Đề tài Một số yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động sử dụng tiền đền bù do bàn giao đất cho khu công nghiệp của các hộ gia đình

MỤC LỤC

 

PHẦN MỞ ĐẦU

1. Lý do chọn đề tài

2. Ý nghĩa khoa học và ý nghĩa thực tiễn

2.1. Ý nghĩa khoa học

2.2. Ý nghĩa thực tiễn

3. Mục đích và nhiệm vụ nghiên cứu

3.1. Mục đích nghiên cứu

3.2. Nhiệm vụ nghiên cứu

4. Đối tượng, khách thể, phạm vi nghiên cứu

4.1. Đối tượng nghiên cứu

4.2. Khách thể nghiên cứu

4.3. Phạm vi nghiên cứu

5. Phương pháp nghiên cứu

5.1. Phương pháp chọn mẫu

5.2. Phương pháp phỏng vấn bằng bảng hỏi

5.3. Phương pháp phỏng vấn sâu

5.4. Phương pháp quan sát

5.5. Phương pháp phân tích tài liệu

6. Giả thuyết nghiên cứu

7. Khung lý thuyết

 

PHẦN NỘI DUNG CHÍNH

CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI

1.1. Cơ sở lý luận

1.2. Lý thuyết áp dụng

1.2.1. Lý thuyết biến đổi xã hội

1.2.2. Lý thuyết hành động xã hội

1.2.3. Lý thuyết về sự lựa chọn hợp lý

1.3. Các khái niệm công cụ

1.3.1. Khái niệm tiền đền bù

1.3.2. Khái niệm hiệu quả sử dụng tiền đền bù

1.3.3. Khái niệm hộ gia đinh

1.3.4. Khái niệm đất đai

1.3.5. Khái niệm khu công nghiệp

1.4. Tổng quan địa bàn nghiên cứu và vấn đề nghiên cứu

1.4.1. Tổng quan địa bàn nghiên cứu

1.4.2. Tổng quan vấn đề nghiên cứu

CHƯƠNG II: KẾT QUẢ NGHIÊN CỨU

2.1. Vài nét về thực trạng vấn đề thu hồi đất và số tiền đền

2.2. Thực trạng hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp

2.3. Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình xã ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương

2.3.1. Số lượng tiền đền bù

2.3.2. Trình độ học vấn

2.3.3. Yếu tố tuổi

2.3.4. Nghề nghiệp chính của hộ gia đình

2.3.5. Giới tính

2.3.6. Chính sách hỗ trợ của chính quyền địa phương

2.4. Nhận định bước đầu về hiệu quả của việc sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình thuộc xã Ái Quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương

2.4.1. Về kinh tế

2.4.2. Về văn hoá - xã hội

2.4.3. Về giáo dục

2.4.4. Về chăm sóc sức khoẻ

2.4.5. Về quan hệ xã hội

PHẦN III: KẾT LUẬN VÀ KHUYẾN NGHỊ

3.1. Kết luận

3.2. Khuyến nghị

PHỤ LỤC

DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO

CÁC BIÊN BẢN PHỎNG VẤN SÂU

 

 

doc68 trang | Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 1672 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Một số yếu tố tác động đến hiệu quả hoạt động sử dụng tiền đền bù do bàn giao đất cho khu công nghiệp của các hộ gia đình, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
i dân số tiền đền bù thấp quá, được có hơn 9 triệu 1 sào thôi cháu à, cô nghe nói ở những nơi khác họ nhận được số tiền đền bù nhiều lắm.” (nữ, 35 tuổi, công nhân) Mối quan tâm của chúng tôi khi tiến hành nghiên cứu này chính là các hộ gia đình sẽ sử dụng số tiền đền bù này cho hoạt động nào và hiệu quả của nó đối với các gia đình ra sao để từ đó đề ra các giải pháp phù hợp nhằm hỗ trợ người dân mất đất. Thực trạng hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình sau khi bàn giao đất cho khu công nghiệp. Mỗi hộ gia đình nhận được số tiền đền bù là khác nhau nên họ sử dụng số tiền đó cũng rất khác nhau. Theo lý thuyết lựa chọn hợp lý thì mỗi gia đình khi sử dụng số tiền này đều phải cân nhắc, bàn bạc kỹ lưỡng xem dùng nó vào hoạt động gì để cho kết quả tốt nhất, nhưng hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình cũng phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố như trình độ học vấn, tuổi, nghề nghiệp chính của gia đình và điều kiện kinh tế của mỗi hộ gia đình. Qua phân tích sẽ giúp chúng ta hiểu rõ hơn vì sao các gia đình lại lựa chọn sử dụng tiền đền bù vào hoạt động đó và hiệu quả mà nó mang lại đối với các gia đình ra sao. Bảng 4: Các hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình (%) Hoạt động sử dụng tiền đền bù Tỉ lệ Gửi ngân hàng 14.7 Cho vay lãi 2.4 Đầu tư sản xuất 19.8 Đầu tư giáo dục 16.2 Đầu tư cho kinh doanh 9.0 Mua sắm tiện nghi sinh hoạt 12.7 Đầu tư chăm sóc sức khoẻ 5.0 Xây nhà cửa 17.8 Đầu tư giải trí 1.0 Khác 1.4 Tổng 100.0 Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng5/2007) Qua bảng số liệu trên cho thấy hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình là rất đa dạng, phân tán nhưng nhìn chung các hộ gia đình vẫn tập trung cho đầu tư sản xuất, nhưng con số này là không lớn (19.8%). Lí do cũng thật dễ hiểu vì diện tích đất của các hộ gia đình đã bị mất hết hoặc nếu còn cũng là rất ít nên rất khó đảm bảo cho sản xuất nông nghiệp như trước đây, vì thế các hộ gia đình phải chuyển đổi sản xuất để ổn định lại cuộc sống và cũng là để tạo ra nghề mới cho gia đình. “Trước đây cô cũng đã chăn nuôi rồi nhưng do thiếu vốn nên chỉ gọi là nuôi chơi thôi. Khi nhận được số tiền đền bù do mất ruộng, cô chú quyết định đầu tư vào xây dựng mở rộng chuồng trại và mua thêm con giống để làm ăn lớn”. (Nữ, 40 tuổi, làm ruộng) Một hoạt động sử dụng tiền đền bù khác được các hộ gia đình lựa chọn khá nhiều là xây nhà cửa. Nguyên nhân là do xã Ái Quốc trước đây là khu vực thuần nông nên kinh tế của các hộ gia đình cũng không được dư dả, chỉ đảm bảo cho cuộc sống đủ ăn, và chi tiêu hàng ngày chứ ít có tích luỹ nên việc xây nhà cao cửa rộng đối với người nông dân là một việc khó. Hiện nay, với số tiền nhận được tương đối nhiều nên tâm lý chung của người dân nông thôn là cũng muốn có một ngôi nhà khang trang hơn nên có tới 17.8% hộ gia đình sử dụng tiền đền bù vào hoạt động xây nhà cửa. “Sẵn có số tiền lớn trong tay, thấy hàng xóm xây nhà cửa khang trang thì mình cũng muốn xây lấy một cái để ở cho thoải mái, mới cả con cái bây giờ chúng nó cũng lớn cả rồi, ở nhà cũ thấy chật chội lắm.”( Nam, 52 tuổi, lao động tự do) Hoạt động này còn được thể hiện qua bảng so sánh loại hình nhà trước và sau năm 2003. Bảng 4.1. Loại nhà trước và sau năm 2003 Đơn vị tính: phần trăm (%) Loại nhà Trước năm 2003 Sau năm 2003 Nhà tranh 1.5 0.4 Nhà ngói 36.3 26.4 Nhà mái bằng 50.7 53.8 Nhà tầng 11.5 19.3 Biệt thự 0 1.0 Tổng 100 100 Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã Ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng5/2007) Bảng số liệu trên cho thấy tỉ lệ loại nhà tranh và nhà ngói đều giảm xuống và tỉ lệ nhà mái bằng và nhà tầng tăng lên. “Cháu tính xem nếu không có số tiền đền bù đó thì mình làm đến bao giờ mà có được số tiền lớn như vậy để xây nhà. Như cô chú cũng đã có dự định xây nhà từ lâu rồi đấy chứ nhưng nào có thực hiện được đâu, kiếm được đến đâu là tiêu hết đến đấy mà” (nữ, 39 tuổi, buôn bán nhỏ) Tỉ lệ các gia đình lựa chọn đầu tư cho giáo dục cũng khá nhiều chiếm 16,2% do giáo dục là một lĩnh vực vô cùng quan trọng nên đã thu hút được sự chú ý của toàn xã hội nói chung và các gia đình nói riêng. Qua bảng phỏng vấn sâu chúng tôi nhận thấy các gia đình có con em trong độ tuổi đến trường rất quan tâm, lo lắng đến vấn đề hoc tập của các em. “ Nhà cô 3 em vẫn còn đi học nên tốn kém lắm, cô chú có làm cũng chỉ đủ ăn, đủ tiêu thôi, còn số tiền đền bù nhận được cô chú để dành cho các em đi học vì sau này cô còn muốn cho các em học đại học nữa mà. nếu lúc đo làm không ra thì lấy tiền đâu mà đóng học cho các em. Mà học hành bây giờ tốn kém lắm chứ có như trước đâu”.( nữ, 42 tuổi, làm ruộng). Sự quan tâm của các gia đình về vấn đề học hành còn được thể hiện qua việc định hướng bậc học và nghề nghiệp cho con cái của họ. “Chú muốn cho em nó học lên đến đại học và sau này cho nó theo ngành quân đội, chứ cháu tính xem ruộng đất hết rồi, nếu không học thì sau này biết làm gì, mới cả bây giờ chúng nó cũng có thích làm ruộng đâu.” (nam, 40 tuổi, lao động tự do). Gửi ngân hàng cũng được khá nhiều các gia đình lựa chọn (14.7%). Có lẽ tâm lý chung của nhiều người nông dân là nếu không làm ăn gì lớn thì gửi tiền vào ngân hàng sẽ đảm bảo và cũng có được tiền lãi hàng tháng. Đây sẽ là một giải pháp an toàn đối với người nông dân khi họ có một số tiền lớn vậy mà họ không dùng cho đầu tư sản xuất. “Nhà có hai ông bà già nên cũng chẳng làm ruộng được như trước nữa. nhà nước thu đất cũng tốt vì sẵn có số tiền đền bù đó bác gửi vào ngân hàng để lấy lãi ăn dần cũng đủ cho chi tiêu hàng ngày, lúc nào có công to việc lớn thì rút ra cũng được, đỡ khỏi làm phiền các con vì chúng nó cũng đã ra ở riêng cả rồi.”(nữ, 60 tuổi, làm ruộng.) Một số hộ gia đình dùng tiền đền bù cho hoạt động mua sắm tiện nghi sinh hoạt. Điều này được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau. Bảng 4.2. Tiện nghi sinh hoạt gia đình có trước và sau năm 2003 (%) Những tiện nghi sinh hoạt Trước năm 2003 Sau năm 2003 Xe máy 47.2 71.0 Xe đạp 90.6 86.3 Ti vi 77.2 87.6 Tủ lạnh 21.1 36.5 Đầu đĩa 43.0 65.1 Loa đài 36.0 50.8 Máy vi tính 2.9 9.5 Điện thoại cố định 30.6 54.8 Điện thoại di động 12.7 29.0 Máy điều hoà 1.2 1.8 Máy giặt 3.2 7.0 Bếp gas 20.4 40.6 Lò vi sang 0.6 0.7 Ô tô 1.6 2.1 Khác 10.0 15.2 Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã Ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng5/2007) Bảng số liệu trên cho thấy ngoài xe đạp ra thì mọi tiện nghi sinh hoạt của các hộ gia đình đều tăng lên, và có những loại tăng lên rất nhiều như xe máy, đầu đĩa, loa đài, điên thoại cố định và bếp gas. Khi cuộc sống thay đổi thì nhu cầu của con người tăng lên là một điều tất yếu và điều đầu tiên họ muốn là có một cuộc sống đầy đủ hơn. Điều này được rõ khi các hộ gia đình tập trung mua sắm chủ yếu là các loại mặt hàng phục vụ cho nhu cầu đi lại và giải trí của con người. Qua đó thể hiện nhu cầu về hưởng thụ của người nông dân là rất lớn.Tiện nghi sinh hoạt được nhiều hộ gia đình chọn lựa nhất là xe máy (tăng từ 47.2% lên 71.0%), đây là loại phương tiện đi lại chủ yếu và phổ biến của người dân Việt Nam. Hiện nay, hầu hết các gia đình đều có xe máy, thậm chí nhiều nhà còn có nhiều hơn một chiếc xe máy. Loại tiện nghi sinh hoạt thứ hai cũng được nhiều hộ lựa chọn chính là loại phương tiện phục vụ cho nhu cầu thông tin, giải trí của con người như: ti vi, đầu đĩa, loa đài, điện thoại. Đây cũng chính là những vật dụng mà con người đều cần đến cho một cuộc sống năng động hơn và nó cũng chính là sự phát triển tất yếu của cuộc sống. Loại tiện nghi sinh hoạt tăng ít nhất là lò vi sóng và ô tô, hai loại vật dụng này có lẽ vẫn chưa thực sự quan trọng và nó quá xa xỉ đối với các hộ gia đình ở đây khi mà số tiền họ có được không phải do làm ra mà là số tiền đền bù do mất ruộng nên họ cũng cần phải đầu tư để tái sản xuất. “Sẵn có số tiền đền bù do mất ruộng cô bỏ ra một ít để mua cho em nó chiếc xe máy cho nó đi học vì em nó học xa nhà quá, số tiền còn lại cô chú gửi ngân hàng để đóng học dần cho em”.( nữ, 42 tuổi, nông dân) Hoạt động sử dụng tiền đền bù được ít hộ gia đình lựa chọn nhất là đầu tư cho giải trí (1%), vì đơn giản các hộ gia đình ở đây vẫn đa phần là làm nông nghiệp nên họ ít có nhu cầu giải trí, du lịch hơn so với các hộ có nghề nghiệp khác và hoạt động giải trí chỉ là một hoạt động mang tính chất vui chơi và nhiều hộ gia đình có thể thực hiện hoạt động này mà không cần sử dụng đến số tiền đền bù đó. “Mình làm nông nghiệp quanh năm thì thời gian đâu mà đi du lịch với cả giải trí, hơn nữa mình cũng đâu có tiền mà ăn chơi như vậy”. (Nữ, 40 tuổi, làm ruộng) Cho vay lãi cũng chỉ được ít ra đình lựa chọn vì đối với người nông dân đây có thể là một hoạt động mạo hiểm và mang tính rủi ro cao nên tâm lý chung của người nông dân là e ngại. Chỉ có 2.4% số hộ gia đình lựa chọn hoạt động này. “Cô thấy có tiền thì cứ gửi vào ngân hàng cho chắc chứ cho vay lãi tuy có được lãi cao hơn nhưng cũng chẳng biết thế nào được vì nhỡ họ bùng mất của mình thì mình cũng chẳng làm gì được họ, lúc ấy biết đòi ai”.(nữ, 47 tuổi, làm ruộng) Các yếu tố ảnh hưởng đến hiệu quả hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình xã Ái quốc, huyện Nam Sách, tỉnh Hải Dương Số lượng tiền đền bù. Các hộ sử dụng số tiền đó vào hoạt động nào sẽ phải căn cứ vào số lượng tiền đền bù mà gia đình mình nhận được. Bảng 5: Tương quan giữa số lượng tiền đền bù và hoạt động sử dụng tiền đền bù (%) Hoạt động Số lượng tiền đền bù <=30 triệu 31 – 60 triệu 61 – 90 triệu >=90 triệu Có Không Có Không Có Không Có Không Gửi ngân hàng 13.0 87.0 33.5 66.5 40.6 59.4 33.3 66.7 Cho vay lãi 3.5 96.5 3.1 96.9 9.4 90.6 0 100 Đầu tư sản xuất 29.7 70.3 28.9 71.1 31.3 68.7 66.7 33.3 Đầu tư giáo dục 19.9 80.1 27.3 72.7 46.9 53.1 66.7 33.3 Đầu tư kinh doanh 10.8 89.2 17.0 83.0 21.9 78.1 0 100 Mua sắm TNSH 17.4 82.6 20.6 79.4 28.1 71.9 0 100 Đầu tư CSSK 6.6 93.4 9.8 90.2 3.1 96.9 0 100 Xây nhà cửa 24.7 75.3 29.4 70.6 31.3 78.7 33.3 66.7 Đầu tư giải trí 1.6 98.4 1.5 98.5 0 100 0 100 Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã Ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng 5/2007) Các hộ nhận được số tiền đền bù khác nhau sẽ lựa chọn các hoạt động để sử dụng tiền đền bù khác nhau. Qua bảng số liệu ta thấy có sự khác biệt khá lớn trong hoạt động sử dụng tiền đền bù giữa các hộ nhận được số tiền đền bù khác nhau. Các hộ nhận được số tiền ít hơn (= 90 triệu) thì các hoạt động của họ tập trung hơn, chủ yếu là đầu tư cho giáo dục và kinh doanh (66.7%). Nhưng nhìn chung các hộ nhận được dù nhiều hay ít đều sử dụng số tiền này để đầu tư vào sản xuất, đầu tư cho giáo dục và xây nhà cửa nhưng mức độ ưu tiên của các hộ thì có khác nhau. Các hộ nhận được ít tiền (dưới 30 triệu) có xu hướng đầu tư nhiều nhất vào sản xuất cũng bởi các hộ này nhận được ít tiền nên không thể tiêu pha hoang phí được. Các hộ nhận đượckhoản tiền nhiều hơn nữa thì lại đầu tư cho hoạt động gửi ngân hàng và mua sắm tiện nghi sinh hoạt và đáng chú ý là số hộ nhận được khoản tiền từ 61 – 90 triệu đồng lại đầu tư nhiều nhất cho hoạt động kinh doanh có lẽ do hoạt động này cần số vốn bỏ ra là khá lớn nên nó cũng phù hợp với các hộ này. Các hộ gia đình nhận được số tiền trong khoảng 31 – 60 triệu thì họ lựa chọn gửi ngân hàng và xây nhà cửa là nhiều nhất, có lẽ do số tiền này cũng đủ để cho các hộ gia đình ở khu vực nông thôn xây được một ngôi nhà mới. Và khi họ không có ý định làm ăn lớn thì hoạt động gửi vào ngân hàng sẽ là một lựa chọn tôt nhất đối với họ. Đối với các hộ nhận được số tiền đền bù trong khoảng 61 – 90 triệu thì họ lại lựa chọn đầu tư cho giáo dục là nhiều hơn cả, số tiền này họ gửi vào ngân hàng để lo dần việc học hành cho con cái. “Số tiền đền bù nhận được bao nhiêu là chú gửi hết vào ngân hàng để lo cho các em học hành sau này, chứ nếu không đến lúc chúng nó học lên cao thì mình lấy tiền đâu ra mà cho chúng nó ăn học, bây giờ mình làm lặt vặt cũng đủ cho chi tiêu hàng ngày rồi nên cố chú cũng chẳng dùng đến số tiền đó”. (Nam, 45 tuổi, lao động tự do) Trình độ học vấn. Trình độ học vấn có ảnh hưởng tương đối đến hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình. Do xã Ái quốc vẫn là một xã thuần nông nên đa phần người dân ở đây có trình độ học vấn dưới trung học phổ thông. Bảng 5. Tương quan giữa trình độ học vấn và hoạt động sử dụng tiền đền bù (%) Hoạt động Dưới THPT THPT Trên THPT Gửi ngân hàng 22.6 19.8 25.0 Cho vay lãi 3.7 2.4 8.3 Đầu tư sản xuất 30.4 29.4 25.0 Đầu tư giáo dục 26.0 19.0 25.0 Đầu tư kinh doanh 14.2 14.3 5.6 Mua sắm TNSH 19.9 19.0 11.1 Đầu tư CSSK 7.9 8.7 - Xây nhà cửa 28.3 25.8 16.7 Đầu tư giải trí 1.8 8.0 - Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng5/2007). Bảng số liệu trên cho chúng ta thấy trình độ học vấn có ảnh hưởng khá lớn đến các hoạt động sử dụng tiền đền bù của các hộ gia đình. Các gia đình có trình độ học vấn khác nhau sẽ đưa ra các phương thức sử dụng số tiền đền bù khác nhau dựa trên sự so sánh, tính toán của các gia đình sao cho nó mang lại lợi ích cao nhất đối với gia đình mình. Nhưng nhìn chung các hoạt động mang tính phổ biến đối vối người dân sau khi mất đất như: Đầu tư vào sản xuất, đầu tư cho giáo dục vẫn là ưu tiên số một trong sự lựa chọn của các gia đình do diện tích đất nông nghiệp đã không còn nhiều, thậm chí là mất hết nên các hộ phải đầu tư vào sản xuất để đảm bảo ổn định cuộc sống cũng là điều dễ hiểu, khi không làm nông nghiệp nữa thì họ sẽ phải chuyển đổi ngành nghề mà với đồng vốn sẵn có do nhà nước hỗ trợ khi tiến hành trưng thu đất thì các hộ sẽ chuyển sang đầu tư vào sản xuất. Còn hoạt động đầu tư vào giáo dục, đối với người Việt Nam dù trong hoàn cảnh nào, nhu cầu về nâng cao trình độ học vấn vẫn được người dân đặc biệt quan tâm. Các gia đình đều có nhu cầu cho con cái của mình đi học để nâng cao trình độ học vấn, hơn nữa khi xã hội phát triển theo xu hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá thì vấn đề nâng cao trình độ để đáp ứng nhu cầu của xã hội là một vấn đề cần thiết. Các hộ gia đình có trình độ học vấn thấp có xu hướng lựa chọn hoạt động đầu tư vào sản xuất nhiều nhất vì trước đây họ làm nông nghiệp là chính nhưng do đất ruộng bị chuyển giao gần hết nên nhu cầu phải chuyển sang đầu tư vào sản xuất là điều không thể tránh khỏi. Các hộ này cũng lựa chọn hoạt động xây nhà cửa rất nhiều do trước đây họ làm nông nghiệp thì cũng chỉ đủ ăn chứ ít có tích luỹ mà vấn đề xây nhà cửa đối với người nông dân là một việc khó khăn nên khi nhận được số tiền đền bù họ muốn xây một ngôi nhà khang trang hơn cũng là điều dễ hiểu. Và khi đã xây được nhà thì vấn đề mua sắm tiện nghi cũng sẽ đi kèm nên có tới 19.9% số hộ lựa chọn hoạt động này. Hoạt động đầu tư giải trí được ít hộ có trình độ học vấn dưới THPT lựa chọn nhất là do chưa có nhận thức đầy đủ đối với các hoạt động vui chơi giải trí, họ cho rằng đây là hoạt động vui chơi của những người giàu có chứ những hộ làm nông nghiệp thì lấy thời gian đâu mà vui chơi và họ cũng không có nhu cầu cao trong hoạt động này. “Có tiền đền bù do mất ruộng, chú cứ muốn mua cái xe máy để đi lại cho tiện, nhưng cô thì muốn gửi vào ngân hàng vì mua xe máy cũng gần hết tiền rồi thì sau này biết lấy gì mà tiêu”.(nữ, 45 tuổi, làm ruộng, THCS). Các hộ có trình độ học vấn THPT cũng lựa chọn lĩnh vực đầu tư vào sản xuất và xây nhà cửa nhiều nhất do các hộ này cũng nhận thức được đầy đủ về vấn đề chuyển giao đất và điều tất yếu là họ phải đầu tư vào để tái sản xuất, còn vấn đề xây nhà cửa sau khi nhận được tiền đền bù là xu thế tất yếu của các hộ gia đình, nó đáp ứng được nhu cầu của người dân là có một ngôi nhà khang trang để ở. Đáng chú ý nhất đối với các hộ gia đình này là sự lựa chọn hoạt động đầu tư vào lĩnh vực giải trí (8%), do họ đã có sự nhận thức cao hơn các hộ kia. Giải trí là một nhu cầu khá mới mẻ đối vối người dân ở một địa bàn thuần nông khi mà quanh năm chỉ biết đến ruộng đồng, nhưng do không còn đất sản xuất nên họ cũng có nhiều thời gian rảnh rỗi hơn nên những hộ có trình độ học vấn cao hơn lựa chọn loại hình hoạt động này cũng là điều dễ hiểu. Nó cũng phù hợp với xu thế phát triển chung của xã hội trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá. “Bây giờ mất gần hết ruộng, có thời gian dỗi nhiều hơn, nên cô chú chuyển sang đầu tư thêm vào chăn nuôi, ý định chăn nuôi lớn chú muốn làm từ trước kia rồi nhưng do thiếu vốn nên không thực hiện được. Có số tiền đền bù mất ruộng thì chú mới chuyển chứ còn vay vốn thì chẳng vay được là bao mà thủ tục lại rườm rà lắm.”(nam, 47 tuổi, làm ruộng). Đối với các hộ có trình độ học vấn trên THPT, họ lại lựa chọn hoạt động gửi ngân hàng, đầu tư cho giáo dục và đầu tư cho kinh doanh là chính. “Trước đây quán của chú chỉ có 15 máy thôi nhưng do có vốn làm ăn và anh con trai chú đã tốt nghiệp đại học nên anh ấy về quản lý quán và chú đã đầu tư thêm 15 máy nữa, hiện tại quán của chú có 30 máy và lúc nào cũng kín khách vì mỗi khi máy trục trặc thì anh ấy sửa được ngay và khách hàng không bị ảnh hưởng gì lắm” (Nam, 51 tuổi, lao động tự do) Gửi vào ngân hàng được nhiều gia đình lựa chọn do họ ít bị vướng mắc về các quy tắc, thủ tục như các hộ gia đình khác. Các hộ này đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh do họ có sự am hiểu về kinh doanh nên khá thuận lợi đối với các hộ này. Các hộ này không lựa chọn hình thức đầu tư chăm sóc sức khoẻ do họ không quá lo lắng về vấn đề này như các hộ khác và cũng chịu ảnh hưởng bởi thu nhập nên họ không quá bận tâm đến vấn đề này để mà dùng tiền đầu tư. Còn đối với lĩnh vực giải trí thì có lẽ không phải do những hộ này không có nhu cầu mà do họ không sử dụng tiền đền bù cho hoạt động này, những hộ này vẫn có thể tham gia các hoạt động vui chơi giải trí mà không cần phải chi ra số tiền từ khoản tiền đền bù. “Sẵn có tiền đền bù, cô đầu tư vào xây quán để kinh doanh mặt hàng ăn uống và nhà trọ này vì khu công nghiệp mở ra là có nhiều công nhân từ nơi khác đến lắm nên nhu cầu cần nhà ở là rất cao, mình sẵn có diện tích mặt đường phải tận dụng chứ.”( nữ 35 tuổi, buôn bán.) Yếu tố tuổi Người sử dụng tiền đền bù đa phần thuộc độ tuổi từ 35 –55 tuổi, giữa các độ tuổi khác nhau thì hoạt động và hiệu quả sử dụng tiền đền bù là khác nhau. Bảng 9: Tương quan giữa tuổi của người được hỏi với hoạt động sử dụng tiền đền bù. <=35 36 - 45 46 - 55 >55 Tổng Gửi ngân hàng 10.8 40.0 36.7 12.5 100.0 Cho vay lãi 10.0 45.0 35 10.0 100.0 Đầu tư sản xuất 17.9 40.7 34.6 6.8 100.0 Đầu tư giáo dục 10.5 35.3 43.6 10.5 100.0 Đầu tư kinh doanh 20.3 37.8 33.8 8.1 100.0 Mua sắm TNSH 15.4 34.6 31.7 18.3 100.0 Đầu tư CSSK 14.6 39.0 26.8 19.5 100.0 Xây nhà cửa 19.2 32.9 30.8 17.1 100.0 Đầu tư giải trí 62.5 12.5 25.0 0 100.0 Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng5/2007) Các hộ thuộc nhóm tuổi ít hơn thì có đầu tư vào sản xuất, kinh doanh, giải trí, những hộ có nhóm tuổi cao hơn thì lựa chọn hình thức đầu tư vào sản xuất, giáo dục còn những hộ thuộc nhóm tuổi cao nhất lại lựa chọn hình thức gửi vào ngân hàng và đầu tư vào chăm sóc sức khoẻ. Nguyên nhân khiến các hộ gia đình thuộc nhóm tuổi <=35 tuổi đầu tư vào lĩnh vực kinh doanh là do họ còn trẻ, năng động, có hiểu biết và dám làm ăn lớn nên họ có nhu cầu rất lớn trong lĩnh vực này và khi có vốn thì tất nhiên là họ sẽ đầu tư cho kinh doanh. Còn hoạt động giải trí lại được nhiều hộ lựa chọn do đây là những hộ gia đình có tuổi đời còn rất trẻ, họ chưa có nhiều vấn đề phải quan tâm, vướng bận nên họ lựa chọn nhu cầu giải trí là điều dễ hiểu và nó phù hợp với xu thế phát triển của xã hội hiện nay. Đối với các gia đình thuộc nhóm tuổi từ 36 đến 45 thì họ lại lựa chọn hoạt động cho vay lãi (45.0%), và đầu tư vào sản xuất (40.7%) do các hộ này đa phần là làm nông nghiệp nhưng do đất bị chuyển giao nên họ cần đầu tư vào sản xuất là điều tất nhiên, các hộ này ít lựa chọn hoạt động giải trí (12.5%) do họ ít có nhu cầu vui chơi, giải trí hơn các hộ còn lại, họ lo làm ăn nên ít có cơ hội tham gia vào hoạt động này và họ cũng không có nhu cầu cao như các gia đình có độ tuổi thấp hơn. Nhóm các gia đình có độ tuổi từ 46 – 55tuổi lại lựa chọn hình thức đầu tư cho giáo dục là chiếm ưu thế (43.6%), do các hộ này đã có con trong độ tuổi đi học và học cao nên chi phi cho con cái học hành chiếm khá nhiều, vì vậy họ lựa chọn loại hình này. Những hộ này cũng ít có xu hướng lựa chọn hình thức giải trí do họ cảm thấy không có nhu cầu lớn và nhận thức chưa đầy đủ về lĩnh vực này. “Nhà cô có 3 đứa còn đi học nên tốn kém lắm, có làm được chút ít thì chỉ để dành để lo tiền học cho các em thôi, cô chú cũng bận quanh năm thì lấy thời gian đâu mà đi du lịch với giải trí, cái đó chỉ dành cho những người giàu có thôi chứ nông dân như mình thì lấy tiền đâu ra mà đi du lịch.” ( Nữ, 46 tuổi, buôn bán nhỏ) Đối với các hộ từ 55 tuổi trở nên thì họ lựa chọn hình thức đầu tư cho chăm sóc sức khoẻ và gửi ngân hàng là nhiều nhất do họ ở độ tuổi cao hơn và con cái cũng đã xây dựng gia đình riêng nên họ cũng cần có chút ít đồng vốn để đề phòng lúc ốm đau nên họ lựa chọn hai phương pháp trên cũng là một sự lựa chọn tối ưu. “Nhà có hai ông bà già thì chỉ gửi tiền vào ngân hàng để đề phòng lúc ốm đau đỡ khỏi phiền đến con cái vì chúng nó cũng phải lo cho gia đình nó mà, mới cả nhiều tuổi rồi cũng chẳng biết buôn bán gì nên chúng tôi cứ gửi vào ngân hàng cho chắc ăn mà hàng tháng lại có tiền lãi cũng đủ cho sinh hoạt của hai ông bà già.” (Nam, 68tuổi, về hưu) Nghề nghiệp chính của hộ gia đình Bảng 6: Tương quan giữa nghề nghiệp chính của hộ gia đình với hoạt động sử dụng tiền đền bù. Hoạt động Nghề nghiệp chính của hộ Nông nghiệp Thủ công nghiệp Buôn bán nhỏ Cán bộ, viên chức Công nhân Lao động tự do Khác Gửi ngân hàng 30.9 2.5 8.3 9.2 10.8 20.0 18.3 Cho vay lãi 55.0 0 10.0 0 0 15.0 20.0 Đầu tư sản xuất 57.4 1.2 15.4 1.9 3.7 9.3 10.5 Đầu tư giáo dục 45.8 3.0 10.5 5.3 3.8 17.3 13.5 Đầu tư kinh doanh 25.7 2.7 27.0 5.4 8.1 14.9 16.2 Mua sắm TNSH 41.4 1.0 13.5 8.7 12.5 11.5 10.6 Đầu tư CSSK 39.0 0 7.3 4.9 9.8 19.5 19.5 Xây nhà cửa 33.6 0.7 8.9 5.5 13.7 17.1 20.5 Đầu tư giải trí 37.5 12.5 12.5 12.5 12.5 12.5 0 Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng5/2007) Bảng số liệu trên cho thấy mối liên hệ phụ thuộc giữa nghề nghiệp của các hộ với các hoạt động sử dụng tiền đền bù. Các hộ làm nông nghiệp có các hoạt động phong phú nhất do họ là những hộ bị mất đất nông nghiệp nhiều nhất cho xây dựng khu công nghiệp, do vậy họ cũng nhận được nhiều tiền đền bù nhất. Những hộ gia đình làm nông nghiệp có sự lựa chọn hoạt động đầu tư sản xuất cao nhất có lẽ do họ đã bị mất đất nên họ cần phải đầu tư vào sản xuất để ổn định cuộc sống. “Mất đất thì nông dân vẫn là những người chịu nhiều thiệt thòi nhất vì cháu tính xem tuổi như các cô bây giờ ngoài làm ruộng ra thì còn biết làm gì đâu, xin vào khu công nghiệp ở đây thì vừa quá tuổi, vừa không có trình độ thì ai người ta nhận, thế nên chỉ biết đầu tư vào chăn nuôi thêm thôi.” (nữ, 47 tuổi, làm ruộng.) Các hộ gia đình này cũng lựa chọn hình thức cho vay lãi nhiều hơn là gửi ngân hàng cũng bởi do tâm lý người nông dân vẫn còn chưa am hiểu về loại hình này và họ cho vay lãi thì không cần đến quá nhiều thủ tục như gửi ngân hàng. Đối với các hộ tiểu thủ công nghiệp, họ lựa chọn loại hình đầu tư giải trí nhiều hơn cũng bởi họ có nhiều thời gian dỗi hơn so với các hộ khác và cũng bơỉ họ đã có nguồn thu nhập ổn định nên họ có thể tận dụng số tiền này để vui chơi, giải trí. Đối với các hộ gia đình buôn bán nhỏ thì đầu tư vào kinh doanh sẽ là ưu tiên số một do họ đã có sẵn những kiến thức và kinh nghiệm về kinh doanh, có chăng chỉ là mở rộng hơn do nhu cầu của các khu công nghiệp. “Bây giờ xây khu công nghiệp nên các hoạt động buôn bán cũng phát triển hơn trước, giờ cô mở rộng buôn bán thêm nhiều mặt hàng mà vẫn bán chạy lắm chứ chẳng như trước đây đâu.” (nữ, 39 tuổi, buôn bán nhỏ) Các hộ cán bộ, viên chức và công nhân cũng lựa chọn hoạt động đầu tư vào giải trí khá cao do cuộc sống của họ có phần dư dả hơn so với các hộ nông nghiệp và số tiền họ nhận được do trưng thu đất cũng ít hơn các hộ còn lại, họ lại có nghề nghiệp ổn định nên họ có tiêu cho hoạt động giải trí cũng là để đáp ứng những nhu cầu về tinh thần của họ tốt hơn. 2.3.5.Giới tính Giới tính có sự ảnh hưởng nhất định đối với sự lựa chọn hoạt động sử dụng tiền đền bù. Mặc dù đã có sự bàn bạc trong gia đình nhưng việc đưa ra ý kiến giữa giới nam và nữ là khác nhau. Bảng 8: Tương quan giữa giới tính của hộ với hoạt động sử dụng tiền đền bù. Hoạt động Giới tính Nữ Nam Tổng Gửi ngân hàng 60.8 39.2 100 Cho vay lãi 50.0 50.0 100 Đầu tư sản xuất 48.8 51.2 100 Đầu tư giáo dục 47.4 52.6 100 Đầu tư kinh doanh 45.9 54.1 100 Mua sắm TNSH 56.7 43.3 100 Đầu tư CSSK 63.4 36.6 100 Xây nhà cửa 57.5 42.5 100 Đầu tư giải trí 50.0 50.0 100 Nguồn: Số liệu thực tập K49_XHH tại xã Ái quốc, huyện Nam Sách, Hải Dương (tháng5/2007) Qua k

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXHH20 (1).doc