Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành.
Giá thành sản xuât sản phẩm là một phạm trù của sản xuât hàng hóa, phản ánh lượng của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi ra cho sản xuất. Những chi phí đưa vào giá thành sản phâm phải phản ánh đựoc giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
Chỉ tiêu giá thành nếu được xác định một cách chính xác, trung thực có thể giúp cho các doanh nghiệp cũng như Nhà nước có cơ sở để xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra những biện pháp, đường lối thích hợp cho từng giai đoạn cụ thể.
Giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu vào mới chỉ đáp ứng yêu cầu tái sản xuất giản đơn. Trong khi đó mục đích chính của thị trường là tái sản xuất mở rộng, tức là giá tiêu thu hàng hóa sau khi bù đắp chi phí đầu vào vẫn phải có lãi. Do đó, việc quản lý, hạch toán, công tác giá thành sao cho hợp lý, chính xác, vừa đảm bảo việc hạ thấp giá thành là rất quan trọng.
11 trang |
Chia sẻ: huong.duong | Lượt xem: 1319 | Lượt tải: 0
Bạn đang xem nội dung tài liệu Đề tài Một số ý kiến về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp, để tải tài liệu về máy bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI NÓI ĐẦU
Tổ chức kế toán chi phí sản xuất chính xác, hợp lý và tính đúng, tính đủ giá thành công trình xây lắp có ý nghĩa rất lớn trong công tác quản lý chi phí, giá thành xây dựng, trong việc kiểm tra tính hợp pháp hợp lệ của chi phí phát sinh ở doanh nghiệp nói chung và ở các tổ đội xây dựng nói riêng. Với chức năng là ghi chép, tính toán, phản ánh và giám đốc thường xuyên liên tục sự biến động của vật tư, tài sản, tiền vốn, kế toán sử dụng thước đo hiện vật và thước đo giá trị để quản lý chi phí. Thông qua số liệu do kế toán tập hợp chi phí, tính giá thành, người quản lý doanh nghiệp biết được chi phí và giá thành thực tế của từng công trình, hạng mục công trình của quá trình sản xuất kinh doanh. Qua đó, nhà quản trị có thể phân tích tình hình thực hiện kế hoạch sản phẩm, tình hình sử dụng lao động, vật tư, vốn là tiết kiệm hay lãng phí để từ đó có biện pháp hạ giá thành, đưa ra những quyết định phù hợp với hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Hạ giá thành sản phẩm mà vẫn đảm bảo chất lượng là điều kiện quan trọng để doanh nghiệp kinh doanh trên thị trường.
Việc phân tích đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh chỉ có thể dựa trên giá thành sản phẩm chính xác. Về phần giá thành thì giá thành lại chịu ảnh hưởng của kết quả tổng hợp chi phí sản xuất xây lắp. Do vậy, tổ chức tốt công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm xây lắp để xác định nội dung, phạm vi chi phí cấu thành trong giá thành cũng như lượng giá trị các yếu tố chi phí đã dịch chuyển vào sản phẩm hoàn thành là yêu cầu rất cần thiết đối với các doanh nghiệp nói chung và doanh nghiệp xây lắp nói riêng.
Chính vì những lý do như vậy em xin lựa chon đề tài:”Một số ý kiến về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp”.
Phương pháp nghiên cứu mà em sử dụng trong chuyên đề này là dựa trên cơ sở những phân tích lý luận và những hiểu biết thực tế để đề xuât ý kiến.
Bố cục của chuyên đề này gồm các phần như sau:
Phần 1: Những vấn đề lý luận và thực trạng về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Phần 2: Một số ý kiến đề xuất về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Phần 1: Những vấn đề lý luận và thực trạng về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
1. Lý luận chung về tổ chức kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
1.1 Chi phí sản xuất trong các doanh nghiệp xây lắp.
a) Khái niệm chi phí sản xuất.
Sản xuất gắn liền với quá trình hình thành và phát triển của loài người. Quá trình sản xuất là sự kết hợp của 3 yếu tố cơ bản: đối tượng lao động, tư liệu lao động và lao động sống. Lao động là hoạt động một cách có ý thức của người lao động tác động một cách có mục đích lên đối tượng lao động và tư liệu lao động, qua quá trình biến đổi sẽ tạo ra sản phẩm, lao vụ. Đó chính là sự tiêu hao ba yếu tố trên. Trong xã hội tồn tại quan hệ hàng hóa - tiền tệ, hao phí yếu tố nguồn lực cho sản xuất, kinh doanh được biểu hiện dưới hình thức giá trị, gọi là chi phí sản xuất, kinh doanh.
Chi phí sản xuất kinh doanh là biểu hiện bằng tiền của toàn bộ hao phí về lao động sống và lao động vật hóa mà doanh nghiệp bỏ ra trong một kỳ kinh doanh nhất định. Chi phí về lao động sống là những chi phí về tiền lương, thưởng, phụ cấp và các khoản trích theo lương của người lao động. Chi phí lao động vật hóa là những chi phí về sử dụng các yếu tố tư liệu lao động, đối tượng lao động dưới các hình thái vật chất, phi vật chất, tài chính và phi tài chính.
b) Các khoản mục chi phí trong giá thành sản phẩm xây lắp.
Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp: bao gồm giá trị thực tế của nguyên liệu, vật liệu chính, phụ hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển thực tế tham gia cấu thành sản phẩm xây lắp và giúp cho việc thực hiện và cấu thành sản phẩm xây lắp( không kể vật liệu cho máy móc thi công và hoạt động sản xuất chung).
Chi phí nhân công trực tiếp: gồm toàn bộ tiền lương, tiền công và các khoản phụ cấp mang tính chất tiền lương trả cho công nhân trực tiếp xây lắp.
Chi phí sử dụng máy thi công: bao gồm chi phí cho các máy thi công nhằm thực hiện khối lượng xây lắp bằng máy. Máy móc thi công là loại máy trực tiếp phục vụ xây lắp công trình. Đó là những máy móc chuyển động bằng động cơ hơi nước, diezen, xăng, điện,...
Chi phí sử dụng máy thi công gồm chi phí thường xuyên và chi phí tạm thời.
Chi phí thường xuyên cho hoạt động của máy thi công gồm: lương chính, phụ của công nhân điều khiển, phục vụ máy thi công. Chi phí nguyên liệu, vật liệu, công cụ dụng cụ, chi phí khấu hao TSCĐ, chi phí dịch vụ mua ngoài (sửa chữa nhỏ, điện, nước, bảo hiểm xe, máy ) và các chi phí khác bằng tiền.
Chi phí tạm thời: chi phí sửa chữa lớn máy thi công (đại tu, trung tu...), chi phí công trình tạm thời cho máy thi công (lều, lán, bệ, đường ray chạy máy....). Chi phí tạm thời của máy có thể phát sinh trước (hạch toán trên TK 142, 242) sau đó phân bổ dần vào TK 623. Hoặc phát sinh sau nhưng phải tính trước vào chi phí sử dụng máy thi công trong kỳ (do liên quan đến việc sử dụng thực tế máy móc thi công trong kỳ). Trường hợp này phải tiến hành trích trước chi phí (hạch toán trên TK 335)
Chi phí sản xuất chung: phản ánh chi phí sản xuất của đội, công trường xây dựng bao gồm: lương nhân viên quản lý đội, công trường, các khoản trích BHXH, BHYT, KPCĐ theo tỷ lệ quy định (19 %) trên tiền lương của công nhân trực tiếp xây lắp, công nhân điều khiển xe, máy thi công và nhân viên quản lý đội, khấu hao TSCĐ dùng chung cho hoạt động của đội và những chi phí khác liên quan đến hoạt động của đội.
Chi phí bán hàng: gồm toàn bộ những chi phí phát sinh trong việc tiêu thụ sản phẩm và hàng hóa trong kỳ.
Chi phí quản lý doanh nghiệp: gồm toàn bộ những chi phí liên quan đến việc quản trị kinh doanh và quản trị hành chính trong doanh nghiệp mà không tách được cho bất cứ phân xưởng , công trường nào.
c) Kế toán chi phí sản xuất trong doanh nghiệp xây lắp.
- Kế toán chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Trong tổng chi phí sản phẩm xây lắp thì chi phí nguyên vật liệu chính chiếm một tỷ trọng lớn. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp là chi phí của những loại nguyên vật liệu cấu thành thực thể của sản phẩm, có giá trị lớn và có thể xác định một cách tách biệt rõ ràng cụ thể cho từng sản phẩm. Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp bao gồm chi phí về nguyên vật liệu chính, vật liệu phụ, các cấu kiện hoặc các bộ phận rời, vật liệu luân chuyển tham gia cấu thành nên thực thể sản phẩm xây lắp. Chi phí nguyên vật liệu được tính theo giá thực tế khi xuất dùng, còn có cả chi phí thu mua, vận chuyển từ nơi mua về nơi nhập kho hoặc xuất thẳng đến chân công trình.
Tài khoản sử dụng:Tài khoản 621 dùng để tập hợp chi phí nguyên vật liệu trực tiếp phát sinh trong kỳ, cuối kỳ kết chuyển xang tài khoản tập hợp chi phí sản xuât và tính giá thành sản phẩm. Kết cầu tài khoản 621 như sau:
Bên Nợ: Trị giá gốc của nguyên vật liệu trực tiếp dùng cho sản phẩm xây lắp.
Bên Có: Trị giá nguyên vật liệu sử dụng không hết đem nhập kho, kêt chuyển chi phí nguyên vật liệu trực tiếp vào tài khoản 154.
Tài khoản này không có số dư cuối kỳ.
Căn cứ vào đối tượng hạch toán, kế toán ghi:
*Khi xuất nguyên vật liệu sử dụng cho thi công:
Nợ TK 621.
Có TK 152./ Trị giá nguyên vật liệu xuất dùng.
* Mua nguyên vật liệu đưa thẳng đến công trình phục vụ cho thi công.
Nợ TK 621: giá mua nguyên vật liệu chưa VAT.
Nợ TK 133: VAT được khấu trừ.
Có 111,112,141,331: số tiền theo giá thanh toán.
* Cuối tháng nguyên vật liệu dùng không hết đem trả lại kho.
Nợ TK 152.
Có TK 621/ trị giá nguyên vật liệu nhập kho.
* Cuối tháng kết chuyển chi phí nguên vật liệu trực tiếp.
Nợ TK 154.
Có TK 621./ Chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
* Trường hợp có nguyên vật liệu vượt định mức không được tính vào giá thành sản phẩm.
Nợ TK 632.
Có TK 621./ Chi phí nguyên vật liệu vượt định mức.
- Kế toán chi phí nhân công trực tiếp.
Chi phí nhân công trực tiếp là những khoản thù lao phải trả cho công nhân trực tiếp sản xuất sản phẩm, trực tiếp thực hiện các lao vụ dịch vụ như tiền lương chính, lương phụ và các khoản phụ cấp có tính chất lương( phụ cấp khu vực, độc hại, phụ cấp làm đêm, thêm giờ…)
* Tính lương phải trả cho công nhân của doanh nghiệp trực tiếp sản xuất xây lắp.
Nợ TK 622
Có Tk 3341./ lương phải trả.
* Tiền công phải trả cho công nhân thuê ngoài.
Nợ TK 622
Có TK 3342./ tiền thuê nhân công bên ngoài.
* Cuối tháng kết chuyển chi phí nhân công trực tiếp.
Nợ TK 154.
Có TK 622./ chi phí nhân công trực tiếp.
- Kế toán chi phí sử dụng máy thi công.
Tài khoản sử dụng 623.
* Khi phát sinh các khoản chi phí thuộc chi phí sử dụng máy thi công.
Nợ TK 623.
Có TK 334, 152, 153, 214, 111, 112./ chi phí sử dụng máy thi công.
* Cuối kỳ tính và kết chuyển chi phí sử dụng máy thi công.
Nợ TK 154.
Có Tk 623./ Chi phí sử dụng máy thi công.
* Trường hợp có máy thi công vượt định mức không đựợc tính vào giá thành.
Nợ TK 632.
Có Tk 623./ Chi phí sử dụng máy thi công vượt định mức.
- Kế toán chi phí sản xuất chung.
*Khi phát sinh các khoản chi phí sản xuất chung của doanh nghiệp xây lắp kế toán viên ghi.
Nợ TK 627: chi phí sản xuất chung.
Có TK 334: lương nhân viên quản lý tổ đội thi công.
Có TK 338: các khoản trả theo lương của công nhân xây lắp , công nhân điều khiển máy thi công, nhân viên quản lý tổ độimáy thi công. Có TK 152, 142, 242: trị giá công cụ, dụng cụ phân bổ vào chi phí.
Có TK 214: khấu hao tài sản cố định.
Có TK 335: trích trước chi phí sửa chữa tài sản cố định.
Có TK 352: trích trước chi phí bảo hành công trình.
Có TK 331, 111, 112: chi phí mua ngoài và chi phí bằng tiền khác.
* Cuối kỳ phân bổ kết chuyển chi phí sản xuất chung của các đối tượng liên quan.
Nợ TK 154.
Có TK 627./ chi phí sản xuất chung.
* Trường hợp chi phí sản xuât chung vượt định mức không được tính vào giá thành sản phẩm.
Nợ TK 632.
Có TK 627./ chi phí sản xuất chung vượt định mức.
- Cuối kỳ tổng hợp chi phí sản xuất chung.
Nợ TK 154.
Có TK 621: chi phí nguyên vật liệu trực tiếp.
Có TK 622: chi phí nhân công trực tiếp.
Có TK 623: chi phí sử dụng máy thi công.
Có Tk 627: chi phí sản xuất chung.
- Cuối kỳ tính và kết chuyển và tính giá sản phẩm xây lắp đã hoàn thành bàn giao cho chủ đầu tư.
Nợ TK 632.
Có TK 154.
1.2 Tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
a) Khái niệm giá thành sản phẩm xây lắp.
Giá thành sản phẩm xây lắp là biểu hiện bằng tiền toàn bộ hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã phát sinh trong quá trình sản xuất có liên quan tới khối lượng xây lắp đã hoàn thành.
Giá thành sản xuât sản phẩm là một phạm trù của sản xuât hàng hóa, phản ánh lượng của những hao phí lao động sống và lao động vật hóa đã thực sự chi ra cho sản xuất. Những chi phí đưa vào giá thành sản phâm phải phản ánh đựoc giá trị thực của các tư liệu sản xuất tiêu dùng cho sản xuất và các khoản chi tiêu khác có liên quan tới việc bù đắp giản đơn hao phí lao động sống.
Chỉ tiêu giá thành nếu được xác định một cách chính xác, trung thực có thể giúp cho các doanh nghiệp cũng như Nhà nước có cơ sở để xem xét, đánh giá thực trạng hoạt động sản xuất kinh doanh, từ đó đưa ra những biện pháp, đường lối thích hợp cho từng giai đoạn cụ thể.
Giá thành có hai chức năng chủ yếu là bù đắp chi phí và lập giá. Số tiền thu được từ việc tiêu thụ sản phẩm sẽ bù đắp phần chi phí mà doanh nghiệp bỏ ra để sản xuất sản phẩm đó. Tuy nhiên, sự bù đắp các yếu tố chi phí đầu vào mới chỉ đáp ứng yêu cầu tái sản xuất giản đơn. Trong khi đó mục đích chính của thị trường là tái sản xuất mở rộng, tức là giá tiêu thu hàng hóa sau khi bù đắp chi phí đầu vào vẫn phải có lãi. Do đó, việc quản lý, hạch toán, công tác giá thành sao cho hợp lý, chính xác, vừa đảm bảo việc hạ thấp giá thành là rất quan trọng.
b) Phân loại giá thành sản xuất.
- Theo nguồn số liệu tính và thời điểm tính giá: theo cách phân loại này thì chi phí được phân chía thành giá thành dự toán, giá thành kế hoạch, giá thành định mức, và giá thành thực tế.
Giá thành dự toán: là chỉ tiêu giá thành được xây dựng trên cơ sở thiết kế kỹ thuật đã được duyệt, các định mức kinh tế kỹ thuật do Nhà nước quy định, tính theo đơn giá tổng hợp cho từng khu vực thi công và phân tích định mức.
Căn cứ vào giá trị dự toán, ta có thể xác định được giá thành của sản phẩm xây lắp theo công thức:
Giá thành dự toán sản phẩm xây lắp
=
Giá trị dự toán sản phẩm xây lắp
-
Lãi định mức
Trong đó
Lãi định mức trong XDCB được Nhà nước quy định trong từng thời kỳ
Giá trị dự toán xây lắp được xây lắp được xác định dựa vào đinh mức đánh giá của các cơ quan có thẩm quyền và dựa trên mặt bằng giá cả của thị trường, do đó giá trị dự toán chính
Giá thành kế hoạch: giá thành kế hoạch được xác định trước khi bước vào kinh doanh trên cơ sở giá thành thực tế kỳ trước và các định mức, các dự toán chi phí của kỳ kế hoạch. Chỉ tiêu này được xác lập trên cơ sở giá thành dự toán gắn liền với điều kiện cụ thể, năng lực thực tế của từng doanh nghiệp trong một thời kỳ nhất định.
Giá thành kế hoạch sản phẩm xây lắp
=
Giá thành dự toán sản phẩm xây lắp
-
Mức hạ giá thành dự toán
+
Chênh lệch định mức
Giá thành kế hoạch là căn cứ để so sánh, phân tích tình hình thực hiện kế hoạch giá thành, là mục tiêu phấn đấu hạ giá thành của doanh nghiệp.
Giá thành định mức: Cũng như giá thành kế hoạch, giá thành định mức cũng được xác định trước khi bắt đầu sản xuất sản phẩm. Tuy nhiên, khác với giá thành kế hoạch được xây dựng trên cơ sở các định mức bình quân tiên tiến và không biến đổi trong suốt cả kỳ kế hoạch, giá thành định mức được xây dựng trên cơ sở các định mức về chi phí hiện hành tại từng thời điểm nhất định trong kỳ kế hoạch (thường là ngày đầu tháng) nên giá thành định mức luôn thay đổi phù hợp với sự thay đổi của các định mức chi phí đạt được trong quá trình thực hiện kế hoạch giá thành.
Giá thành thực tế: Giá thành thực tế là chỉ tiêu được xác định sau khi kết thúc quá trình sản xuất sản phẩm dựa trên cơ sở chi phí thực tế phát sinh trong quá trình sản xuất sản phẩm.
Các phân loại này có tác dụng trong việc quản lý và giám sát chi phí, xác định được các nguyên nhân vượt định mức chi phí trong kỳ hạch toán. Từ đó, điều chỉnh kế hoạch hoặc định mức chi phí cho phù hợp.
- Theo phạm vi phát sinh: chỉ tiêu giá thành được chia thành giá thành sản xuất và giá thành tiêu thụ.
Giá thành sản xuất: là chỉ tiêu phản ánh tất cả những chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, chế tạo sản phẩm trong phạm vi phân xưởng sản xuất. Đối với các đơn vị xây lắp giá thành sản xuất gồm chi phí nguyên vật liệu, chi phí nhân công, chi phí máy thi công, chi phí sản xuất chung.
Giá thành tiêu thụ: (hay còn gọi là giá thành toàn bộ) là chỉ tiêu phản ánh toàn bộ các khoản chi phí phát sinh liên quan đến việc sản xuất, tiêu thụ sản phẩm. Giá thành tiêu thụ được tính theo công thức
Giá thành toàn bộ của sản phẩm
=
Giá thành sản xuất của sản phẩm
+
Chi phí quản lý doanh nghiệp
+
Chi phí bán hàng
Cách phân loại này có tác dụng giúp cho nhà quản lý biết được kế quả kinh doanh của từng mặt hàng, từng loại dịch vụ mà doanh nghiệp kinh doanh. Tuy nhiên, do những hạn chế nhất định khi lựa chọn tiêu thức phân bổ chi phí bán hàng và chi phí quản lý doanh nghiệp cho từng mặt hàng, từng loại dịch vụ nên cách phân loại này chỉ còn mang ý nghĩa học thuật, nghiên cứu.
2. Thực trạng về tổ chức kế toán trong các doanh nghiệp xây lắp.
a) Đặc điểm của doanh nghiệp xây lắp có ảnh hưởng tới việc tính giá thành sản phẩm và chi phí sản xuất.
Xây dựng cơ bản là ngành sản xuất vật chất quan trọng mang tính chất công nghiệp nhằm tạo ra cơ sở vật chất kỹ thuật cho nền kinh tế quốc dân. Một bộ phận lớn của thu nhập quốc dân, của quỹ tích luỹ cùng với vốn đầu tư của nước ngoài được sử dụng trong lĩnh vực xây dựng cơ bản.
So với các ngành sản xuất khác, ngành XDCB có những đặc điểm về kinh tế - kỹ thuật riêng biệt, thể hiện rất rõ nét ở sản phẩm xây lắp và quá trình tạo ra sản phẩm của ngành. Điều này đã chi phối đến công tác kế toán chi phí sản xuất và tính giá thành sản phẩm trong các doanh nghiệp xây lắp.
Sản phẩm xây lắp là những công trình xây dựng, vật kiến trúc... có quy mô lớn, kết cấu phức tạp mang tính đơn chiếc, thời gian sản xuất sản phẩm xây lắp lâu dài...Do đó, việc tổ chức quản lý và hạch toán sản phẩm xây lắp phải lập dự toán (dự toán thiết kế, dự toán thi công). Quá trình sản xuất xây lắp phải so sánh với dự toán, lấy dự toán làm thước đo, đồng thời để giảm bớt rủi ro phải mua bảo hiểm cho công trình xây lắp.
Sản phẩm xây lắp được tiêu thụ theo giá dự toán hoặc giá thỏa thuận với chủ đầu tư (giá đấu thầu), do đó tính chất hàng hóa của sản phẩm xây lắp không thể hiện rõ.
Sản phẩm xây lắp cố định tại nơi sản xuất còn các điều kiện sản xuất (xe máy, thiết bị thi công, người lao động...) phải di chuyển theo địa điểm đặt sản phẩm. Đặc điểm này làm cho công tác quản lý sử dụng, hạch toán tài sản, vật tư rất phức tạp do ảnh hưởng của điều kiện thiên nhiên, thời tiết và dễ mất mát hư hỏng...
Sản phẩm xây lắp từ khi khởi công cho đến khi hoàn thành công trình bàn giao đưa vào sử dụng thường kéo dài. Nó phụ thuộc vào quy mô, tính phức tạp về kỹ thuật của từng công trình. Quá trình thi công được chia thành nhiều giai đoạn, mỗi giai đoạn lại chia thành nhiều công việc khác nhau, các công việc thường diễn ra ngoài trời chịu tác động rất lớn của các nhân tố môi trường như nắng, mưa, lũ lụt...Đặc điểm này đòi hỏi việc tổ chức quản lý, giám sát chặt chẽ sao cho bảo đảm chất lượng công trình đúng như thiết kế, dự toán.
Do đặc thù của ngành xây dựng cơ bản và sản phẩm xây dựng nên việc quản lý về đầu tư xây dựng rất khó khăn phức tạp, trong đó tiết kiệm chi phí sản xuất, hạ giá thành sản phẩm, là một trong những mối quan tâm hàng đầu, là nhiệm vụ hết sức quan trọng của doanh nghiệp. Hiện nay, trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, chủ yếu áp dụng cơ chế đấu thầu, giao nhận thầu xây dựng. Vì vậy, để trúng thầu, được nhận thầu thi công thì doanh nghiệp phải xây dựng được giá thầu hợp lý, dựa trên cơ sở đã định mức đơn giá xây dựng cơ bản do Nhà nước ban hành, trên cơ sở giá thị trường và khả năng của doanh nghiệp. Mặt khác, phải đảm bảo kinh doanh có lãi.
b) Đối tượng của kế toán chi phí sản xuất.
Đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp là phạm vi giới hạn chi phí sản xuất xây lắp cần được tập hợp nhằm đáp ứng yêu cầu kiểm tra giám sát chi phí và yêu cầu tính giá thành
Để xác định đúng đắn đối tượng kế toán chi phí sản xuất xây lắp trong các doanh nghiệp, trước hết phải căn cứ vào các yếu tố tính chất sản xuất và qui trình công nghệ sản xuất giản, đặc điểm tổ chức sản xuất, yêu cầu và trình độ quản lý, đơn vị tính giá thành trong doanh nghiệp.
Đối tượng hạch toán chi phí sản xuất là các loại chi phí được tập hợp trong một thời gian nhất định nhằm phục vụ cho việc kiểm tra phân tích chi phí và giá thành sản phẩm. Giới hạn tập hợp chi phí sản xuất có thể là nơi gây ra chi phí và đối tượng chịu chi phí
Trong các doanh nghiệp xây lắp, với tính chất phức tạp của công nghệ và sản phẩm sản xuất mang tính đơn chiếc, có cấu tạo vật chất riêng, mỗi công trình, hạng mục công trình có dự toán thiết kế thi công riêng nên đối tượng hạch toán chi phí sản xuất có thể là công trình, hạng mục công trình, hoặc có thể là đơn đặt hàng, bộ phận thi công hay từng giai đoạn công việc. Tuy nhiên trên thực tế các đơn vị xây lắp thường hạch toán chi phí theo công trình, hạng mục công trình.
2. Một số giải pháp đề xuất.
- Phản ánh đầy đủ, kịp thời toàn bộ chi phí sản xuất thực tế phát sinh.
- Kiểm tra tình hình thực hiện các định mức chi phí vật tư, chi phí nhân công, chi phí sử dụng máy thi công và các chi phí dự toán khác, phát hiện kịp thời các khoản chênh lệch so với định mức, các chi phí khác ngoài kế hoạch, các khoản thiệt hại, mất mát, hư hỏng…trong sản xuất để đề xuất những biện pháp ngăn chặn kịp thời.
- Tính toán hợp lý giá thành công tác xây lắp, các sản phẩm lao vụ hoàn thành của doanh nghiệp.
- Kiểm tra việc thực hiện kế hoạch giá thành của doanh nghiệp theo từng công trình, hạng mục công trình từng loại sản phẩm lao vụ, vạch ra khả năng và các biện pháp hạ giá thành một cách hợp lý và có hiệu quả.
- Xác định đúng đắn và bàn giao thanh toán kịp thời khối lượng công tác xây dựng đã hoàn thành. Định kỳ kiểm kê và đánh giá khối lượng thi công dở dang theo nguyên tắc quy định.
- Đánh giá đúng đắn kết quả hoạt động sản xuất kinh doanh ở từng công trình, hạng mục công trình, từng bộ phận thi công tổ đội sản xuất…trong từng thời kỳ nhất định, kịp thời lập báo cáo về chi phí sản xuất, tính giá thành công trình xây lắp, cung cấp chính xác kịp thời các thông tin hữu dụng về chi phí sản xuất và giá thành phục vụ cho yêu cầu quản lý của lãnh đạo doanh nghiệp.
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- 37257.doc