Trên cơ sở số liệu về huy động vốn và cho vay chúng ta nhận thấy rằng giữa nguồn vốn huy động và doanh số cho vay có sự chênh lệch lớn, phải chăng ngân hàng đã rơi vào tình trạng ứ đọng vốn.Tình hình thực tế cho thấy hiện nay trong nền kinh tế lượng ngoại tệ đang còn thiếu nhiều bởi tỷ giá giữa đồng USD và đồng VND đang ở mức tương đối cao.Trong trường hợp không cho vay hết thì cho Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương vay để từ đó Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương cho các chi nhánh khác trong hệ thống vay.
60 trang |
Chia sẻ: maiphuongdc | Lượt xem: 2443 | Lượt tải: 2
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Đề tài Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ần đây:
2.2.1 Tình hình sử dụng vốn huy động:
Tại phòng giao dich nhno&ptnt chi nhánh Bách Khoa hàng ngày hàng giờ đang diễn ra các hoạt động kinh doanh đa dạng và phong phú. Căn cứ vào các kết quả thu được ta thấy rằng hoạt động tín dụng là hoạt động cơ bản tại phòng và có vị trí hết sức quan trọng. Và để hoạt động tín dụng đem lại kết quả cao thì cần phải thực hiện tốt đồng thời các nghiệp vụ .
- Các nghiệp vụ bên nợ (huy động vốn)
- Các nghiệp vụ bên có (sử dụng vốn)
- Các nghiệp vụ trung gian (chuyển tiền thanh toán)
Chính vì vậy mà huy động vốn không phải là một hoạt động độc lập riêng rẽ, có huy động được vốn thì mới có vốn cho vay ngược lại cho vay có hiệu quả kinh tế phát triển thì mới có nguồn vốn lớn để huy động đồng thời có làm tốt nghiệp vụ trung gian thì hai nghiệp vụ trên mới được thực hiện tốt. Như vậy cả ba nghiệp vụ này tác động qua lại, ảnh hưởng lẫn nhau và hỗ trợ nhau cùng phát triển. Nói cách khác ngân hàng phải thực hiện chiến lược kinh doanh tổng hợp mà trong đó nghiệp vụ huy động vốn phải được chú trọng để kết hợp cùng hai nghiệp vụ còn lại tạo nên hiệu quả hoạt đông của ngân hàng.
Hiện nay trong cơ chế thị trường, các Ngân hàng thương mại đều hoạt động kinh doanh theo hướng “đi vay để cho vay” không sử dụng đến nguồn cấp phát mà huy động vốn theo hướng có lợi trong kinh doanh.
Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình huy động vốn tại phòng giao dịch nhno &ptnt chi nhánh Bách Khoa trong thời gian qua.
Bảng 1: Biến động nguồn vốn huy động giai đoạn 2006-2008
Đơn vị :Triệu đồng
Năm
Chỉ tiêu
2006
2007
2008
+/-tuyệt đối
2007-2006
+/-tương đối % 2007-2006
+/-tương đối % 2008-2007
+/-tương đối
2008-2007
Không kỳ hạn
81309
126950
123378
45641
+56%
-3572
-2,8%
Có kỳ hạn
163675
365103
417520
201420
+123%
52417
+14,4%
Tổng
244984
492053
540898
(Nguồn:Bảng cân đối kế toán)
Qua số liệu Bảng 1 cho ta thấy nguồn vốn huy động tại phòng giao dịch tăng nhanh qua các năm đặc biệt là từ năm 2006 đến 2007 thì tiền gửi không kỳ hạn tăng lên 56%, tiền gửi có kỳ hạn tăng 123%. Sang năm 2008 mặc dù nguồn vốn huy động không kỳ hạn có giảm nhưng không đáng kể còn nguồn vốn có kỳ hạn vẫn tiếp tục tăng điều đó chứng tỏ rằng trong những năm qua phòng giao dich đã có nhiều cố gắng và đưa ra những biện pháp tích cực năng động, sáng tạo để thu hút khách hàng mở tài khoản tiền gửi cũng như gửi tiền tiết kiệm, phục vụ khách hàng với thái độ văn minh, lịch sự có, trách nhiệm, đơn giản các thủ tục rườm rà không cần thiết. Kết quả cho thấy phòng giao dịch đã đạt được những thanh công nhất định.
Mặt khác ta thấy rằng nguồn vốn huy động có kỳ hạn luôn luôn tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn trong tổng nguồn vốn huy động cụ thể là :
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2006 chiếm tỉ lệ là 67%.
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2007 chiếm tỉ lệ là 74%.
- Nguồn vốn kỳ hạn năm 2008 chiếm tỉ lệ là 77%.
Để đứng vững và phát triển trong nền kinh tế đầy cạnh tranh như hiện nay các ngân hàng buộc phải xây dựng cho mình chiến lược kinh doanh một cách hợp lý và phòng giao dịch cũng vậy. Phòng giao dịch luôn luôn quan tâm tới vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng. Trên cơ sở nguồn vốn huy động được Sở tiến hành phân phối sử dụng vốn sao cho có hiệu quả bởi cho vay là khâu tiếp nối của hoạt động tạo vốn và là khâu cuối cùng quyết định chất lượng hiệu quả tín dụng.
Bên cạnh đó chúng ta biết rằng huy động vốn và sử dụng vốn là hai mặt của một quá trình hoạt động tín dụng vì vậy vấn đề cho vay vốn cần phải được chú trọng, quan tâm, làm sao vừa đáp ứng đựoc nhu cầu sản xuất kinh doanh, vừa mang lại hiệu quả kinh tế, không chỉ cho bản thân phòng giao dịch mà còn cho cả nền kinh tế.
Đối tượng cho vay tại phòng giao dịch là các doanh nghiệp nhà nước, công ty trách nhiệm hữu hạn, công ty tư nhân, hộ gia đình, cá nhân so.Việc cho vay của phòng giao dịch đã có tác dụng tích cực giúp cho các doanh nghiệp phát triển được sản xuất kinh doanh, tăng thu ngân sách góp phần đấu tranh hạn chế cho vay nặng lãi .
Phòng giao dịch chủ động trong việc sử dụng vốn vay có tính đến nhu cầu và khả năng thực tế của từng đơn vị, phân loại doanh nghiệp, cho vay có chọn lọc và thường xuyên quan tâm tới công tác thu nợ nhằm tăng nhanh vòng quay vốn tín dụng.
Thực chất vấn đề cho vay vốn của ngân hàng được đánh giá tốt hay xấu không phải căn cứ vào số dư nợ cho vay có tăng hơn không mà phải xem xét chất lượng tín dụng như thế nào có nghĩa là phải xem xét vốn mà ngân hàng cho vay có đúng mục đích hay không, khách hàng có trả được nợ hay không và trả nợ có đúng hạn không. Vì vậy việc đánh giá tình hình sử dụng vốn vay của ngân hàng phải được xem xét trên các chỉ tiêu như : tình hình cho vay, thu nợ, nợ quá hạn...và các biện pháp nhằm mở rộng tín dụng tại ngân hàng.
Sau đây là số liệu cụ thể về tình hình tín dụng vốn tại ngân hàng:
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008)
2008
2007
2006
Tổng dư nợ
Tổng doanh số thu nợ
vay
Tổng doanh số cho
250
200
150
50
0
183
230
223
208
116
164
160
97
52
Biểu đồ so sánh các chỉ tiêu sử dụng vốn qua các năm
Đơn vị: Tỷ đồng
100
nNcáo tổng kết năm 1999,2000,2001)
Nhìn vào bảng trên ta thấy:
Nhìn vào bảng trên ta thấy
- Số tiền cho vay tại SGD qua các năm 2006, 2007, 2008 có tăng lên đáng kể.
- Năm 2007 tăng so với 2006 là 112 tỷ đồng tương đương với 215%
- Năm 2008 tăng so với năm 2007 là 59 tỷ đổng tương đương với 35%
Như vậy ta thấy rằng khách hàng đến giao dịch tại phòng ngày càng tăng lên chứng tỏ bằng sự cố gắng của Ban lãnh đạo, cán bộ công nhân viên trong thời gian qua Sở đã thu hút đựoc nhiều khách hàng, bằng phương pháp nghiệp vụ và thái độ làm việc của ngân hàng đã tạo được uy tín trên thị trường đầy cạnh tranh như hiện nay.
Về công tác thu nợ :
- Năm 2006 doanh số thu nợ bằng 186% doanh số cho vay.
- Năm 2007 doanh số thu nợ bằng 71% doanh số cho vay
- Năm 2008 doanh số thu nợ bằng 103% doanh số cho vay
Doanh số thu nợ năm 1996 tương đối cao, nhưng sang năm 2007 thì có giảm đi về số tương đối, nguyên nhân ở đây có thể là do sự biến động về tình hình chính trị, xã hội của đất nước và trong khu vực đã ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của ngân hàng.
Sang năm 2008 với sự làm việc hết mình các cán bộ nhân viên trong công tác kiểm tra đôn đốc tình hình thu nợ và sự lãnh đạo sáng suốt của Ban giám đốc doanh số thu nợ đã tăng lên bằng 103% so với doanh số cho vay.
Đối với dư nợ có tăng lên so với các năm nhìn vào bảng trên ta thấy dư nợ năm 2008 là 183 tỷ đồng mà lẽ ra phải là 201 tỷ đồng song do đến ngày 31/12/2008 phòng giao dịch đã điều chỉnh sang tài khoản nợ khoanh số tiền là 18 tỷ của các doanh nghiệp nhà nước do làm ăn thua lỗ
Trên cơ sở số liệu về huy động vốn và cho vay chúng ta nhận thấy rằng giữa nguồn vốn huy động và doanh số cho vay có sự chênh lệch lớn, phải chăng ngân hàng đã rơi vào tình trạng ứ đọng vốn.Tình hình thực tế cho thấy hiện nay trong nền kinh tế lượng ngoại tệ đang còn thiếu nhiều bởi tỷ giá giữa đồng USD và đồng VND đang ở mức tương đối cao.Trong trường hợp không cho vay hết thì cho Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương vay để từ đó Ngân hàng Nông nghiệp Trung ương cho các chi nhánh khác trong hệ thống vay.
* Tình hình cho vay thu nợ dư nợ theo thành phần kinh tế
Bảng 2:
Bảng sử dụng vốn của phòng Giao Dịch theo thành phần kinh tế qui về VND
Đơn vị: Tỷ đồng
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng số cho vay
52
100%
164
100%
223
100%
Doanh nghiệp nhà nước
36
69%
139
85%
211
95%
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
16
31%
25
15%
12
5%
Doanh số thu nợ
97
100%
116
100%
230
100%
Doanh nghiệp nhà nước
72
74%
101
87%
213
93%
Doanh nghiệp ngoài quốc doanh
25
26%
15
13%
17
7%
Dư nợ
160
100%
208
100%
183
(18)
100%
Doanh nghiệp nhà nước
138
86%
176
84%
156
(18)
85%
Doanh nghiệp ngoài
quốc doanh
22
14%
32
15,4%
27
15%
(Nguồn: Sổ thống kê số liệu lịch sử, báo cáo tín dụng năm 2008)
Nhìn vào số liệu Bảng 2 ta thấy doanh số cho vay đối với doanh nghiệp nhà nước chiếm tỷ trọng cao trong doanh số cho vay của Sở, bao giờ cũng là 70% hoặc là hơn 70%. Nguyên nhân ở đây là do hầu hết khách hàng của Sở là doanh nghiệp nhà nước, nhiều doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả nên có nhu cầu tín dụng cao và có uy tín với ngân hàng. Mặt khác có thể là do nhà nước không thực hiện cơ chế thế chấp tài sản đối với doanh nghiệp nhà nước nên việc đầu tư có thuận lợi hơn. Ngoài ra nguyên nhân làm cho doanh số cho vay ngoài quốc doanh giảm là do cơ chế cho vay đối với thành phần kinh tế này tương đối chặt chẽ về thủ tục thế chấp bảo lãnh vay vốn, việc phát mại tài sản thế chấp gặp nhiều khó khăn.Tính đến năm 2008 phòng có quan hệ với 9 đơn vị ngoài quốc doanh nhưng trong đó là 6 doanh nghiệp là công ty trách nhiệm hữu hạn,doanh nghiệp tư nhân bị đình đốn, tình hình tài chính yếu kém, vấn đề trả nợ rất khó khăn. Do vậy hiện nay ngân hàng đang tiếp tục chú trọng tập trung thu nợ của các đơn vị này.
* Tình hình cho vay dư nơ phân theo ngoại tệ và nội tệ
Bảng 3 : Bảng doanh số cho vay dư nợ phân theo ngoại tệ và nội tệ
Đơn vị: Tỷ đồng
Năm
2006
2007
2008
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Số tiền
Tỷ trọng
Tổng cho vay
52
100%
164
100%
223
100%
Nội tệ
0
49
30%
169
76%
Ngoại tệ
52
100%
115
70%
54
24%
Tổng dư nợ
160
100%
208
100%
183
100%
Nội tệ
0
48
23%
66
36%
Ngoại tệ
160
100%
160
77%
117
64%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008)
Theo số liệu trên thì năm 2008 phòng giao dịch hầu hết chỉ thực hiện cho vay ngắn hạn để đáp ứng nhu cầu sản xuất kinh doanh như: Nguyên vật liệu trong năm... Với doanh số thu nợ ngắn hạn chiếm tỷ lệ cao trong doanh số thu nợ điều đó chứng tỏ công tác cho vay ngắn hạn trong năm 2008 nói riêng và chất lượng tín dụng nói chung là khá hiệu quả, sự thành công này nhờ vào sự cố gắng của cán bộ tín dụng, các phòng ban và sự chỉ đạo của Ban giám đốc.
Tuy nhiên trong quá trình đầu tư tín dụng rủi ro luôn luôn làm các nhà ngân hàng đau đầu và tại phòng giao dịch cũng vậy mặc dù việc đôn đốc thu lãi, gốc được thực hiện thường xuyên song vẫn còn tồn tại tình trạng nợ quá hạn.
2.2.2 Các chỉ tiêu phản ánh chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa
Bảng 4:tình hình nợ quá nợ quá hạn qua các năm
Chỉ tiêu
Năm 2006
Năm 2007
Năm 2008
Tổng dư nợ
160
208
183
Tổng nợ quá hạn
49
48
39,7
Tỷ trọng nợ quá hạn/Tổng dư nợ
31%
23%
21,7%
(Nguồn: Báo cáo tổng kết năm 2006,2007,2008)
Số liệu Bảng 4 thể hiện nợ quá hạn tại ngân hàng trong thời gian gần đây có xu hướng giảm xuống. Cụ thể: Năm 2007 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 23% tổng dư nợ giảm 8% so với năm 2006, sang năm 2008 nợ quá hạn chiếm tỷ trọng 21,7% tổng dư nợ giảm 1,3% so với năm 2007.
Tuy nhiên con số này vẫn còn rất cao so với mức cho phép và ảnh hưởng không nhỏ tới chất lượng tín dụng vì vậy ngân hàng cần phải tự kiểm điểm xem xét lại để thấy rõ những thiếu sót của mình trong quá trình cho vay để từ đó có những giải pháp chấn chỉnh nhằm đưa hoạt động tín dụng ngày một hiệu quả và an toàn.
Biểu đồ nợ quá hạn phân theo thời gian cho vay
21.6
20
15.7
27.4
28
24
0
5
10
15
20
25
30
2006
2007
2008
ngắn hạn
Trung hạn,
dài hạn
Đơn vị: tỷ đồng
Nhìn vào Biểu đồ trên cho ta thấy nợ quá hạn năm 2007 gần tương đương với năm 2006 nhưng sang năm 2008 thì số nợ quá hạn giảm đi đáng kể so với 2007 cụ thể là:
- Nợ quá hạn ngắn hạn giảm 4,3 tỷ đồng
Nợ quá hạn trung, dài hạn giảm 4 tỷ đồng
Ơ đây nợ quá hạn thu hồi được trong năm 2008 chủ yếu là các khoản dư nợ quá hạn từ năm 2007 trở về trước bởi mặc dù năm 2007 dư nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó dư nợ quá hạn của các khoản vay từ năm 2007 trở về trước là 39,4 tỷ còn dư nợ quá hạn của các khoản vay năm 2008 chỉ là 0,3 tỷ đồng. Điều đó chứng tỏ công tác thu hồi nợ quá hạn từ năm 2007 về trước là khá hiệu quả đồng thời theo phân tích trên thì năm 2008 Sở chủ yếu thực hiện cho vay ngắn hạn và dư nợ quá hạn thuộc các khoản vay năm 2008 chỉ là 0,3 tỷ chứng tỏ hoạt động cho vay trong năm đã thực sự có chất lượng.
Ngoài ra công tác thu nợ quá hạn năm 2008 tại phòng giao dịch đã đạt được một số kết quả là tổng số thu nợ quá hạn 21412 triệu đồng
Kết cấu nợ quá hạn theo thành phần kinh tế
27.8
31
24.7
21.2
17
15
0
5
10
15
20
25
30
35
2006
2007
2008
Kinh tế quốc
doanh
Kinh tế ngoài
quốc doanh
Đơn vị: tỷ đồng
Nhìn vào biểu trên ta thấy trong thời gian qua nợ quá hạn tại các doanh
nghiệp quốc doanh chiếm tỷ lệ cao trong tổng nợ quá hạn :
- Năm 2006 chiếm 56,7 % tổng nợ quá hạn.
- Năm 2007 chiếm 64.6 % tổng nợ quá hạn.
- Năm 2008 chiếm 62,2 % tổng nợ quá hạn.
Mặc dù các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có một tỷ lệ nợ quá hạn thấp hơn so với các doanh nghiệp nhà nước. Song hoạt động của thành phần kinh tế này vẫn chưa thực sự hiệu quả bởi doanh số cho vay thấp hơn rất nhiều so với kinh tế quốc doanh. Mặt khác tỷ lệ nợ quá hạn tại phòng giao dịch cao song chúng ta cần xét đến khả năng thu hồi của các khoản nợ quá hạn như thế nào.
Bảng 5 :Phân loại nợ quá hạn theo khả năng thu hồi vào thời điểm 31/12/2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Tổng dư nợ quá hạn
GTTS đẫ xiết nợ nhưng chưa hạch toán giảm nợ
Dư nợ quá hạn đã xiết nợ bằng tài sản
Theo khả năng thu hồi
Dư nợ quá hạn bình thường
Nợ quá hạn có vấn đề
Nợ quá hạn khó thu hồi
Dư nợ ngắn hạn quá hạn
15.700
1230
480
13990
Dư nợ dài hạn quá hạn
24000
9400
7810
6790
Tổng
39700
10630
8290
20780
(Nguồn:Sổ thống kê số liệu lịch sử)
Theo số liệu bảng 7 cho ta thấy hiện nay tại phòng giao dịch có khoản nợ quá hạn là 39,7 tỷ đồng nhưng trong đó nợ quá hạn khó đòi là 20,78 tỷ đồng chiếm tỷ trọng 52,3% tổng nợ quá hạn năm 2008. Đây là một kết quả không tốt bởi khi đã trở thành nợ quá hạn khó thu hồi thì khả năng đòi được vốn của ngân hàng là rất khó nó sẽ ảnh đến chất lượng công tác tín dụng của ngân hàng và kết quả kinh doanh trong thời gian tới .
Bên cạnh đó ta thấy rằng khoản nợ quá hạn bình thưòng và nợ quá hạn có vấn đề là 18,92 tỷ chiếm tỷ trọng 47,7% tổng nợ quá hạn .Để có thể thu hồi được những khoản nợ này cán bộ ngân hàng đặc biệt là cán bộ tín dụng cần phải tích cực trong việc đôn đốc, quản lý tốt quá trình thu nợ bởi các khoản nợ quá hạn có khả năng thu hồi tất dễ trở thành những khoản nợ quá hạn không có khả năng thu hồi.
- Ngoài khoản nợ quá hạn 39,7 tỷ đồng thống kê trên phòng giao dịch còn có một khoản nợ quá hạn cho vay khác là 142,337 tỷ đồng trong đó có 22,296 tỷ đồng đã đựơc xiết nợ bằng tài sản còn lại là 120,041 tỷ đồng đã đựơc khoahh.
Bảng 6: Phân tích nợ quá hạn theo nguyên nhân vào thời điểm 31/12/2008
Đơn vị: Triệu đồng
Chỉ tiêu
Tổng số tiền
Ngắn hạn
Trung,dài hạn
Cho vay khác
I-Nguyên nhân chủ quan
II-Nguyên nhân khách quan
182037
15700
24000
142337
1-Do bất khả khángvà cơ chế chính sách
+ Do thiên tai định hoạ
+ Do xắp xếp lại DN, giải thể DN
+Do thay đổi cơ chế chính sách
47660
11220
36440
9458
9458
17552
17552
20650
11220
9430
2- Do DN, khách hàng của ngân hàng
133506
5864
5955
121687
+ Do kinh doanh thua lỗ
+ Do sử dụng vốn không đúng mục đích
+ Do khách hàng vay có chủ ý lừa đảo
130702
2804
5864
5955
118883
2804
3- Nguyên nhân khác
871
378
493
(Nguồn: Sổ tổng kết số liệu lịch sử)
Theo số liệu Bảng 6 ta thấy nợ quá hạn phát sinh chủ yếu là do sự kinh doanh thua lỗ của các doanh nghiệp. Chúng ta sẽ phân tích cụ thể ở phần sau.
Sau đây là một số đánh giá khái quát về những kết quả đạt đựơc cũng như những tồn tại trong 3 năm qua.
2.3 Đánh giá chất lượng tín dụng tại phòng giao dịch NHNo&PTNT chi nhánh Bách Khoa:
2.3.1 Những thành tựu đạt được:
Thực hiện chủ trương của chính phủ là xoá hình thức bao cấp. Phòng giao dịch đã phát huy năng lực của mình vượt qua khó khăn thử thách do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng tài chính khu vực, nhanh chóng hoà nhập với thị trường để tồn tại, đứng vững và ngày càng phát triển phục vụ tốt cho nhu cầu của xã hội góp phần tăng trưởng kinh tế.
Trong điều kiện nước ta hiện nay đang trên đường tiến lên chủ nghĩa xã hội, từng bước hoà nhập vào nền kinh tế trong khu vực, nhà nước ta đã và đang có những đổi mới trong cơ chế quản lý điều hành đất nước. Phòng giao dịch cũng đã có những định hướng chiến lược kinh doanh đúng đắn, phù hợp với chính sách của Đảng và Nhà nước về mọi mặt kinh doanh nói chung và công tác tín dụng nói riêng.Trên cơ sở những định hướng đó phòng giao dịch đã không ngừng đổi mới về mô hình tổ chức pháp lý, qui chế nghiệp vụ... Đáp ứng kịp thời và đầy đủ nhu cầu ngày càng cao của xã hội, nâng cao chất lượng công tác tín dụng.
Trong những năm qua bằng sự cố gắng của mình phòng giao dịch đã cung vốn cho các doanh nghiệp trong quá trình sản xuất kinh doanh như : Đáp ứng kịp thời nhu cầu vay ngắn hạn để mua vốn lưu động tại một số doanh nghiệp, cung cấp vốn để các doanh nghiệp đổi mới công nghệ trang thiết bị, tài trợ xuất nhập khẩu, thực hiện cho vay theo chỉ định của chính phủ đặc biệt là ngân hàng đã thực hiện cho vay đối với các doanh nghiệp nhà nước kinh doanh trong lĩnh vực nông nghiệp:Công ty tổng hợp Hà Anh, Công ty Sản Xuất Kinh Doanh Hàng Nhập Khẩu đây là 2 công ty chuyên nhập khẩu phân bón phục vụ sản xuất nông nghiệp. Vì vậy trong thời gian qua phòng giao dịch đã thực sự trở thành bạn hàng của các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Với chính sách khách hàng ngân hàng xác định mọi hoạt động của ngân hàng khởi đầu từ khách hàng, lấy hiệu quả sản xuất kinh doanh làm mục tiêu hoạt động của mình, tạo thuận lợi cho khách hàng trong việc lập hồ sơ tín dụng theo đúng qui định, tạo điều kiện cho khách hàng sớm hoàn thành thủ tục xin vay, thực hiện phương thức giao dịch đơn giản, nhanh chóng, gọn nhẹ nhằm thu hút khách hàng tránh gây phiền hà trong việc vay vốn...
Bên cạnh đó phòng giao dịch đã thực hiện công tác phân tích tài chính trước khi cho vay để tìm ra những rủi ro tiềm ẩn nhằm nâng cao chất lượng tín dụng, đảm bảo an toàn vốn vay cho ngân hàng. Ngoài ra trong quá trình cho vay phòng giao dịch thực hiện công tác kiểm tra trước, trong và sau khi cho vay, mỗi một khoản vay đều có người chịu trách nhiệm tuy theo từng mức độ khác nhau.
Với một đội ngũ cán bộ có năng lực nhiệt tình công tác trong những năm qua phòng giao dịch đã đạt được những kết quả nhất định:
Nguồn vốn huy động qua các năm tăng trưởng khá cao tạo ra một lượng vốn lớn ổn định cho ngân hàng điều đó cho thấy phòng giao dịch đang dần từng bước thu hút được khách hàng. Đây là một trong những thành công lớn mà ngân hàng cần phát huy hơn nữa bởi huy động vốn là khâu mở đường cho hoạt động kinh doanh.
Công tác cho vay: Luôn kết hợp yếu tố phát triển kinh tế, an toàn vốn, tôn trọng pháp luật và có lợi nhuận. Trong thời gian qua từ năm 2006 đến năm 2008 doanh số cho vay của ngân hàng tăng lên đáng kể đặc biệt là năm 2008 tăng so với 2007 là 59 tỷ đáp ứng kịp thời nhu của khách hàng đem lại lợi nhuận cho ngân hàng, góp phần phát triển kinh tế đất nước.
Công tác thu nợ: Đây là hoạt động quan trọng quyết định đến sự tồn tại của ngân hàng. Thấy được tầm quan trọng của công tác này các bộ tín dụng tại ngân hàng đã tích cực trong việc đôn đốc, kiểm soát quá trình thu nợ. Kết qủa cho thấy sang năm 2008 doanh số thu nợ đạt 230 tỷ tăng 107 tỷ bằng 186,9% năm 2007.
Nợ quá hạn có giảm: Năm 2006 tỷ lệ nợ quá hạn/tổng dư nợ là 31% nhưng sang đến năm 2008 chỉ còn 21,7%.
2.3.2 Những vấn đề tồn tại:
Ngoài những thành tựu đạt đựơc hiện nay tại phòng giao dịch còn có một số tồn tại nhất định.
Nguồn vốn tăng trưởng chậm, chỉ đạt tốc độ tăng trưởng 8,5% so với đầu năm, đạt 48% so với kế hoạch năm 2008. Trong đó nguồn vốn nội tệ chỉ chiếm tỷ lệ 11% tổng nguồn vốn chưa đủ đáp ứng nhu cầu cho vay nội tệ của phòng giao dịch.
Việc xây dựng quy trình nghiệp vụ chậm, chưa đầy đủ, chất lượng các nghiệp vụ chưa đáp ứng được yêu cầu của khách hàng, quản lý của ngành còn sai sót chậm chễ. Tuy đã tích cực trong việc đôn đốc và thu nợ hàng tháng song tình trạng nợ quá hạn tại phòng giao dịch còn cao so với kế hoạch đặt ra, một số khoản vay phải chuyển sang nợ khoanh.
Mặc dù ngân hàng đã trang bị hệ thống máy vi tính nhưng chưa thực sự hiệu quả vì vậy trong thời gian tới cần thiết phải hiện đại hoá hệ thống thông tin quản lý điều hành, thanh toán nối mạng toàn quốc nhằm đảm bảo thông tin kịp thời, chính xác tăng hiệu quả kinh doanh và giảm bớt rủi ro... Năm 2008 là năm chuyển trụ sở của phòng giao dịch vì vậy lao động của ngân hàng còn đang trong thời kỳ củng cố, bổ sung nên thiếu nhiều ...
2.3.3 Nguyên nhân của những tồn tại trên:
* Nguyên nhân chủ quan :
Trong công tác tiếp thị: Mặc dù phòng giao dịch có một trụ sở ngay tại trung tâm thành phố thuận lợi hơn so với các ngân hàng khác song vẫn chưa thu hút được nhiều khách hàng, phong cách giao tiếp với khách hàng chưa thực sự được tốt nên chưa tạo được uy tín lớn trong lòng khách hàng.
Chưa có biện pháp tích cực và hiệu quả trong quản trị điều hành kinh doanh, chưa phối hợp chặt chẽ giữa các chuyên môn và các đoàn thể để tổ chức phong trào thi đua và nâng cao trách nhiệm của người lao động với nhiệm vụ của mình. Công tác kiểm tra sau khi cho vay của cán bộ tín dụng chủ yếu là xác định vốn vay, chưa thực sự đi sâu phân tích tài chính và biện pháp đảm bảo nợ vay và khả năng trả nợ của khách hàng nên hiệu quả chưa cao.
* Nguyên nhân khách quan:
Năm 2008 tình hình kinh tế khó khăn đã ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng, hơn nữa khách hàng của ngân hàng chủ yếu là các doanh nghiệp kinh doanh hàng nhập khẩu vì vậy khi nhu cầu nhập khẩu giảm dẫn đến dư nợ cho vay giảm.
Mặt khác do trên địa bàn Hà Nội đang có nhiều ngân hàng cùng hoạt động mức độ cạnh tranh giữa các ngân hàng ngày càng ngay gắt đã làm giảm dư nợ tại ngân hàng.
- Tỉ lệ nợ quá hạn còn ở mức cao - nguyên nhân gây ra là :
Trong những năm qua nền kinh tế có nhiều diễn biến phức tạp. Khi xây dựng sản xuất kinh doanh và đầu tư vốn, các doanh nghiệp chưa lường hết được hậu quả. Thêm vào đó là tình hình khủng hoảng tài chính tiền tệ trong khu vực đã làm cho nhiều doanh nghiệp sản xuất đình vốn, tài chính thua lỗ nên rất khó khăn, không có khả năng trả nợ .
Một số doanh nghiệp do đầu tư vốn lớn nhưng trình độ quản lý điều hành kinh doanh lại hạn chế, vay vốn ngân hàng lớn, vốn tự có thấp dẫn đến hoạt động kinh doanh không hiệu quả... Có những doanh nghiệp người điều hành vi phạm pháp luật bị khởi tố, doanh nghiệp phải ngừng hẳn hoạt động kinh doanh hoặc bị phá sản, giải thể làm cho nợ ngân hàng không thu hồi được.
Một số đơn vị có dư nợ lớn, vay nhiều ngân hàng công nợ nhiều, khó kiểm soát quá trình chu chuyển hàng hoá và các khoản công nợ phải thu, phải trả vì vậy nếu không có giải pháp quản lý hữu hiệu chất lượng tín dụng sẽ bị ảnh hưởng, dễ xẩy ra rủi ro.
Quy trình nghiệp vụ tín dụng ngoại tệ trước đây còn chưa hoàn chỉnh, chưa xác định rõ trách nhiệm trong từng khâu công việc biểu hiện:
Trước đây quy trình tín dụng được tiến hành như sau :
Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định và xin vay Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở xem xét hạch toán giải ngân xuống chi nhánh sau đó chi nhánh tiến hành cho doanh nghiệp vay.
Sau này chuyển sang hình thức: Doanh nghiệp làm đơn xin vay gửi lên chi nhánh, chi nhánh tiến hành thẩm định sau đó gửi hồ sơ đã thẩm định lên Sở Kinh Doanh Hối Đoái, Sở tái thẩm định và thực hiện cho vay trực tiếp.
Theo hình thức này do địa bàn xa, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh đa dạng nên công tác thu nợ kém, ngân hàng tiến hành bàn giao nợ cho các chi nhánh nhưng có chi nhánh Hải Phòng và Hà Tĩnh không nhận làm cho việc kiểm tra giám sát và đôn đốc xử lý thu hồi nợ không được thường xuyên dẫn đến hiệu quả thu nợ rất thấp. Trước tình hình đó ngân hàng tiến hành rà soát nợ, thực trạng sản xuất kinh doanh của khách hàng sau đó điều chỉnh kỳ hạn nợ. Việc gia hạn nợ vào những năm 2006 đã làm cho nợ quá hạn năm1998 giảm nhưng đến năm 2007,2008 thì những khoản nợ này lại đến hạn và hiện nay chưa có giải pháp khắc phục vì vậy nợ quá hạn trong những năm qua đang ở mức cao.
Dư nợ cho vay ngoại tệ từ ngày vay đến nay đang chịu ảnh hưởng bởi tỷ giá đồng USD so với đồng VND liên tục tăng. Trong khi đó doanh nghiệp không có nguồn thu về ngoại tệ làm cho tình hình tài chính của doanh nghiệp vay vốn càng khó khăn.
Đối với các doanh nghiệp ngoài quốc doanh bắt buộc phải có tài sản thế chấp, hầu hết các hợp đồng thế chấp tài sản vay ngoại tệ thông qua chi nhánh đều không qua công chứng nhà nước, tài sản thế chấp không còn đủ theo danh mục kê khai lúc vay vốn, giấy tờ gốc chứng minh quyền sử dụng đất và sở hữu tài sản bị thất lạc nhiều, không đảm bảo các thủ tục đã quy định. Mặc dù đã được khắc phục, chấn chỉnh nhưng vẫn chưa đảm bảo tính chất pháp lý. Việc phát mại tài sản thế chấp để thu hồi vốn gặp nhiều khó khăn vì thiếu hồ sơ không giải quyết dứt điểm được...
Để khắc phục những tồn tại nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thì có nhiều biện pháp khác nhau, tuỳ thuộc vào điều kiện và tình trạng kinh doanh của từng ngân hàng mà chúng ta có thể đưa ra những giải pháp khả thi
Các file đính kèm theo tài liệu này:
- Nâng cao chất lượng tín dụng tại phòng Giao Dịch - Ngân Hàng Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn Việt Nam chi nhánh Bách Khoa.DOC