo cáo lưu chuyển tiền tệ, các bản ghi chú bổ sung báo cáo tài chính. 2.2. Phân loại kiểm toán theo chủ thể kiểm toán: 2.2.1 Kiểm toán nội bộ: Kiểm toán nội bộ là loại Kiểm toán do các Kiểm toán viên nội bộ của đơn vị tiến hành. Hay nói cách khác, chủ thể của kiểm toán nội bộ là người của doanh nghiệp hoặc do các đơn vị tuyển dụng theo yêu cầu, không nhất thiết phải có chứng chỉ hành nghề về kiểm toán. Tuy nhiên, họ phải là những người ưu tú và xuất xắc. Chức năng, nhiệm vụ và nội dung của hoạt động kiểm toán nội bộ: - Rà soát lại hệ thống kế toán và hệ thống kiểm soát nội bộ, giám sát sự hoạt động của hệ thống này cũng như tham gia hoàn thiện chúng. - Giúp chủ doanh nghiệp kiểm tra lại các thông tin bao gồm cả thông tin tài chính và các thông tin tác nghiệp. Kiểm tra việc tính toán, phân loại báo cáo các thông tin này, thẩm định cụ thể các khoản mục cá biệt theo yêu cầu của nhà quản lý. - Kiển tra, đánh giá tính hiệu lực và tính hiệu quả kinh tế trong các hoạt động của doanh nghiệp. Như vậy, lĩnh vực chủ yếu của Kiểm toán nội bộ là Kiểm toán hoạt động, sau đó là Kiểm toán tuân thủ chứ không phải là Kiểm toán báo cáo tài chính. Về nguyên tắc, Kiểm toán nội bộ chỉ chịu trách nhiệm đối với chủ doanh nghiệp mà không có trách nhiệm đối với các đối tượng sử dụng thông tin ở bên ngoài doanh nghiệp. Về tổ chức, kiểm toán nội bộ được tổ chức độc lập với bộ phận đựợc kiểm tra, trực thuộc giám đốc và báo cáo trực tiếp với giám đốc nhưng Kiểm toán nội bộ là một bộ phận của đơn vị không thể độc lập hoàn toàn với đơn vị đó được. Vì vậy các báo cáo của kiểm toán nội bộ mặc dù được chủ doanh nghiệp tin tưởng nhưng không có hoặc ít có giá trị pháp lý ở bên ngoài. 2.2.2. Kiểm toán nhà nước Kiểm toán nhà nước là công việc Kiểm toán do cơ quan quản lý chức năng của nhà nước như cơ quan Tài chính, cơ quan thuế và cơ quan Kiểm toán nhà nước tiến hành theo luật định. Kiểm toán nhà nước là Kiểm toán nhằm xem xét việc chấp hành các chính sách, nguyên tắc, chế độ, cơ chế quản lý do nhà nước ban hành trong các đơn vị được Nhà nước cấp vốn, cấp kinh phí hoạt động, các tổ chức quần chúng xã hội đựơc Nhà nước cấp kinh phí. Các cuộc Kiểm toán nhà nước đựơc tiến hành theo lệnh của Thủ tướng Chính phủ hoặc cơ quan được Thủ tướng Chính phủ uỷ quyền, đơn vị được kiểm toán phải chấp hành nghiêm chỉnh lệnh kiểm toán tạo điều kiện thuận lợi cho Kiểm toán Nhà nước thi hành công vụ. Chức năng chủ yếu của Kiểm toán Nhà nước là Kiểm toán tuân thủ. Về tổ chức: Cơ quan Kiểm toán nhà nước là một tổ chức thuộc Quốc hội hoặc Chính phủ, có vai trò hết sức quan trọng kiểm soát nguồn lực tài chính công, giúp Quốc hội và Chính phủ điều hành nền kinh tế có hiệu quả. 2.2.3. Kiểm toán độc lập Kiểm toán độc lập là loại Kiểm toán do các Kiểm toán viên độc lập thuộc các tổ chức Kiểm toán chuyên nghiệp tiến hành. Kiểm toán độc lập là một hoạt động dịch vụ, các cuộc kiểm toán độc lập tiến hành theo lời mời của đơn vị được kiểm toán và phải có hợp đồng kinh tế giữa đơn vị được kiểm toán và công ty kiểm toán. Kết thúc Kiểm toán, đơn vị được Kiểm toán và công ty Kiểm toán phải thanh toán tiền, chi phí cho hoạt động kiểm toán. Về chức năng: Kiểm toán độc lập đẩy mạnh trọng tâm vào Kiểm toán báo cáo tài chính Về phạm vi: phạm vi của kiểm toán độc lập là mọi hoạch định tổ chức thuộc mọi lĩnh vực và mọi hình thức sở hữu trong nền kinh tế. Về Kiểm toán viên: Kiểm toán viên độc lập bắt buộc phải có bằng chuyên gia kế toán kiểm toán và phải có giấy phép hành nghề. Về tổ chức: tổ chức Kiểm toán độc lập hình thành và hoạt động dưới dạng công tyvà phòng kiểm toán hướng theo mục đích lợi nhuận. 3. Phương pháp kiểm toán: Phương pháp kiểm toán bao gồm nhiều phương pháp khác nhau, mỗi phương pháp cụ thể được áp dụng trong một trường hợp cụ thể nhưng các phương pháp có quan hệ chặt chẽ với nhau, hỗ trợ lẫn nhau vì chúng có cùng mục đích. 3.1. Phương pháp phân tích đáng giá tổng quát: Phương pháp này được thực hiện trên cơ sở sử dụng các chỉ tiêu định lượng, các mối quan hệ tài chính, các tỷ lệ tương quan để phân tích và xác định những tính chất hay những sai lệch không bình thường trong báo cáo tài chính được Kiểm toán. ưu điểm: Đơn giản, đỡ tốn kém thời gian và chi phí. Nhược điểm: Chất lượng Kiểm toán kém chính xác 3.2. Phương pháp kiểm tra chi tiết các tài khoản và số dư các nghiệp vụ: Đây là phương pháp ra đời sớm nhất. Theo phương pháp này, Kiểm toán viên kiểm tra một cách chi tiết cụ thể đối với từng hoạt động sản xuất kinh doanh, từng nghiệp vụ kinh tế phát sinh, từng chứng từ ghi sổ, từng định khoản kế toán và từng số dư của các tài khoản chi tiết. Ưu điểm: Dễ thực hiện, thích hợp Kiểm toán ở các doanh nghiệp qui mô nhỏ, hoạt động sản xuất kinh doanh đơn giản (sử dụng ít tài khoản, chất lượng kiểm toán cao hơn). Nhược điểm: Tốn nhiều thời gian và chi phí 3.3. Phương pháp Kiểm toán tuân thủ: Phương pháp này là các thủ tục và kỹ thuật Kiểm toán đựơc thiết lập để thu thập các bằng chứng về tính chất thích hợp và tính hiệu quả của hệ thống kiểm soát nội bộ doanh nghiệp. Đặc trưng của phương pháp này là các thử nghiệm và kiểm tra đều đưa vào qui chế kiểm soát nội bộ ở đơn vị được Kiểm toán. 3.4. Phương pháp theo dấu hiệu chỉ dẫn: Phương pháp này dựa vào dấu hiệu khả nghi, Kiểm toán viên định hướng cuộc kiểm toán, thu thập các bằng chứng Kiểm toán. Với khả năng chuyên môn và kinh nghiệm nghề nghiệp, Kiểm toán viên phân tích và có thể tìm ra những sai sót hoặc gia công chế biến số liệu gian lận, báo cáo sai sự thật đã được ngụy trang che dấu hoặc cũng có thể tìm được sự giải thích số liệu kế toán của doanh nghiệp là trung thực. Phần II: Một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác Kiểm toán ở nước ta 1. Thực trạng Kiểm toán ở nước ta hiện nay 1.1. Đặc điểm của hoạt động Kiểm toán ở nước ta 1.1.1 Kiểm toán nhà nước Kiểm toán nhà nước được thành lập theo Nghị định số 70/CP ngày 11/7/1994 của Thủ tướng Chính phủ. Đây là cơ quan trực thuộc Chính phủ và có chức năng "kiểm tra, xác nhận tính đúng đắn, hợp pháp của tài liệu và số liệu kế toán, báo cáo quyết toán của các cơ quan nhà nước, các đơn vị sự nghiệp, đơn vị kinh tế nhà nước và các đoàn thể quần chúng, các tổ chức xã hội sử dụng kinh phí do ngân sách nhà nước cấp". Kiểm toán nhà nước đóng vai trò quan trọng trong kiểm tra việc chấp hành Luật ngân sách và có nhiệm vụ xây dựng kế hoạch Kiểm toán hàng năm. Cơ cấu tổ chức của Kiểm toán nhà nước: Đứng đầu là Tổng kiểm toán nhà nước. Giúp Tổng Kiểm toán nhà nước phụ trách từng lĩnh vực công tác của Kiểm toán nhà nước là Phó Tổng kiểm toán nhà nước. Tổng kiểm toán, các Phó tổng Kiểm toán nhà nước do Thủ tướng Chính Phủ bổ nhiệm và miễn nhiệm. Tổng kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm trước Thủ tướng Chính phủ về toàn bộ công tác của Kiểm toán nhà nước. Các Phó tổng Kiểm toán nhà nước chịu trách nhiệm trước Tổng Kiểm toán nhà nước về nhiệm vụ được phân công. Công tác tổ chức kiểm toán chuyên ngành thuộc Kiểm toán nhà nước giúp Tổng Kiểm toán nhà nước thực hiện nhiệm vụ: - Kiểm toán ngân sách nhà nước - Kiểm toán đầu tư xây dựng cơ bản và các chương trình dự án vay nợ viện trợ của Chính phủ. - Kiểm toán doanh nghiệp nhà nước - Kiểm toán các chương trình đặc biệt Đứng đầu các tổ chức Kiểm toán chuyên ngành trên là Kiểm toán trưởng, giúp việc cho các Kiểm toán trưởng là các Phó Kiểm toán trưởng. Văn phòng Kiểm toán nhà nước giúp Tổng Kiểm toán nhà nước xây dựng chương trình kế hoạch, công tác theo dõi tổng hợp tình hình thực hiện công tác kiểm toán, các công tác về tổ chức cán bộ, tài chính, quản trị và hợp tác quốc tế của cơ quan Kiểm toán nhà nước. Kinh phí hoạt động của hệ thống Kiểm toán nhà nước do ngân sách nhà nước cấp. 1.1.2 Kiểm toán độc lập Ngày 15/05/1991, Bộ Tài Chính đã quyết định thành lập Công ty Kiểm toán Việt Nam, là tổ chức đầu tiên ở Việt Nam hoạt động trong lĩnh vực kiểm toán độc lập. Nghị định 70/CP 29/01/1994, Chính phủ công bố qui chế kiểm toán độc lập. Sau hơn 5 năm ra đời và phát triển, Kiểm toán độc lập đã lần lượt cho ra đời 8 công ty Kiểm toán Việt Nam, 4 công ty Kiểm toán 100% vốn nước ngoài và 2 công ty Kiểm toán liên doanh về Kiểm toán với tổng số 33 chi nhánh và văn phòng đại diện. Đó là các công ty Kiểm toán sau: Công ty Kiểm toán Việt Nam (VACO) Công ty tư vấn tài chính kế toán Kiểm toán (AASC) Công ty tư vấn và Kiểm toán (A&C) Công ty tư vấn và Kiểm toán Sài Gòn (AFC) Công ty Kiểm toán Đà Nẵng (DAC) Công ty kiểm toán và dịch vụ tin học (AISC) Công ty kiểm toán Hạ long (HAACO) Công ty kiểm toán Thuỷ Chung Công ty Kiểm toán Việt Nam Deloitte Touche Tohmatsu Công ty Coopers & Lybrand-AISC Công ty Emst & Young Việt Nam (E&Y) KPMG Deat Marwick Việt Nam (KPMG) Price Waterhous Việt Nam (D.W) Arthur Andersen Việt Nam (AA) Ngoài ra, hiện nay nhiều thành phố, địa phương và một số công ty kế toán nước ngoài đang lập dự án xin thành lập công tyKiểm toán văn phông đại diện hoặc chi nhánh tại khắp các tỉnh, thnàh phố trong cả nước. Nhằm xác lập sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động Kiểm toán độc lập, Nhà nước Việt Nam đã ban hành một số văn bản pháp quy để quản lý hoạt động Kiểm toán độc lập như: "Quy chế Kiểm toán độc lập trong nền kinh tế quốc dân" ( Nghị định 70/CP 20/1/1994); "Quy chế thi tuyển và cấp chứng chỉ Kiểm toán viên" (Số 237-TC/QD/CĐkiểm toán ngày 13/4/94 của Bộ Tài Chính). Luật đầu tư nước ngoài và các văn bản pháp quy hiện hành đã công bố nhiều điều khoản liên quan đến Kiểm toán và các trường hợp phải được Kiểm toán . Bộ Tài Chính đã tổ chức các lớp bồi dưỡng, thi và cấp chứng chỉ cho 140 đạt trình độ Kiểm toán viên độc lập theo tiêu chuẩn Việt Nam trong tổng số 800 người lam việc trong các công ty Kiểm toán Việt Nam. Sau gần 6 năm hoạt động, có gần 3000 lượt bản báo cáo tài chính của các xí nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài và 1000 lượt bản báo cáo tài chính của các doanh nghiệp Việt Nam được Kiểm toán. tổng doanh thu của các công ty kiểm toán Việt Nam trong 6 năm qua đã đạt được trên 84 tỷ đồng. 1.1.3. Kiểm toán nội bộ ở nước ta, Kiểm toán nội bộ đã thực hiện gắn liền với hoạt động Kiểm toán và quản lý, có tính chất bắt buộc và cưỡng chế theo yêu cầu của Giám đốc (Hội đồng quản trị) đối với các đơn vị, các hoạt động thuộc quyền. Cho đến nay, chức năng và nhiệm vụ cụ thể của Kiểm toán nội bộ cũng chưa được quan niệm thống nhất đặc biệt là trong hoạt động Kiểm toán hiệu qủa kinh doanh và năng lực quản lý. Kiểm toán nội bộ chưa xây dựng đựơc quy trình kỹ thuật riêng và chưa quan tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Kiểm toán khu vực này. ở Việt nam, theo yêu cầu quản lý của chủ doanh nghiệp, Kiểm toán nội bộ là hoạt động không thu phí đối với các đơn vị, bộ phận trực thuộc được Kiểm toán. Đối với Kiểm toán nội bộ ở các doanh nghiệp nhà nước, Kiểm toán viên nội bộ nhất thiết phải có chữ ký trong báo cáo tài chính vì chịu trách nhiệm trước Giám đốc cũng chịu trách nhiệm trước Nhà nước. 1.2. Những mặt đạt được của Kiểm toán Việt Nam Mặc dù ra đời sau, song từ đó đến nay những hoạt động của Kiểm toán Việt Nam đã được các tổ chức Kiểm toán quốc tế, các cơ quan Kiểm toán tối cao đánh giá cao. Ngày 26/6/1996 Kiểm toán Việt Nam được công nhận là thành viên chính thức của "Tổ chức quốc tế các cơ quan Kiểm toán tối cao INTOSAI" và đến 11/1997 đã trở thành thành viên của tổ chức các cơ quan Kiểm toán tối cao Châu á 1.2.1 Hoạt động Kiểm toán nhà nước Tuy Kiểm toán nhà nước mới ra đời năm 1994 những đã từng bước khẳng định vai trò không thể thiếu trong hệ thống kiểm tra kiểm sát của nhà nước. Với hơn 2500 cuộc Kiểm toán đã đựoc thực hiện ở hầu hết các Bộ, ngành, địa phương, các chương trình quốc gia và các chương trình xây dựng cơ bản trọng điểm trong lĩnh vực an ninh quốc phòng, trong các đơn vị kinh tế của Đảng. Kiểm toán nhà nước đã phát hiện tăng thu, tiết kiệm chi cho ngân sách nhà nước gần 2500 tỷ đồng. Điều có ý nghĩa quan trọng nữa là qua Kiểm toán nhà nước giúp cho lãnh đạo các đơn vị nâng cao về chế độ chính sách của nhà nước để có quyết định đúng đắn hơn. Trên cơ sở Điều lệ tổ chức và hoạt động của Kiểm toán nhà nước đến nay bộ máy của ngành đã đi vào hoạt động ổn định và phát triển với 4 đơn vi Kiểm toán chuyên ngành, một văn phòng, một trung tâm khoa học và bồi dưỡng cán bộ, một phòng thanh tra và kiểm tra nội bộ thuộc tổng kiểm toán nhà nước và 4 Kiểm toán nhà nước khu vực (phía Bắc, miền Trung, miền Nam và Tây Nam Bộ). Từ chỗ ban đầu chỉ có hơn 30 người đến nay Kiểm toán nhà nước có gần 500 cán bộ công nhân viên trong đó có hơn 400 người là Kiểm toán viên. Tuy còn thiếu nhiều so với nhiệm vụ của ngành những số cán bộ hiện có đã đáp ứng được nhiệm vụ của ngành trong giai đoạn đầu thành lập. Nhìn chung, đội ngũ cán bộ đều được đào tạo có hệ thống, số tốt nghiệp đại học trở lên chiếm 88%, riêng Kiểm toán viên 100% đều tốt nghiệp đại học chuyên ngành tài chính kế toán và một số chuyên ngành kinh tế kỹ thuật. Những con số Kiểm toán còn cung cấp cho cơ quan quản lý nhà nước tình hình quản lý và sử dụng các nguồn lực ngân sách nhà nước trong từng địa phương và đơn vị, cung cấp các thông tin xác thực cho các cơ quan quản lý về thực trạng thu-chi điều hành và quyết toán ngân sách nhà nước. Nó cũng là một trong những căn cứ để Quốc hội xem xét quyết định phân bổ và phê chuẩn quyết toán ngân sách nhà nước. Bên cạnh nhiệm vụ chính là xây dựng bộ máy và thực hiện kế hoạch Kiểm toán hàng năm, Kiểm toán nhà nước cũng đã tiến hành công tác chuẩn bị cho hướng phát triển lâu dài của ngành như: Nghiên cứu các đề tài khoa học liên quan đến địa vị pháp lý, chức năng nhiệm vụ quyền hạn và cơ chế hoạt động của Kiểm toán nhà nước; nghiên cứu soạn thảo chuẩn mực và qui trình Kiểm toán... Công tác triển khai nghiên cứu các đề tài được thực hiện một cách nghiêm túc, khẩn trương và đảm bảo hoàn thành đúng kế hoạch về chất lượng, khối lượng, tiến độ và cả về trình tự và thủ tục quản lý khoa học. Thành quả của nghiên cứu khoa học đã trợ giúp to lớn và quan trọng cho sự định hình đổi mới nhận thức, cơ chế hoạt động, tổ chức và nghiệp vụ Kiểm toán. Đến nay, sau một thời gian chuẩn bị nghiêm túc và công phu, pháp lệnh Kiểm toán nhà nước đang được Chính phủ và Uỷ ban thường vụ Quốc hội sẽ xem xét thông qua tạo hành lang pháp lý cần thiết cho hoạt động Kiểm toán nhà nước . Năm năm qua, Kiểm toán nhà nước cũng thu được một số kết quả nhất định tronglĩnh vực hợp tác quốc tế. Đó là Kiểm toán nhà nước còn quan hệ song phương và đa phương với cac cơ quan Kiểm toán tối cao của nhiều nước trên thế giới. Bước đâù thực hiện có kết quả những dự án do Ngân hàng phát triển Châu á và dự án GTZ do CHLB Đức tài trợ. Những quan hệ đối ngoại trên đây đã góp phần nâng cao vị thế của Kiểm toán nhà nước trên trường quốc tế và trong khu vực, mở ra khả năng hợp tác trao đổi kinh nghiệm nghề nghiệp tranh thủ được sự trợ giúp của các nước và các tổ chức quốc tế về cơ sở vật chất kỹ thuật, nghiên cứu, đào tạo. 1.2.2. Hoạt động kiểm toán độc lập Sự ra đời và hoạt động của hệ thống các công ty Kiểm toán độc lập đã giúp ích cho các nhà đầu tư Việt Nam và nước ngoài hiểu biết và chấp hành đúng luật lệ về kinh tế, quản lý, thuế, phần chia lợi nhuận, kiểm soát và nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh tại Việt Nam. Các công ty kế toán, kiểm toán đã có công giúp truyền bá và đưa những thông lệ phổ biến của quốc tế về kế toán và Kiểm toán vào Việt Nam, các qui định về quản lý tài chính Nhà nước vào cuộc sống, hỗ trợ và thay thế một phần đáng kể công việc của các cơ quan chủ quản. Các dịch vụ về tư vấn Kiểm toán độc lập như hoạt động trung gian giúp cho các doanh nghiệp hiểu nhau và tin tưởng nhau để cùng nhau làm ăn, hạn chế rủi ro của từng bên liên doanh, giúp cho những người trung gian yên tâm sử dụng các thông tin tài chính của doanh nghiệp. Tình hình về các công ty Kiểm toán độc lập ở Việt Nam (Theo số liệu thống kê đến 31/12/1996) Stt Tên công ty Số lượng nhân viên Số lượng văn phòng Doanh thu năm 1996 (1000USD) 1. Công ty Kiểm toán VACO 90 04 550 2. Công ty Kiểm toán AASC 140 04 500 3. Công ty tư vấn và Kiểm toán A&C 78 02 490 4. Công ty tư vấn và Kiểm toán AFC 70 03 500 5. Công ty Kiểm toán Đà Nẵng 20 01 90 6. Công ty Kiểm toán và tin học AISC - - - 7. Công tyKiểm toán Hạ Long HAACO 18 01 45 8. Công ty Kiểm toán Thuỷ Chung 20 01 10 9. Công ty VACO-DTT 50 20 - 10 Công ty Cooper & Lybrand-AISC 86 04 1400 11. Công ty Ernts &Young VN (E&Y) - - - 12. KPMG 100 02 - 13. Price Waterhouse 120 02 - 14. ARthu Andersen VN (AA) 63 02 - 1.2.3 Hoạt động Kiểm toán nội bộ ở Việt Nam, hoạt động của Kiểm toán nội bộ nhìn chung đã thực hiện khá đầy đủ chức năng nhiệm vụ quyền hạn về cơ bản hoạt động của Kiểm toán nội bộ đã góp phần nâng cao hiệu qủa hoạt động, hiệu quả sử dụng vốn và hiệu quả cuối cùng của hoạt động sản xuất kinh doanh, giúp chủ doanh nghiệp khắc phục những khâu chủ yếu, ngăn chặn và xử lý các gian lận và sai sót trong hoạt động Kiểm toán nội bộ còn tồn tại nhiều hạn chế cần khắc phục. 1.3. Những tồn tại trong hoạt động Kiểm toán 1.3.1. Về Kiểm toán nhà nước Bên cạnh những kết quả đạt được, kiểm toán Nhà Nước còn tồn tại một số hạn chế nhất định như hiệu lực hoạt động Kiểm toán còn hạn chế, chưa đủ mạnh để đi sâu làm rõ những sai phạm trong quản lý, điều hành và sử dụng ngân sách nhà nước. Phạm vi Kiểm toán nhà nước còn hạn hẹp, khối lượng thu chi ngân sách được Kiểm toán hàng năm còn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng thu chi ngân sách, chất lượng Kiểm toán chưa cao, mới chỉ dừng lại ở việc xem xét, xử lý những vấn đề riêng lẻ của từng đối tượng Kiểm toán mà chưa đi sâu phân tích tổng hợp để đưa ra giải pháp có tính chất vĩ mô. Ngoài ra, còn xuất hiện một vài hiện tượng cá biệt trong đội ngũ Kiểm toán viên phản ánh sự thiếu trong sáng trong công việc và trong sinh hoạt làm ảnh hưởng đến thành danh của Kiểm toán nhà nước. 1.3.2. Về Kiểm toán độc lập Kiểm toán độc lập chủ yếu là còn thiếu các qui trình hướng dẫn có tính chất chuẩn mực Kiểm toán riêng của Việt Nam làm cơ sở cho việc đào tạo nhân viên, chỉ đạo hoạt động và kiểm soát chất lượng kiểm toán. Cũng có sự khác biệt khá nhiều giữa các công ty Kiểm toán quốc tế và công ty Kiểm toán Việt Nam. Người Việt Nam chưa hiểu nhiều và hiểu khác nhau về Kiểm toán độc lập. Có người đề cao vai trò của Kiểm toán, coi kết qủa Kiểm toán như kết luận cuối cùng, hoàn thiện. Có người lại coi Kiểm toán như thêm một bước thủ tục hành chính phiền hà 1.3.3. Về Kiểm toán nội bộ Hoạt động Kiểm toán nội bộ còn mang tính hình thức Phương thức tham mưu Kiểm toán đã xuất hiện ở một vài ngành và một số doanh nghiệp những chưa được đúc kết một cách đầy đủ. Tính độc lập khách quan của Kiểm toán nội bộ không cao. Chất lượng của cuộc Kiểm toán nội bộ còn phụ thuộc vào quan điểm và sự hiểu biết của lãnh đạo đơn vị với hoạt động kiểm toán. 1.4. Nguyên nhân của những tồn tại trên Sở dĩ còn tồn tại những hạn chế trên đây là vì những nguyên nhân sau: Thứ nhất: chưa có luật và pháp lệnh cụ thể hướng dẫn cho Kiểm toán Việt Nam, hệ thống chuẩn mực kế toán, kiểm toán, các chế độ chính sách của nhà nước chưa thống nhất. Chưa có quy trình, quy chế Kiểm toán cho từng loại Kiểm toán. Thứ hai: Đội ngũ Kiểm toán viên còn non trẻ, thiếu kinh nghiệm nhà nước chưa quan tâm đào tạo và bồi dưỡng nghiệp vụ cho đội ngũ Kiểm toán viên đặc biệt là Kiểm toán viên nội bộ do đó mặc dù có phẩm chất tốt, cần cù chịu khó nhưng trình độ chưa tương xứng với nhiệm vụ được giao. Thứ ba: Bộ Tài Chính chưa kiểm tra và chưa soát xét chất lượng Kiểm toán và các công ty Kiểm toán đặc biệt là các công ty nước ngoài chưa đăng ký danh sách Kiểm toán viên, chưa thi tuyển theo quy định làm cho sự khác biệt giữa Kiểm toán viên trong nước và Kiểm toán viên nước ngoài về trình độ cũng như sự hiểu biết luật lệ Việt Nam còn tồn tại. Thư tư: Một số công ty Kiểm toán chưa thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ, chưa có sự quy định rõ quyền lợi cho Kiểm toán viên nội bộ. 2. một số ý kiến nhằm hoàn thiện công tác Kiểm toán ở nước ta hiện nay 2.1. Đối với Kiểm toán nhà nước Kiểm toán nhà nước phải sớm phát triển mạnh để thực hiện chế độ Kiểm toán bắt buộc đối với mọi cơ quan đơn vị có sử dụng ngân sách nhà nước, Nghị quyết BCHTW 3 Khoá VIII của Đảng đã khẳng định. Muốn vậy, trong vòng 2-3 năm tới Kiểm toán nhà nước phải được kiện toàn tổ chức thành một hệ thống toàn ngành với khoảng 1000 Kiểm toán vien đạt tiêu chuẩn quy định về đạo đức, phẩm chất và trình độ chuyên môn nghiệp vụ. + Nhà nước sớm ban hành luật kiểm toán trước mắt là Pháp lệnh Kiểm toán, trong đó quy định rõ về vị trí pháp lý, chức năng nhiệm vụ, hệ thống tổ chức bộ máy, đối tượng của cả hệ thống, từng bộ phận cấu thành và của mỗi Kiểm toán viên nhà nước. Trong Luật (Pháp lệnh) Kiểm toáncũng phải xác định gía trị của báo cáo kiểm toán và trách nhiệm phối hợp trong Kiểm toán nói riêng và giữa Kiểm toán với hoạt động của các cơ quan khác: thanh tra, quản lý tài chính, điều tra, kiểm sát, trong và ngoài doanh nghiệp, đơn vị, tổ chức sự nghiệp kinh tế nói chung. + Để Kiểm toán nhà nước có đủ tầm hoạt động khách quan, độc lập theo pháp luật ta thấy rằng hệ thống này phải là một cơ quan ngang Bộ, trực thuộc Quốc hội (trực tiếp là Uỷ ban thường vụ Quốc hội). Kiểm toán nhà nước hoạt động theo kế hoạch dài hạn và hàng năm, quý, tháng trên cơ sở chwong trình chỉ thị của Quốc hội, UBTVQH, chỉ thị của Chủ tịch nước và yếu cầu của Thủ tướng Chính phủ, có sự phối hợp chặt chẽ, đúng chức năng, phạm vi hoạt động với các cơ quan quản lý tài chính, tiền tệ, các cơ quan bảo vệ pháp luật và các cơ quan nhà nước khác có liên quan. Kiểm toán nhà nước phải báo cáo kết quả của mình và chịu trách nhiệm về tính chính xác của các báo cáo Kiểm toán trước Quốc hội, UBTVQH, Chủ tịch nước và Thủ tướng Chính phủ. + Nhà nước cần tiếp tục kiện toàn tổ chức bộ máy Thanh tra nhà nước, Công an, Kiểm sát, Ngân hàng, Kho bạc nhà nước, Tổng cục quản lý vốn và tài sản của nhà nước tại các doanh nghiệp, Tổng cục đầu tư phát triển, Cục quản lý cộng sản theo hướng: tinh giảm khâu cấp, giảm biên chế. Đồng thời quy định rõ và đảm bảo hoạt động đúng chức năng, có sự phối hợp chặt chẽ giữa các loại cơ quan đó với nhau và với hệ thống Kiểm toán nhằm pháp huy hiệu lực, hiệu quả quản lý nhà nước nói chung, quản lý tài chính, quản lý ngân sách và doanh nghiệp nói riêng. + Để Kiểm toán nhà nước hoạt động có kết quả tốt thì một hệ thống chuẩn mực kế toán cần sớm được ban hành, cac chế độ chính sách của nhà nước cần phải được thống nhất, và trên cơ sở đó phải xác định đúng địa vị pháp lý của Kiểm toán nhà nước để xứng đáng là một trong những công cụ kiểm kê, kiểm soát đáng tin cậy, góp phần làm lành mạnh tình hình tài chính nhà nước. + Mọi việc khởi đầu đối với Kiểm toán nhà nước coi là làm thử, rút kinh nghiệm đã kết thúc; từ nay phải đưa các hoạt động vào nề nếp; thực hiện đúng chức năng, nhiệm vụ, đúng chuẩn mực của một cơ quan chuyên môn. Trước hết Kiểm toán nhà nước cần khẩn trương phối hợp với các cơ quan liên quan nghiên cứu, đề xuất với Chính phủ những vấn đề cần sửa đổi, bổ sung Nghị định 70/CP cho phù hợp với đòi hỏi thực tiễn, bảo đảm cho Kiểm toán nhà nước hoạt động có hiệu quả cao hơn và tránh trùng lặp với nhiệm vụ của các cơ quan thanh tra về tài chính. + Phải xây dựng được quy chế, quy trình về Kiểm toán nhà nước, kể cả kế hoạch Kiểm toán chung và của từng cuọc Kiểm toán. Phải có biện pháp nâng cao số lượng, chất lượng của các cuọc Kiểm toán, vừa bảo đảm toàn diện các lĩnh vực, vừa chú trọng vào các trọng điểm. Báo cáo Kiểm toán phải dộc lập khách quan, phải trung thực thẳng thắn, dũng cảm xác định rõ địa chỉ và trách nhiệm của cá nhân, đơn vị cố ý làm sai, gây lãng phí thiệt hại tài sản công quỹ. Kiểm toán nhà nước phải thật sự là một công cụ quan trọng, sắc bén của Đảng, nhà nước và nhân dân trong việclập lại kỷ cương trong quảnlý tài chính công, ngăn ngừa và chống tiêu cực tham nhũng, xây dựng nền tài chí

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docK1312.doc
Tài liệu liên quan